TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
C ÁC NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI
Nghiên cứu của Maja, Iva và Josip (2015) đã phân tích lợi nhuận bền vững và các yếu tố quyết định lợi nhuận ngân hàng ở Croatia, trong giai đoạn 2002 đến
Nghiên cứu năm 2010 nhằm xác định sự tồn tại của lĩnh vực ngân hàng cá nhân tại Cộng hòa Croatia, sử dụng mô hình kết hợp ba nhóm yếu tố quyết định khả năng sinh lời: theo ngân hàng, theo ngành và kinh tế vĩ mô Biến quy mô ngân hàng có tác động tích cực đến lợi nhuận, cho phép các ngân hàng lớn đạt lợi thế về chi phí và hiệu quả hoạt động Ngược lại, biến rủi ro khả năng thanh toán, được đo bằng tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản, ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận Việc cải thiện quản lý rủi ro tín dụng và chính sách tín dụng có thể gia tăng lợi nhuận ngân hàng Chỉ số quản lý chi phí hoạt động cũng ảnh hưởng ngược chiều đến lợi nhuận, với việc giảm chi phí hoạt động nâng cao hiệu quả và lợi nhuận Tăng trưởng thị trường, được đo bằng GDP, có tác động tích cực đến lợi nhuận ngân hàng, nhờ vào sự gia tăng giám sát tài chính Tác động của lạm phát, thông qua chỉ số giá tiêu dùng, có thể vừa tích cực vừa tiêu cực, khi lãi suất cho vay cao có thể làm tăng lợi nhuận nhưng cũng gia tăng rủi ro trả nợ Phân tích cho thấy tất cả các biến số đều có ý nghĩa thống kê đối với lợi nhuận ngân hàng, cung cấp thông tin quan trọng cho các nhà ra quyết định Kết quả cho thấy các ngân hàng nên tận dụng quy mô và lợi thế chi phí để nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi nhuận.
Nghiên cứu của Garza (2010) đã chỉ ra rằng có nhiều yếu tố tác động đến lợi nhuận của các quốc gia đang phát triển và phát triển, trong đó bao gồm Australia, Brazil, Canada, Colombia, Slovakia, Tây Ban Nha, Hungary, Mexico, New Zealand và Peru.
Nghiên cứu về lợi nhuận trong ngành ngân hàng tại Ba Lan, Cộng hòa Séc, Anh và Mỹ từ năm 2001 đến 2008 dựa trên 3.020 quan sát, sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng với ước lượng GMM và chỉ số Lerner để đo lường mức độ cạnh tranh Phân tích kết quả được chia thành ba nhóm: các nước đang phát triển, các nước phát triển và toàn bộ mẫu Đối với nhóm các nước phát triển, các yếu tố chính ảnh hưởng đến lợi nhuận bao gồm chi phí hoạt động, an toàn vốn, rủi ro lãi suất, quy mô ngân hàng, tỷ lệ lạm phát, tăng trưởng kinh tế và thuế Ngược lại, ở các nước đang phát triển, các yếu tố quyết định là an toàn vốn, rủi ro tín dụng, chi phí dự trữ, hiệu quả chi phí và thuế Đặc biệt, chỉ số Lerner không cho thấy ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu này.
Nghiên cứu của Joseph và cộng sự (2020) đã phân tích tác động của rủi ro ngân hàng đối với hiệu quả lợi nhuận và lợi nhuận của các ngân hàng tại Ghana trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2020 Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng rủi ro ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của các tổ chức tài chính này.
Năm 2015, nghiên cứu về 32 ngân hàng ở Ghana cho thấy tỷ suất sinh lợi của ngành ngân hàng nước này thay đổi theo quy mô tài sản, với chi phí trung bình cũng biến động theo sản lượng Các ngân hàng đạt hiệu quả có điểm hiệu quả lợi nhuận là 61% Rủi ro tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu, trong khi rủi ro thị trường ảnh hưởng đến hiệu quả lợi nhuận và lợi nhuận trên tài sản Để tăng cường lợi nhuận, các nhà quản lý ngân hàng cần chú trọng đến quản lý rủi ro thanh khoản, rủi ro mất khả năng thanh toán và rủi ro vốn Các yếu tố như quy mô, độ tuổi, niêm yết trên sàn chứng khoán, hiệu quả chi phí và cạnh tranh cũng đã được thảo luận kỹ lưỡng.
Nghiên cứu của Tạp chí Nghiên cứu Kinh doanh và Kinh tế của Đại học Uludag (2011) đã phân tích các yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại tại Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn 2002-2010 Khả năng sinh lời được đo lường qua lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) Kết quả cho thấy quy mô tài sản và thu nhập ngoài lãi có tác động tích cực đến khả năng sinh lời, trong khi quy mô danh mục tín dụng và các khoản cho vay theo dõi lại ảnh hưởng tiêu cực Ngoài ra, chỉ có lãi suất thực là yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động tích cực đến hoạt động ngân hàng Nghiên cứu khuyến nghị rằng các ngân hàng có thể nâng cao khả năng sinh lời bằng cách mở rộng quy mô và tăng thu nhập ngoài lãi, đồng thời giảm tỷ lệ tín dụng trên tài sản.
