Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống
1
/ 17 trang
THÔNG TIN TÀI LIỆU
Thông tin cơ bản
Định dạng
Số trang
17
Dung lượng
450,24 KB
Nội dung
PhápluậtvềviênchứcởViệtNamtrongthời
kỳ hộinhập
Lê Thị Quỳnh Nga
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và phápluật
Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trịnh Đức Thảo
Năm bảo vệ: 2011
Abstract. Trình bày cơ sở lý luận của phápluậtvềviên chức; chỉ ra sự khác biệt
giữa viênchức với cán bộ, công chức. Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và
thực trạng phápluậtvềviênchứcởViệt Nam. Đưa ra quan điểm và giải pháp hoàn
thiện và tổ chức thực hiện phápluậtvềviênchứctrongthờikỳhộinhậpởViệt Nam.
Keywords. Viên chức; Luật hành chính; PhápluậtViệt Nam; Thờikỳhộinhập
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản ViệtNam khởi xướng và lãnh
đạo đã trải qua hơn 20 năm kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng. Với
tinh thần đổi mới, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNam đã và đang từng bước đổi
mới, hoàn thiện, nhằm đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ViệtNam
còn nhiều hạn chế, trong đó có lĩnh vực viên chức. Việc tổ chức hoạt động cung cấp các dịch
vụ công chưa hiệu quả, hiệu lực thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu
của nhân dân, mà ở đây còn có nguyên nhân là một bộ phận viênchức năng lực, phẩm chất
chưa đáp ứng được các yêu cầu đòi hỏi của thờikỳ đổi mới, của quá trình hộinhập khu vực
và quốc tế.
Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình hình trên là: ở nước ta, phápluậtvềviên
chức đến nay chưa đầy đủ, còn nhiều vấn đề chưa được điều chỉnh rõ ràng như: các quy định của
pháp luậtvề quyền, nghĩa vụ của viên chức, về các nguyên tắc trong hoạt động nghề nghiệp của
viên chức, các nguyên tắc quản lý viên chức, chức danh nghề nghiệp của viênchức Vì vậy chưa
có một hệ thống cơ sở pháp lý đầy đủ, hoàn thiện để xây dựng và đánh giá năng lực của đội ngũ
viên chức.
Theo dự báo, trong tương lai, đội ngũ viênchức sẽ lên đến hàng triệu người, mới có thể đáp
ứng được yêu cầu phục vụ nhân dân, phục vụ cộng đồng ở các lĩnh vực: giáo dục, đào tạo, y tế,
khoa học, công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao, du lịch, lao động - thương binh và xã hội, thông
tin - truyền thông, tài nguyên - môi trường…
Vì vậy, việc chọn đề tài: "Pháp luậtvềviênchứcởViệtNamtrongthờikỳhội nhập"
làm đề tài luận văn cao học luật là đáp ứng nhu cầu thực tiễn đang đặt ra hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, ởViệtNam việc nghiên cứu phápluậtvề cán bộ, công chức nói
chung và viênchức nói riêng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và đã có một số
công trình khoa học được công bố. Các công trình này chủ yếu đề cập những vấn đề cơ bản
của cán bộ, công chức như cán bộ, công chức; đặc điểm của cán bộ, công chức; phân loại
công chức : Tô Tử Hạ: "Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện
nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Phạm Hồng Thái: "Cán bộ, công chức", Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2004; Nguyễn Đăng Dung: "Công chức và cải cách bộ máy hành chính nhà
nước", Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 9, 2006
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu khác đề cập đến vấn đề công vụ, công chức:
"Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trongthờikỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", của PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS. Trần Xuân
Sầm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; "Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức", của Đinh Văn Mậu, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 8, 2003;
"Hoàn thiện chế định phápluậtvề công vụ, công chứcởViệtNam hiện nay", của Lương Thanh
Cường, Luận án tiến sĩ luật học, 2008; "Cán bộ, công chức, viênchức theo pháp lệnh cán bộ,
công chức", của ThS. Bùi Thị Đào, Tạp chí Luật học, số 12/2006
Các công trình khoa học trên chủ yếu đề cập giải quyết các vấn đề về công chức nói
chung, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu phápluậtvềviên chức.