Nghiên cứu của Ben (2011) mang tên “Các yếu tố quyết định lãi ròng ngân hàng lợi nhuận ở Tunisia” nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến biên lãi ròng của ngân hàng trong giai đoạn 1996-2005 thông qua phương pháp hồi quy hai bước nâng cao Kết quả cho thấy rằng các ngân hàng có lãi thường có quy mô hoạt động lớn, quản lý tốt và vốn cao Ngoài ra, chi phí hoạt động và vốn ngân hàng phù hợp với mô hình lý thuyết và có mối quan hệ tích cực với biên lãi ròng, trong khi khoản thanh toán lãi suất ngầm và chất lượng quản lý lại tác động ngược chiều đến biên lãi ròng.
Hamadi và Awdeh (2012) đã phân tích các yếu tố quyết định biên lãi ròng của ngân hàng Lebanon từ 1996-2009, sử dụng phương pháp hồi quy bảng và mô hình FEM Nghiên cứu cho thấy biên lãi suất giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài có sự khác biệt, với quy mô ngân hàng trong nước chịu tác động từ lãi suất tiền gửi, cho vay, lạm phát, và các yếu tố kinh tế vĩ mô khác Đặc biệt, tính thanh khoản ngân hàng ảnh hưởng ngược chiều đến tỷ suất lợi nhuận, trong khi lãi suất cho vay có mối quan hệ tích cực với GDP thực tế và lạm phát Đối với ngân hàng nước ngoài, quy mô, tính thanh khoản, vốn hóa và rủi ro tín dụng không có tác động đáng kể, và các yếu tố kinh tế vĩ mô trong nước cũng ảnh hưởng yếu hơn đến biên lãi suất của họ.
Nghiên cứu của Raja (2015) phân tích các yếu tố quyết định tỷ suất lợi nhuận ngân hàng ở Caucasus và Trung Á trong giai đoạn 1998 - 2013, sử dụng mô hình Ho và Saunder (1981) Tác giả chỉ ra rằng mức độ ngại rủi ro, được đo bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của ngân hàng vào các tài sản ít rủi ro hơn, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận thấp hơn Hiệu quả hoạt động của ngân hàng, được đo bằng tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng tài sản, cho thấy các ngân hàng kém hiệu quả thường yêu cầu tỷ suất lợi nhuận cao hơn Rủi ro tín dụng, xác định qua tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay trên tổng khoản cho vay, yêu cầu ngân hàng phải điều chỉnh biên lãi suất để bù đắp cho các dự án rủi ro Quy mô hoạt động, ước tính theo logarit của các khoản vay, cho thấy ngân hàng lớn có thể đạt được chênh lệch lãi suất thấp hơn nhưng cũng đối mặt với rủi ro lớn hơn Đa dạng hóa ngân hàng, đo bằng tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản, được kỳ vọng mang lại lợi ích tích cực Cuối cùng, dự trữ bắt buộc, tính bằng tỷ lệ tiền mặt và số dư tại ngân hàng trung ương trên tổng tài sản, có mối tương quan thuận với tỷ suất lợi nhuận, vì lượng dự trữ lớn hơn tạo ra chi phí cơ hội cao hơn và yêu cầu chênh lệch lớn hơn để bù đắp cho khoản lãi bị thiếu.
Nghiên cứu của Kasman và cộng sự (2010) về tỷ suất lợi nhuận ròng của ngân hàng thương mại trong các nước thành viên EU mới từ 1995 đến 2006 cho thấy rằng quy mô ngân hàng, quy mô hoạt động cho vay, tăng trưởng kinh tế và hiệu quả quản lý chi phí có ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ suất lợi nhuận ròng Sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS) và mô hình hồi quy các yếu tố cố định (FEM), nghiên cứu nhấn mạnh rằng các cơ quan quản lý cần thúc đẩy hoạt động mua bán sáp nhập để tăng quy mô và hiệu quả của ngân hàng Khai thác lợi thế quy mô là yếu tố quan trọng giúp giảm chênh lệch lãi suất trong ngành ngân hàng, trong khi các yếu tố như chi phí hoạt động, rủi ro tín dụng, rủi ro mặc định, an toàn vốn và quy mô tiền gửi đều có mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa thống kê với lợi nhuận.
Nghiên cứu của Rami và Mohammad (2017) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của 19 ngân hàng thương mại tại Jordan trong giai đoạn 2005 - 2015 Kết quả cho thấy tỷ suất lợi nhuận ròng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố bên ngoài hơn là bên trong Cụ thể, vốn chủ sở hữu, hiệu quả quản lý và tăng trưởng kinh tế đều có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê đến lợi nhuận Các yếu tố như quy mô ngân hàng, quy mô cho vay và dự phòng rủi ro tín dụng cũng có tác động tích cực nhưng không đạt mức ý nghĩa thống kê Ngược lại, quy mô huy động vốn và lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận, với quy mô huy động vốn có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.