Do vậy, cần phải đặt vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, quá trình hình
thành và phát triển của phápluậtvềviên chức, chỉ ra những đặc điểm, tiêu chuẩn của viên
chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
viên chức nói chung và phápluậtvềviênchức nói riêng. Đây cũng là một trong các lý do đề tài:
"Pháp luậtvềviênchứcở Việt Namtrongthờikỳhội nhập" được chọn để nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Từ sự phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng của phápluậtvềviênchứcởViệt
Nam, luận văn đề xuất các giải phápvề hoàn thiện và tổ chức thực hiện phápluậtvềviên
chức trongthờikỳhội nhập.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích và đưa ra khái niệm, đặc điểm, phân loại viên chức.
- Phân tích và đưa ra khái niệm, nội dung điều chỉnh và mối quan hệ của phápluậtviên
chức.
- Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và thực trạng phápluậtviênchức hiện hành.
- Nghiên cứu các quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp
luật viênchứcởViệtNam hiện nay để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức,
cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng đòi hỏi của phápluậtthờikỳhội nhập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của phápluậtvềviênchứcởViệt
Nam, có tham khảo phápluậtvềviênchức của một số quốc gia trên thế giới.
- Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu vào hệ thống phápluậtvềviênchứctrong các
đơn vị sự nghiệp công lập ởViệt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản ViệtNamvề lý luận chung về nhà nước và
pháp luật nói chung và vấn đề cán bộ, công chức nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Các phương pháp tác giả sử dụng trong luận văn gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp,
diễn dịch, quy nạp, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh,
phương pháp xã hội học
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là chuyên khảo nghiên cứu tương đối có hệ thống và toàn diện vềphápluật
viên chứcởViệt Nam. Vì vậy có một số đóng góp mới sau:
- Phân tích đưa ra được quan niệm viênchức và chỉ ra sự khác biệt giữa viênchức với
cán bộ, công chức.
- Phân tích đưa ra được khái niệm phápluậtviênchức và xác định được nội dung điều
chỉnh của phápluậtviên chức.
- Đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện và tổ chức thực hiện phápluậtviênchứcở
Việt Namtrongthờikỳhội nhập.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn bổ sung quan trọng vào sự phát triển của lý luận nhà
nước và pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức lý luận vềviên chức.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy, những người
làm công tác thực tế và sinh viên, học viên cơ sở đào tạo cử nhân luật, cử nhân hành chính, các
trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng và Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của phápluậtvềviên chức.
Chương 2: Thực trạng phápluậtvềviênchứcởViệt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện và tổ chức thực hiện phápluậtvềviên
chức trongthờikỳhộinhậpởViệt Nam.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁPLUẬTVỀVIÊNCHỨC
1.1. Những vấn đề lý luận vềviênchức
1.1.1. Quan niệm vềviênchức
Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 đã đưa ra sự phân biệt giữa viênchức
với cán bộ, công chức cùng được điều chỉnh trongPháp lệnh Cán bộ, công chức. Theo quy
định của Nghị định này thì viênchức được hiểu: là công dân Việt Nam, trong biên chế, được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viênchức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên
trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được quy
định tại điểm d khoản 1 Điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Cán bộ, công chức ngày 29 tháng 4 năm 2003, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các
nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật.
Theo LuậtViênchứcnăm 2010, viênchức nhà nước được hiểu là: Viênchức là công dân
Việt Nam được tuyển dụng theo chế độ hợp đồng làm việc, được bổ nhiệm vào một chức danh
nghề nghiệp tại các đơn vị sự nghiệp công lập, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của viênchức
Viên chức nhà nước có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Viênchức là công dân Việt Nam.
Thứ hai: Viênchức được tuyển dụng theo chế độ hợp đồng làm việc, được bổ nhiệm vào
một chức danh nghề nghiệp tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ ba: Viênchức hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
1.1.3. Phân biệt viênchức với cán bộ, công chức
Để phân biệt với "cán bộ", "công chức" hiện nay phápluậtViệtNam quy định nhóm đối
tượng "viên chức", bao gồm những người:
- Là công dân Việt Nam, trong biên chế;
- Hưởng lương từ nguồn thu của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật;
- Được tuyển dụng thông qua hình thức hợp đồng làm việc trong biên chế; làm việc trong
các đơn vị sự nghiệp của nhà nước, của Đảng, của tổ chức chính trị - xã hội; bộ máy phục vụ
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
- Công việc của viênchức nhằm cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, hoặc phục vụ
trong bộ máy của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, không gắn liền với quyền lực
nhà nước;
- Được bổ nhiệm vào một chức danh nghề nghiệp, mỗi chức danh nghề nghiệp phản ánh
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng để thực hiện chức trách của mình.
1.1.4. Phân loại viênchức
Theo quy định của phápluật cán bộ, công chức trước năm 2008, viênchức được phân
loại theo các tiêu chí tương tự phân loại công chức. Có 3 tiêu chí để phân loại viên chức:
- Phân loại theo trình độ đào tạo: viênchức loại A là những người được bổ nhiệm vào
ngạch có yêu cầu chuẩn là trình độ giáo dục đại học trở lên; viênchức loại B là những người
được bổ nhiệm vào ngạch có yêu cầu chuẩn là trình độ giáo dục nghề nghiệp; viênchức loại
C là những người được bổ nhiệm vào ngạch có yêu cầu chuẩn là trình độ dưới giáo dục nghề
nghiệp.
- Phân loại theo ngạch viên chức: viênchức ngạch tương đương với ngạch chuyên viên
cao cấp trở lên; viênchức ngạch tương đương với ngạch chuyên viên chính; viênchức ngạch
tương đương với ngạch chuyên viên; viênchức ngạch tương đương với ngạch cán sự; viên
chức ngạch chuyên viên.
- Phân loại theo vị trí công tác: viênchức lãnh đạo; viênchức chuyên môn nghiệp vụ.
1.2. Những vấn đề lý luận phápluậtvềviênchức
1.2.1. Quan niệm phápluậtvềviênchứcPhápluậtvềviênchức cũng không điều chỉnh tất cả các quan hệ phát sinh giữa Nhà nước và
viên chức mà chỉ điều chỉnh những quan hệ đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là, các quan hệ xã hội đó "phải là những quan hệ xã hội có ý chí của con người".
Hai là, các quan hệ xã hội đó phải là các quan hệ xã hội "quan trọng, liên quan trực tiếp
đến lợi ích nhà nước, xã hội, tổ chức, cá nhân".
Ba là, các quan hệ xã hội đó phải bảo đảm tính ổn định tương đối.
Bốn là, các quan hệ xã hội đó phải phản ánh đầy đủ tính chất dịch vụ công và đặc điểm
của viên chức.
Về phương diện lý luận có thể hiểu khái niệm phápluậtvềviênchức là tổng hợp những
quy phạm phápluật do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện để điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa nhà nước với đội ngũ viênchứctrong quá trình
thực hiện dịch vụ công.
1.2.2. Nội dung điều chỉnh của phápluậtvềviênchức
Nghiên cứu chế độ dân sự, phápluậtvề công chức, viênchức của một số nước trên thế
giới và thực tiễn của ViệtNam cho thấy, mặc dù còn ở mức độ khác nhau, nhưng thường
pháp luậtvềviênchức điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội chủ yếu sau:
Một là, nhóm quan hệ xã hộivề xác lập dịch vụ công.
Hai là, nhóm quan hệ liên quan đến tuyển dụng viên chức.
Ba là, nhóm quan hệ xã hộivề tập sự viên chức.
Bốn là, nhóm quan hệ xã hội liên quan đến quản lý, sử dụng viên chức.
Năm là, nhóm quan hệ xã hội liên quan đến quyền và nghĩa vụ của viên chức.
Sáu là, nhóm quan hệ xã hội liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá viên chức.
Bảy là, nhóm quan hệ liên quan đến kỷluậtviên chức.
Tám là, nhóm quan hệ liên quan đến việc khen thưởng viên chức.
Chín là, nhóm quan hệ xã hội liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng của viên chức.