C ÁC NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Nghiên cứu của Lê Văn Lễ (2020) về "Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam" đã phân tích dữ liệu trong 13 năm từ 2007 đến 2019, cho 26 ngân hàng thương mại cổ phần Lợi nhuận được đo bằng lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), trong khi các yếu tố nội tại như quy mô ngân hàng, rủi ro tín dụng, vốn chủ sở hữu, thanh khoản, chi phí hoạt động, và tiền gửi là các biến độc lập Ngoài ra, các yếu tố bên ngoài như mức độ tập trung của ngân hàng, tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát và tỷ giá hối đoái cũng được xem xét Kết quả cho thấy quy mô ngân hàng, rủi ro tín dụng, vốn chủ sở hữu và chi phí hoạt động là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến ROA, trong khi quy mô ngân hàng và chi phí hoạt động có tác động tích cực đến ROE Đối với các yếu tố bên ngoài, mức độ tập trung của ngân hàng, tăng trưởng kinh tế và tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đáng kể đến ROA, nhưng chỉ tỷ lệ lạm phát không có tác động đáng kể đến ROE.
Nghiên cứu của Hồ Thị Lam và cộng sự (2017) đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam, sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính và Thống kê tài chính quốc tế của IMF trong giai đoạn 2007 - 2015 Kết quả cho thấy tỷ suất vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, thị phần, tỷ suất chi phí hoạt động trên tổng tài sản và tỷ suất chi phí dự phòng rủi ro trên tổng nợ là những yếu tố quan trọng tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng Ngược lại, thời gian hoạt động, tỷ suất chi phí dự phòng rủi ro trên tổng nợ và tỷ suất chi phí hoạt động trên tổng tài sản lại có ảnh hưởng tiêu cực Nghiên cứu cung cấp những gợi ý chính sách cho các nhà quản trị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Nghiên cứu của La Thanh Hữu (2019) về “Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam” phân tích tác động của nhiều yếu tố đến lợi nhuận của 22 ngân hàng thương mại trong nước Tác giả sử dụng mô hình kinh tế lượng để đánh giá dữ liệu từ báo cáo tài chính, chỉ ra rằng chi phí hoạt động thấp và các chỉ số thanh khoản, tăng trưởng tài sản có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sinh lời Để tăng cường lợi nhuận, tác giả đề xuất các giải pháp như phát triển quy mô ngân hàng thông qua tăng trưởng vốn chủ sở hữu bền vững, điều chỉnh chi phí hoạt động, đảm bảo khả năng thanh khoản, tăng trưởng tỷ lệ dư nợ cho vay trong khi kiểm soát nợ xấu, và đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ Nghiên cứu dựa trên 242 quan sát từ 22 ngân hàng trong giai đoạn 2007 - 2017, tuy nhiên vẫn có một số hạn chế do sự sáp nhập ngân hàng và dữ liệu không đầy đủ từ các ngân hàng nhỏ.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Liễu (2018) về các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2017 đã chỉ ra rằng quy mô ngân hàng, tính thanh khoản, sự phát triển của ngành ngân hàng, lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ tích cực với lợi nhuận Ngược lại, rủi ro tín dụng, thuế phải nộp và mức độ tập trung ngành ngân hàng lại có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng và mô hình hồi quy dữ liệu bảng với mẫu 26 ngân hàng thương mại cổ phần và áp dụng phương pháp ước lượng tổng quát GMM.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Diễm Hiền và Nguyễn Hồng Hạt (2016) về thu nhập ngoài lãi và hiệu quả tài chính của 33 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong giai đoạn 2006 - 2013 cho thấy thu nhập ngoài lãi phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản, logarit tự nhiên tổng tài sản, và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản Cụ thể, biến tăng trưởng tài sản và tỷ lệ vốn chủ sở hữu có mối quan hệ cùng chiều với thu nhập ngoài lãi, trong khi tỷ lệ cho vay và các yếu tố khác như tỷ lệ thu nhập lãi có mối quan hệ ngược chiều Đối với hiệu quả tài chính, thu nhập ngoài lãi và tỷ lệ thu nhập lãi trên tổng tài sản có tác động tích cực, trong khi logarit tự nhiên tổng tài sản và tỷ lệ vốn chủ sở hữu lại có tác động tiêu cực đến ROA Sự biến động của hiệu quả tài chính cũng chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như thu nhập ngoài lãi và tỷ lệ vốn chủ sở hữu, cho thấy mối liên hệ phức tạp giữa các yếu tố tài chính trong ngân hàng.
Nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn (2018) về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại tại một số nước Đông Nam Á sử dụng mô hình hồi quy GMM và dữ liệu từ 98 ngân hàng thương mại ở 6 quốc gia trong giai đoạn 2005 - 2017 Kết quả cho thấy khả năng sinh lợi ngân hàng thương mại chỉ có ý nghĩa thống kê ở Việt Nam, với các yếu tố như quy mô vốn chủ sở hữu, mức độ đa dạng hóa, quy mô ngân hàng, rủi ro tín dụng, mức độ tập trung ngành, hoạt động huy động tiền gửi và cho vay, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự phát triển hệ thống tài chính, tỷ lệ dự trữ, luật lệ bảo vệ nhà đầu tư và rủi ro mất khả năng thanh toán ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi Đặc biệt, mối quan hệ giữa vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lợi là phi tuyến hình chữ U ngược, trong khi các yếu tố khác như quy mô, rủi ro tín dụng và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều với khả năng sinh lợi Ngược lại, mức độ đa dạng hóa thu nhập, mức độ tập trung ngành ngân hàng, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và luật lệ bảo vệ nhà đầu tư lại có mối quan hệ ngược chiều với khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO TÍN DỤNG
G IỚI THIỆU NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN V IỆT N AM
Ngân hàng thương mại đã phát triển song song với kinh tế hàng hóa, đóng vai trò quan trọng trong sự tiến bộ của hệ thống kinh tế này Sự hoàn thiện của ngân hàng thương mại không chỉ hỗ trợ nền kinh tế thị trường mà còn mang lại lợi ích cho cả người gửi và người vay tiền thông qua hoạt động tín dụng, giúp ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất.
Theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức tín dụng có quyền thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng cùng với các hoạt động kinh doanh liên quan, nhằm mục tiêu lợi nhuận Điều này được quy định rõ trong Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM.
Theo tạp chí khoa học ngân hàng: Chức năng của ngân hàng thương mại bao gồm:
Chức năng trung gian tín dụng là một trong những vai trò quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, giúp kết nối người thừa vốn với người cần vốn Ngân hàng thương mại không chỉ nhận tiền gửi mà còn cho vay, thu lợi từ chênh lệch lãi suất giữa hai hoạt động này Hoạt động cho vay không chỉ mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng mà còn tạo ra lợi ích cho cả người gửi tiền và người vay, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò trung gian thanh toán, giúp các doanh nghiệp và cá nhân thực hiện thanh toán một cách thuận tiện và an toàn NHTM thực hiện các yêu cầu thanh toán từ khách hàng, như trích tiền từ tài khoản để thanh toán hàng hóa, dịch vụ hoặc nhận tiền thu bán hàng Với nhiều phương tiện thanh toán như séc, ủy nhiệm chi, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán và thẻ tín dụng, khách hàng có thể dễ dàng chọn phương thức phù hợp với nhu cầu của mình Nhờ đó, các chủ thể kinh tế không cần phải mang theo tiền mặt, tiết kiệm thời gian và chi phí, đồng thời đảm bảo an toàn trong thanh toán Chức năng này góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phát triển kinh tế bằng cách tăng tốc độ thanh toán và lưu chuyển vốn.
Chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại (NHTM) là một yếu tố quan trọng, phản ánh bản chất của NHTM trong việc tìm kiếm lợi nhuận để tồn tại và phát triển Chức năng này được thực hiện thông qua hai chức năng chính: tín dụng và thanh toán NHTM sử dụng vốn huy động để cho vay, giúp khách hàng sử dụng số tiền này để mua sắm và thanh toán dịch vụ, trong khi số dư tài khoản tiền gửi vẫn được coi là một phần của tiền giao dịch Nhờ đó, NHTM đã tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu chi trả của xã hội Tuy nhiên, khả năng tạo tiền của NHTM còn phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định, và ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh tỷ lệ này khi cung tiền vào nền kinh tế tăng lên.
Đến năm 2020, trong số 31 ngân hàng hoạt động, có 18 ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, trong đó 10 cổ phiếu giao dịch trên sàn HOSE (VCB, CTG, BID, TCB, MBB, VPB, HDB, EIB, STB, TPB), 3 cổ phiếu trên sàn HNX (ACB, SHB, NVB) và 5 cổ phiếu trên sàn UPCOM (LPB, VIB, VBB, BAB, KLB) Vốn điều lệ của các ngân hàng dao động từ 3.000 tỷ đồng của PG Bank đến 37.234 tỷ đồng của VietinBank.
Trong bối cảnh khủng hoảng do đại dịch COVID-19, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức như gia tăng nợ xấu, cạnh tranh trong ngành, hạ tầng công nghệ chưa đáp ứng nhu cầu, và áp lực tăng vốn điều lệ Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn này, ngân hàng cũng có những thuận lợi như môi trường kinh doanh ổn định, sự gia tăng đầu tư vào công nghệ số, chính sách hỗ trợ từ nhà nước, lợi nhuận từ dịch vụ phi tín dụng gia tăng, cùng với việc thực hiện hiệp định thương mại tự do EVFTA.
L ỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ngân hàng thương mại, theo Tạp chí khoa học ngân hàng, là tổ chức kinh doanh tiền tệ với mục tiêu lợi nhuận Chức năng chính của ngân hàng thương mại bao gồm nhận tiền gửi từ khách hàng, cấp tín dụng, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và cung cấp dịch vụ thanh toán Hoạt động của ngân hàng dựa trên chế độ hạch toán kinh tế, cho phép thực hiện nhiều loại nghiệp vụ như nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn, cung cấp dịch vụ thanh toán, và huy động vốn thông qua phát hành chứng chỉ nhận nợ.
Lợi nhuận ngân hàng được hình thành từ chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi, sau khi đã trừ đi chi phí hoạt động và cộng với các thu nhập khác từ kinh doanh tiền tệ Nguyên tắc cơ bản là lợi tức cho vay luôn phải cao hơn lợi tức nhận gửi Do đó, lợi nhuận ngân hàng đến từ nhiều nguồn khác nhau, phản ánh sự hiệu quả trong quản lý tài chính và hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Trao đổi ngoại tệ là một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên trong lịch sử, cho phép ngân hàng mua bán một loại tiền tệ để lấy một loại tiền khác và thu phí dịch vụ Dịch vụ này đặc biệt quan trọng đối với khách du lịch Hiện nay, giao dịch mua bán ngoại tệ diễn ra phổ biến tại nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng lớn trong thị trường tài chính.
Trong hoạt động ngân hàng, cho vay là một nguồn sinh lời quan trọng, do đó các ngân hàng luôn tìm kiếm nhiều phương thức huy động vốn Một trong những nguồn vốn thiết yếu là tiền gửi tiết kiệm từ khách hàng, nơi họ gửi tiền tại ngân hàng theo các kỳ hạn tháng hoặc năm để nhận lãi suất.
Ngân hàng cung cấp tài khoản giao dịch, cho phép khách hàng viết séc thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ Dịch vụ này đã được thực hiện từ lâu và hiện nay trở nên phổ biến tại nhiều ngân hàng.
Ngân hàng hiện nay cung cấp dịch vụ ủy thác, bao gồm quản lý tài sản và hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp Dịch vụ này thu phí dựa trên giá trị tài sản hoặc quy mô quản lý Có hai loại dịch vụ ủy thác: một cho cá nhân/hộ gia đình và một cho các doanh nghiệp thương mại, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Cho vay vốn là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn cho các ngân hàng, với nhiều sản phẩm đa dạng như vay tiêu dùng, vay kinh doanh, vay mua nhà, và tài trợ dự án Đây không chỉ là nguồn vốn chủ yếu mà còn là một trong những nguồn thu quan trọng nhất của ngân hàng.
Vào thứ Sáu, quản lý tiền mặt trở thành một dịch vụ quan trọng mà các ngân hàng cung cấp cho các doanh nghiệp Họ đảm nhận việc thu và chi tiền cho công ty, đồng thời đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn Điều này giúp tối ưu hóa nguồn vốn cho đến khi khách hàng cần rút tiền để thanh toán.
Cho thuê tài chính, một hình thức cho thuê tài sản, là hoạt động tín dụng trung hạn và dài hạn dựa trên hợp đồng giữa công ty cho thuê tài chính và khách hàng thuê, thường là các doanh nghiệp Tài sản cho thuê có thể bao gồm máy móc, thiết bị, và phương tiện vận chuyển Trong suốt thời gian thuê, các bên không được phép đơn phương hủy bỏ hợp đồng.
Ngân hàng hiện nay cung cấp dịch vụ bán bảo hiểm tín dụng, nhằm đảm bảo hoàn trả khoản vay trong trường hợp khách hàng gặp rủi ro lớn như tử vong Thông qua các liên doanh hoặc thỏa thuận đại lý độc quyền, ngân hàng hợp tác với công ty bảo hiểm để đặt văn phòng đại lý ngay tại cơ sở của mình, từ đó nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ bảo hiểm này.
Trong quản trị tài chính ngân hàng thương mại, mục tiêu lợi nhuận được thể hiện qua hai chỉ số quan trọng: tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROAA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân (ROEA) Những chỉ số này giúp đánh giá khả năng tạo ra lợi nhuận của ngân hàng một cách hiệu quả.
ROAA là chỉ số lợi nhuận cho biết lợi nhuận ròng ngân hàng đạt được từ một đồng đầu tư vào tổng tài sản.
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản = — ,, \— -—
Tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản bình quân (ROAA) là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của ngân hàng, vì mọi tài sản đều được xem là khoản đầu tư Một ROA thấp có thể chỉ ra rằng ngân hàng đang áp dụng chính sách đầu tư hoặc cho vay không hiệu quả, hoặc chi phí hoạt động quá cao Ngược lại, ROA cao cho thấy ngân hàng đã xây dựng cơ cấu tài sản hợp lý và thực hiện chính sách kinh doanh cũng như đầu tư hiệu quả.