1.2.3. Mối quan hệ của phápluậtvềviênchức với phápluậtvề cán bộ, công chức
Pháp luật nước ta trong một thời gian dài không có sự phân biệt một cách rõ ràng vềpháp
luật cán bộ, công chức và phápluậtvềviên chức; vì chúng ta cũng chưa có sự phân biệt rạch
ròi giữa hoạt động công vụ (hoạt động hành chính) và hoạt động cung cấp dịch vụ công (hoạt
động sự nghiệp). Những người hoạt động trong các cơ quan nhà nước hay trong các đơn vị sự
nghiệp công lập đều có cách thức tuyển dụng, quyền, nghĩa vụ… tương tự nhau. Chúng ta
thường sử dụng cụm từ "cán bộ, công chức" để xác định trong trường hợp những người này được
bầu cử, phê chuẩn để đảm nhiệm chức vụ, chức danh trong bộ máy của Đảng, trong cơ quan nhà
nước, trong tổ chức chính trị - xã hội theo nhiệm kỳ, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước là
cán bộ; trong trường hợp được tuyển dụng, bổ nhiệm, giao giữ một chức vụ, chức danh gắn với
trình độ đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, hoạt động thường xuyên trong bộ máy của Đảng,
trong các cơ quan nhà nước, trong tổ chức chính trị - xã hội, hưởng lương từ ngân sách nhà nước
là công chức; nhưng nếu họ được tuyển dụng hay giao giữ một công việc thường xuyên trong các
đơn vị sự nghiệp của tổ chức chính trị, của nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội hưởng lương
một phần từ ngân sách nhà nước, một phần từ nguồn thu của đơn vị sự nghiệp thì gọi là viên
chức. Như vậy, có thể kết luận: phápluậtvềviênchứcở nước ta là một bộ phận của pháp
luật về cán bộ, công chức. Từ năm 1998 khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp
lệnh Cán bộ, công chức thì dần dần phápluậtvềviênchức mới được định hình và phát triển,
nhất là thời điểm Pháp lệnh này được sửa đổi, bổ sung năm 2003 và thời điểm Chính phủ ban
hành Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý
cán bộ, công chứctrong các đơn vị sự nghiệp nhà nước.
1.2.4. Những yêu cầu của phápluậtvềviênchứctrongthờikỳhộinhập
- Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta qua hơn hai thập kỷ đã đạt được những thành tựu và
phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là công tác xây dựng
thể chế, tăng cường sức mạnh của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
- Phápluậtvềviênchứctrongthờikỳhộinhập vừa phải đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi
nêu trên vừa phải phù hợp với phápluật và thông lệ quốc tế vì chúng ta đang chủ trương phát
triển một nền kinh tế thị trường, hộinhập kinh tế quốc tế.
Chương 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
VÀ THỰC TRẠNG PHÁPLUẬTVỀVIÊNCHỨCỞVIỆTNAM
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của phápluậtvềviênchức
2.1.1. Giai đoạn những ngày đầu thành lập nước ViệtNam dân chủ cộng hòa (từ
tháng 9 năm 1945 đến năm 1959)
- Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950
Trên cơ sở những quan điểm, tư tưởng và nguyên tắc về một nền công vụ kiểu mới thể hiện
trong Hiến pháp 1946, Quy chế công chức được ban hành theo Sắc lệnh của Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa số 76/SL ngày 20/5/1950.
Theo tinh thần của Sắc lệnh, Sắc lệnh chỉ đề cập đến đối tượng là Công chức mà theo đó
"Công chứcViệtNam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính
quyền nhân dân, dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ" (Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950
của Chủ tịch nước ViệtNam dân chủ cộng hòa).
Như vậy, chủ trương của Nhà nước ta là tách biệt hai khái niệm viênchức (được hiểu là
công chức giai đoạn trước đó) thành công chức là những người làm trong bộ máy hành chính
của cả nước. Giai đoạn đầu của những năm 1950 thế kỷ XX không chỉ rõ khái niệm viên
chức mà chỉ có khái niệm công chức hiểu theo phạm vi rất hẹp, là những người được tuyển
dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, và không bao gồm người
làm trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp, các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát.