ROEA là chỉ số lợi nhuận cho biết lợi nhuận ròng ngân hàng đạt được từ một đồng vốn chủ sở hữu.
Tông dư nợ xấu và tông dư nợ cho vay bình quân (ROEA) là những chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu trong ngân hàng ROEA cho biết số tiền lợi nhuận ròng mà một đơn vị vốn chủ sở hữu có thể tạo ra, với ROE cao là mục tiêu hàng đầu mà mọi chủ sở hữu ngân hàng hướng tới.
Các chỉ tiêu ROA và ROE là công cụ quan trọng giúp các nhà quản trị và nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng Chúng phản ánh khả năng và thời gian thu hồi vốn đầu tư của chủ sở hữu Hiệu quả sử dụng vốn và tài sản cao sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng quy mô vốn và nâng cao năng lực tài chính.
2.2.2 Yeu tố tác động đến lợi nhuận
Rủi ro tín dụng (CRISK) được xác định qua tỷ lệ nợ xấu, bao gồm nợ nhóm 3 (dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn), theo hướng dẫn tại thông tư 02/2013/TT-NHNN, trên tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại niêm yết Rủi ro này phát sinh khi khách hàng không tuân thủ các điều khoản hợp đồng tín dụng, thể hiện qua việc chậm trả nợ, trả nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ đúng hạn, dẫn đến tổn thất tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
R ỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Theo quan điểm của Việt Nam, rủi ro tín dụng được định nghĩa trong quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và thông tư 02/2013/TT-NHNN là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng Điều này xảy ra khi khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Rủi ro tín dụng, theo quan điểm quốc tế, là khả năng xảy ra tổn thất về thu nhập hoặc vốn của các định chế tài chính khi khách hàng không thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng tín dụng Điều này có thể dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động tài chính và sự ổn định của các tổ chức tín dụng.
Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại là quá trình thiết lập và thực hiện các chiến lược cùng chính sách quản lý tín dụng, nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững cho hoạt động kinh doanh.
Trong quản trị tài chính, mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận thể hiện qua việc ngân hàng thương mại cấp tín dụng cho khách hàng với kỳ vọng mang lại lợi nhuận Tuy nhiên, lợi nhuận thực tế có thể cao, bằng hoặc thấp hơn kỳ vọng, phụ thuộc vào rủi ro tín dụng Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nợ xấu và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng Khi tỷ lệ nợ xấu hoặc chi phí dự phòng tăng, chất lượng hoạt động tín dụng suy giảm, dẫn đến rủi ro tín dụng gia tăng và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh Ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn, làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận ròng Do đó, quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả sẽ giúp ngân hàng đạt được lợi nhuận như kỳ vọng, trong khi rủi ro tín dụng cao sẽ kéo theo lợi nhuận thấp hơn.
2.3.2 Yeu tố tác động đến rủi ro tín dụng
Nghiên cứu tại tạp chí Quản lý và Kinh tế Quốc tế số 89 đã xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng dựa trên hồ sơ vay vốn của khách hàng Các yếu tố này bao gồm phương án kinh doanh, tình hình tài chính và tài sản thế chấp Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng và từ đó ảnh hưởng đến quyết định cho vay của các tổ chức tín dụng.
Năng lực tài chính của khách hàng được xác định bằng tỷ lệ vốn tự có tham gia vào phương án kinh doanh so với tổng số vốn cần thiết Khi khách hàng có khả năng tài chính cao, rủi ro liên quan đến các khoản vay sẽ giảm thiểu đáng kể.
Tài sản đảm bảo là tỷ lệ giữa số tiền vay và tổng giá trị tài sản được sử dụng để đảm bảo cho khoản vay đó Khi tỷ lệ tài sản đảm bảo cao, tức là số tiền vay lớn hơn so với tổng tài sản, sẽ dẫn đến việc tăng rủi ro tín dụng.
Sử dụng vốn vay đúng mục đích giúp giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh của khách hàng vay vốn cũng góp phần làm giảm rủi ro tín dụng, tạo sự ổn định cho hoạt động tài chính.
Kiểm tra và giám sát vốn vay là yếu tố quan trọng trong việc quản lý rủi ro tín dụng Số lần kiểm tra trước khi khoản vay trở thành nợ xấu càng nhiều, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng sẽ càng thấp Cán bộ tín dụng có kinh nghiệm sẽ giúp nâng cao hiệu quả của quá trình này.