- Giai đoạn giữa năm 1950 đến năm 1959
Một số văn bản trongthờikỳ này gọi những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp giáo
dục, y tế, khoa học (theo cách hiểu hiện nay là viên chức) là công chức.
Mặc dù Sắc lệnh số 76/SL quy định dành riêng cho công chức - những người làm trong
hệ thống các cơ quan hành chính, song sau năm 1954, do nhu cầu bổ sung nguồn nhân lực
trong bộ máy nhà nước ngày càng tăng, nên trên thực tiễn những đối tượng đủ tiêu chuẩn để
trở thành công chức theo Quy chế công chứcnăm 1950 và các văn bản vào thờikỳ đó không
thể đáp ứng đủ cho bộ máy nhà nước. Vì vậy, Quy chế này không được áp dụng đầy đủ.
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
- Sự ra đời của Hiến phápnăm 1959
Trong giai đoạn này được đánh dấu bởi sự ra đời của Hiến phápnăm 1959 và phápluật
trong giai đoạn này không đi theo hướng điều chỉnh một cách chuyên biệt các đối tượng phục vụ
trong cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị sự nghiệp mà vẫn kế thừa, phát triển theo xu hướng
điều chỉnh chung.
Đến năm 1962, Nghị định số 24/CP ngày 8 tháng 11 năm 1962 của Hội đồng Chính phủ
ban hành Điều lệ tuyển dụng công nhân, viênchức nhà nước gọi "công nhân, viênchức nhà
nước" là những người làm ở "một số xí nghiệp, nông trường, lâm trường, công trường, trường
học và cơ quan nhà nước (gọi tắt là xí nghiệp, cơ quan nhà nước)".
Như vậy, viênchức là thuật ngữ được sử dụng chính thức trong văn bản phápluật và dần
thay thế thuật ngữ công chức - đã được sử dụng trước đó theo Quy chế về công chứcnăm
1950. Mặc dù Quy chế trên vẫn có hiệu lực nhưng trên thực tế lại không được sử dụng rộng
rãi sau đó. Vì thế, những đối tượng trước đây được gọi là công chức có thể được hiểu là một
thành phần trong những đối tượng là viênchứcở giai đoạn này.
- Giai đoạn những năm 1960 đến những năm cuối 1970
Các văn bản được ban hành trong giai đoạn này vẫn quy định viênchức gồm nhiều đối
tượng và bắt đầu xuất hiện thuật ngữ "cán bộ" - những người được bầu trong các cơ quan, tổ
chức nhà nước.
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1991
Đến Hiến phápnăm 1980, thuật ngữ "cán bộ, viênchức nhà nước" bắt đầu được sử dụng
chính thức. Điều 8 của Hiến pháp 1980 quy định: "cán bộ, viênchức nhà nước có nghĩa vụ tận
tụy phục vụ nhân dân". Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 1980 thì những người làm việc
trong các cơ quan, tổ chức nhà nước được gọi là "cán bộ, viên chức" trừ những đối tượng là công
nhân. Như vậy, so với giai đoạn những năm 1960 đến năm 1980 thì nội hàm của thuật ngữ viên
chức có hẹp hơn.
2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay
- Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2003
Hiến phápnăm 1992 và được sửa đổi bổ sung năm 2001 không sử dụng thuật ngữ công
chức mà sử dụng thuật ngữ cán bộ, viên chức: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ viênchức nhà
nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân" (Điều 8). Như vậy, theo như quy định của
Hiến pháp thì những người phục vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước bao gồm cả cán bộ
và viên chức.
Thuật ngữ viênchức được hiểu theo nghĩa rất rộng gồm tất cả những người trong biên chế
của các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và cả trong tổ chức kinh tế của nhà nước (trừ công nhân).
Trong nhiều văn bản phápluật khác, thuật ngữ cán bộ - công chức, cán bộ - viênchức nhiều khi
được sử dụng như những từ đồng nghĩa, có nội hàm và ngoại diên như nhau. Nhưng cũng có
trường hợp cán bộ, công chức được sử dụng với nghĩa hẹp hơn như là một bộ phận của cán bộ,
viên chức.
- Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2008
Việc Pháp lệnh năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phân biệt các đối tượng
công chức ngạch hành chính và ngạch sự nghiệp; công chức ngạch hành chính được gọi là
viên chức có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, nhằm điều chỉnh theo phápluật một cách
chuyên biệt về tuyển dụng, sử dụng, quản lý một cách hợp lý, khoa học đối với từng đối
tượng.
Việc phân biệt cán bộ công chứctrong cơ quan nhà nước với cán bộ công chứctrong các
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, thực chất là phân biệt giữa công chức nhà nước với viên
chức nhà nước, đây là một điểm mốc quan trọng đánh dấu xu hướng điều chỉnh có tính
chuyên biệt giữa đối tượng phục vụ trong các cơ quan nhà nước (công chức) và các đối tượng
làm việc tại các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước (viên chức).
- Giai đoạn từ năm 2008 đến nay
Trong giai đoạn này chính thức có sự tách biệt nội hàm hai khái niệm công chức và viên
chức.
Mặc dù sự phân định giữa các đối tượng được gọi là công chức, viênchức đã bước đầu được
quy định trongPháp lệnh cán bộ, công chứcnăm 2003 và sau đó tiếp tục được thể hiện rõ hơn
trong các văn bản hướng dẫn thi hành, trong các văn bản đó phải kể đến là: (1) Nghị định số
116/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức
trong các đơn vị sự nghiệp. Nghị định này đã chính thức quy định và gọi những người làm việc
trong các đơn vị sự nghiệp là viên chức; và Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 về
việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý những người làm trong các cơ quan nhà nước là công
chức.
Luật Cán bộ, công chứcnăm 2008 đã chính thức không đưa những đối tượng làm việc tại
các đơn vị sự nghiệp vào đối tượng điều chỉnh của mình. So với Pháp lệnh cán bộ, công chức
năm 1998 và 2003 thì thời điểm Luật Cán bộ, công chức ra đời, chúng ta đã có một sự phân
định rõ ràng về những đối tượng được gọi là công chức và viênchức nhưng chưa chính thức
được đưa vào một văn bản có giá trị hiệu lực cao như luật hoặc pháp lệnh mà chỉ dừng lại ở
tầm nghị định.
Như vậy, còn nhiều đối tượng được gọi là viênchứctrong các văn bản dưới luật hiện nay
như: những người được tuyển dụng, bổ nhiệm theo một chức danh nghề nghiệp, chức vụ
quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập theo vị trí việc làm và hưởng lương từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập thì chưa có luật điều chỉnh. Vì vậy, việc ban hành một luật riêng để
tạo khuôn khổ pháp lý hoạt động cho các đối tượng này là cần thiết. Ngày 15/11/2010, Quốc
hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua LuậtViên chức, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2012. Đây chính là một văn bản phápluật có giá trị, đặt nền tảng pháp lý thúc đẩy việc
xây dựng và phát triển đội ngũ viênchứctrong các đơn vị sự nghiệp công lập.
2.2. Thực trạng phápluậtvềviênchứcViệtNam
2.2.1. Những quy định về nguyên tắc hoạt động nghề nghiệp của viênchức
Hiện nay, phápluật nước ta đang hoàn thiện theo hướng tách bạch giữa hoạt động công vụ và
dịch vụ công. Năm 2008, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ, công chức (Luật Cán bộ,
công chứcnăm 2008 đã có hiệu lực thi hành từ 01/01/2010). LuậtViênchức nhà nước mới được
ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2012, vì vậy, trongLuậtViênchức mới quy định cụ thể
các nguyên tắc trong hoạt động nghề nghiệp của viênchức (Điều 5) để phân biệt với các nguyên
tắc trong hoạt động công vụ của công chức quy định trongLuật Cán bộ, công chứcnăm 2008.
2.2.2. Những quy định về phạm vi áp dụng đối với viênchức
Qua việc xem xét một cách khái quát các văn bản quy phạm phápluật quy định vềviên
chức cho thấy:
- Phápluật nước ta khi quy định về cán bộ, công chức, viênchức luôn có sự thay đổi qua
các thời kỳ, không phân biệt rõ giữa các nhóm đối tượng cán bộ, công chức, viên chức, từ chế
độ công chức chuyển dịch sang chế độ cán bộ, công chức, viênchức và hiện nay là chế độ
cán bộ, công chức, viên chức. Điều này dẫn tới nội dung các quy định của phápluật đối với
đội ngũ viênchức không đi theo hướng khoa học, chuyên biệt, nhất quán.
- Do không phân biệt giữa các nhóm đối tượng nói trên, nên trongthời gian dài, việc xây
dựng các quy định điều chỉnh chuyên biệt để phù hợp với hoạt động nghề nghiệp của viên
chức bị chậm trễ, chưa được thực hiện, ảnh hưởng đến quá trình tổ chức cung cấp các dịch vụ
công, tổ chức đội ngũ viênchức có chất lượng, tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân
dân.
- Cũng do không phân định rõ các nhóm đối tượng, cho nên nhiều văn bản quy phạm
pháp luật đã không đảm bảo tính logic hình thức, thống nhất, các văn bản sử dụng các khái
niệm khác nhau, thậm chí trong cùng văn bản, giữa tên gọi của văn bản với nội dung điều
chỉnh của văn bản không thống nhất.
2.2.3. Những quy định về cơ chế tuyển dụng viênchức
Hình thức tuyển dụng công chức qua thi tuyển được tiếp tục thực hiện cho đến nay.
Các quy định về tuyển dụng viênchứcở nước ta hiện nay đã có những thay đổi rất lớn từ
việc quy định hình thức xét tuyển là phổ biến chuyển sang quy định hình thức thi tuyển là phổ
biến, đã có sự phân biệt giữa tuyển dụng công chức với viên chức. Tuy nhiên, các quy định hiện
hành về tuyển dụng vẫn chưa tạo được sự thu hút rộng rãi sự tham gia của công dân vào tuyển
dụng; tính cạnh tranh, khách quan, công bằng trong quá trình tuyển dụng chưa cao. Bên cạnh đó
việc tổ chức thực hiện trên thực tế còn chưa nghiêm, còn có hiện tượng tiêu cực trong quá trình
thi tuyển, tạo ra một tâm lý cho xã hội thi tuyển viênchức chỉ là hình thức. Vì vậy, để tuyển
dụng những người thực sự có tâm, có tài cho đội ngũ viên chức, cần phải thực hiện các quy
định hiện hành về thi tuyển viênchức một cách công bằng, nghiêm minh.
2.2.4. Những quy định về quản lý, sử dụng, đánh giá, bổ nhiệm viênchức
Các quy định về quản lý, sử dụng, đánh giá, bổ nhiệm viênchức cũng đã từng bước phát
triển qua các thời kỳ, làm cơ sở pháp lý cho quản lý đội ngũ viên chức. Tuy nhiên, các quy
định hiện nay về quản lý, sử dụng viênchức còn một số hạn chế cơ bản như sau:
Một là, các quy định về quản lý biên chế còn nặng tính "xin - cho", chưa tạo sự chủ động
cho các đơn vị sự nghiệp công trong quản lý nguồn nhân lực.
Hai là, các quy định về nâng ngạch viênchức thiếu tính cạnh tranh, nặng về thâm niên
công tác, bằng cấp, chưa chú trọng thật sự đến năng lực, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ của viên
chức.
Ba là, các quy định đánh giá viênchức còn nặng định tính thiếu các tiêu chí đánh giá
định lượng, cách thức đánh giá viênchức chủ quan, thiếu quy định về sự tham gia của công
dân, xã hội vào đánh giá viên chức; chưa có các quy định về kết quả đánh giá viên chức.
Bốn là, các quy định về bổ nhiệm cũng chưa tạo ra tính cạnh tranh, trách nhiệm trong
việc đề cử, bổ nhiệm viênchức chưa được xác định rõ; sự phân biệt giữa miễn nhiệm, cách
chức, từ chức chưa rõ ràng.
Năm là, các quy định về mặt thủ tục quản lý, sử dụng viênchức (như thủ tục điều động,
thuyên chuyển, biệt phái) chưa được quy định cụ thể.
Sau khi Quốc hội thông qua Luật