2.3.3 Thực trạng rủi ro tín dụng các ngân hàng thương mại
Trong thời gian qua, hệ thống tổ chức tín dụng tại Việt Nam đã đạt được sự ổn định cơ bản, với năng lực tài chính và quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại (NHTM) có những chuyển biến tích cực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế Khung pháp lý về chuẩn mực an toàn của các tổ chức tín dụng (TCTD) đã được cải thiện, tiến gần đến các chuẩn mực ngân hàng quốc tế, tạo nền tảng cho hoạt động an toàn hơn và thúc đẩy tái cấu trúc Các NHTM Việt Nam đang triển khai áp dụng chuẩn an toàn vốn Basel II theo lộ trình Tuy nhiên, quản trị rủi ro vẫn là vấn đề cần được chú trọng, đặc biệt khi hệ thống ngân hàng đang đối mặt với tỷ lệ nợ xấu cao so với chuẩn quốc tế Kể từ năm 2018, cho vay khách hàng của các NHTM đã tăng, kéo theo sự biến động tương ứng của nợ xấu.
PHƯƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ M Ô HINH NGHIÊN CỨU .22 3.1 C ÁC BƯỚC NGHIEN CỨU
D Ữ LIỆU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu công khai từ báo cáo của 14 ngân hàng thương mại niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam.
Trong giai đoạn 2010 - 2020, nghiên cứu đã sử dụng 91 mẫu từ 14 ngân hàng để tính toán các chỉ số cần thiết Thông tin về các biến được thu thập từ Báo cáo tài chính, Báo cáo thường niên và Bản cáo bạch tài chính của các ngân hàng thương mại Các báo cáo đã được kiểm toán này được công bố trên các trang như CafeF, Vietstock và hệ thống dữ liệu FiinPro.
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ các ngân hàng thương mại niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, với quy mô ngân hàng được xác định bằng tổng tài sản bình quân hàng năm Để giảm thiểu sự chênh lệch lớn giữa các số liệu, nghiên cứu áp dụng phép logarit Tổng tài sản bình quân và vốn chủ sở hữu bình quân được tính dựa trên trung bình số liệu đầu năm và cuối năm của mỗi ngân hàng Biến lợi nhuận sau thuế được thu thập từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong báo cáo tài chính hàng năm của các ngân hàng.
Biến phụ thuộc trong ngân hàng được xác định thông qua lợi nhuận sau thuế, tính trên tổng tài sản bình quân và tổng vốn chủ sở hữu bình quân.
M Ô HÌNH NGHIÊN CỨU
Mô hình nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng, được đo bằng ROAA và ROEA, với bảy biến độc lập Rủi ro tín dụng (CRISK) là biến chính, trong khi các biến kiểm soát bao gồm quy mô ngân hàng (BSIZE), quy mô cho vay (LOAN), quy mô vốn chủ sở hữu (EQUITY), tỷ lệ cho vay trên vốn huy động (LDR), chỉ số tăng trưởng GDP (GDP) và tỷ lệ lạm phát (INF).
Biến phụ thuộc Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản bình quân ROAA
Lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân ROEA
Rủi ro tín dụng CRISK
Quy mô ngân hàng BSIZE
Quy mô cho vay LOAN
Quy mô vốn chủ sở hữu EQUITY
Tỷ lệ cho vay trên vốn huy động LDR
Tỷ lệ lạm phát INF
Bảng 3 1: Bảng tổng hợp các biến trong mô hình
1 ROAAlt = β 0 + β 1 * CRISKlt + β 1,1 * BSIZElt + β 1 2 * LOANlt + β 13 * EQUITYlt + β 1.4 * LDR it + β 1.5 * GDP it + β 1.6 * INF it + εi t
2 ROEAlt = β 0 + β1 * CRISKlt + β 2 * BSIZElt + β 2 1 * LOANlt + β 2 2 * EQUITY it + β 2.3 * LDR it + β 2.4 * GDP it + β 2.5 * INF it + ε it
Trong đó: β 0 : Hệ số chặn β i : Các hệ số ước lượng ε : Sai số ngẫu nhiên của mô hình i: Ngân hàng i t: Năm t
3.4.2 Tính toán và đưa ra các biến trong mô hình
Bài nghiên cứu phân tích dữ liệu từ 14 ngân hàng cổ phần thương mại niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2010-2020, với mẫu nghiên cứu gồm 91 quan sát Nghiên cứu xác định 9 biến, trong đó có 2 biến phụ thuộc là tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản bình quân (ROAA) và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân (ROEA), 1 biến độc lập là rủi ro tín dụng (CRISK) và 6 biến kiểm soát bao gồm quy mô ngân hàng (BSIZE), quy mô cho vay (LOAN), quy mô vốn chủ sở hữu (EQUITY), tỷ lệ cho vay trên vốn huy động (LDR), chỉ số tăng trưởng GDP (GDP) và tỷ lệ lạm phát (INF) Bài nghiên cứu cung cấp giải thích chi tiết về từng biến được phân tích.
Biến rủi ro tín dụng (CRISK) phản ánh chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM) thông qua tỷ lệ nợ xấu tăng, bao gồm nợ nhóm 3 (dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) Khi các nhóm nợ này gia tăng, việc thu hồi nợ trở nên khó khăn hơn, dẫn đến tăng chi phí và giảm lợi nhuận ròng của NHTM Do đó, quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả là yếu tố quan trọng để đảm bảo lợi nhuận cho NHTM; ngược lại, sự gia tăng rủi ro tín dụng sẽ làm giảm lợi nhuận CRISK được tính bằng tỷ lệ dư nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay, giúp chuẩn hóa các biến trong mô hình nghiên cứu và đưa ra nhận định chính xác hơn.
Quy mô ngân hàng thương mại (BSIZE) có ảnh hưởng lớn đến chi phí và lợi nhuận Ngân hàng có quy mô lớn thường giảm chi phí dài hạn, từ đó gia tăng lợi nhuận Tuy nhiên, theo lý thuyết bất lợi kinh tế về quy mô, lợi thế quy mô chỉ tồn tại trong một giới hạn nhất định Khi ngân hàng vượt qua ngưỡng này, chi phí bình quân có xu hướng gia tăng, dẫn đến giảm lợi nhuận.
Quy mô ngân hàng ảnh hưởng đến lợi nhuận tùy thuộc vào sự phù hợp của quy mô hiện tại và hai lý thuyết liên quan Quy mô ngân hàng (BS ZE) được xác định qua tổng tài sản bình quân, bao gồm tài sản ngắn hạn và dài hạn Để giảm thiểu chênh lệch lớn giữa các số liệu, nghiên cứu đã sử dụng logarit của BSIZE, ký hiệu là ln(BSIZE).
Quy mô cho vay (LOAN) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh tài sản hình thành từ quyết định đầu tư của ngân hàng thương mại (NHTM), đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra lợi nhuận cho NHTM Quy mô cho vay càng lớn sẽ mở ra nhiều cơ hội gia tăng lợi nhuận Tuy nhiên, theo lý thuyết về rủi ro và lợi nhuận, nếu thị trường chứa đựng nhiều rủi ro và khả năng kiểm soát rủi ro tín dụng kém, sự gia tăng quy mô cho vay có thể tác động tiêu cực đến lợi nhuận của NHTM Quy mô cho vay được tính bằng dư nợ cho vay trên tổng tài sản bình quân, với dữ liệu dư nợ lấy từ chỉ tiêu cho vay khách hàng trong bảng cân đối kế toán, và tỷ số này được trình bày dưới dạng số để đồng bộ với định dạng mô hình.
Quy mô vốn chủ sở hữu (EQUITY) không trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận, nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong việc huy động và sử dụng vốn của ngân hàng thương mại (NHTM) Việc gia tăng vốn chủ sở hữu giúp ngân hàng củng cố tài chính, tăng cường niềm tin từ người gửi tiền và mở ra cơ hội huy động vốn với lãi suất thấp hơn, từ đó giảm chi phí trả lãi và gia tăng lợi nhuận Ngoài ra, vốn chủ sở hữu lớn hơn cũng tạo điều kiện cho NHTM mở rộng hoạt động đầu tư và cấp tín dụng, dẫn đến việc tăng trưởng lợi nhuận Tỷ lệ giữa tổng vốn chủ sở hữu và tổng tài sản thường xuyên biến động qua các năm, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa hai yếu tố này.
Tỷ lệ cho vay trên tổng vốn huy động (LDR) là chỉ số quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại, phản ánh mức độ sử dụng vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng để cho vay, nhằm tạo ra doanh thu từ chênh lệch lãi suất Việc quản lý LDR không chỉ thuộc về trách nhiệm của ngân hàng mà còn được quy định bởi pháp luật, nhằm kiểm soát tăng trưởng tín dụng và hạn chế nợ xấu, đồng thời hướng đến các lĩnh vực ưu tiên theo khuyến nghị của Chính phủ Tỷ lệ này được tính toán từ số liệu cho vay khách hàng và tiền gửi của khách hàng trong bảng cân đối kế toán đã được kiểm toán.
Chỉ số tăng trưởng GDP hàng năm phản ánh mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và lợi nhuận ngân hàng, liên quan đến nguồn nhân lực, tài nguyên, tư bản và công nghệ Đội ngũ nhân viên chất lượng, với kiến thức và chuyên môn cao, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng Các ngân hàng có tiềm năng nguồn nhân lực thường đạt lợi nhuận cao hơn Bên cạnh đó, việc đầu tư vào máy móc và công nghệ cũng góp phần nâng cao năng suất, tiết kiệm thời gian và công sức, từ đó gia tăng lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại.
Chỉ số lạm phát (INF) phản ánh sự gia tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian, dẫn đến sự mất giá trị của tiền tệ Lạm phát biểu hiện qua sự biến động giá cả của một rổ hàng hóa với tỷ trọng khác nhau trong nền kinh tế Khi lạm phát tăng, lãi suất của hệ thống ngân hàng thương mại cũng tăng theo, nhằm duy trì lãi suất thực ổn định và dương.
BIẾN Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn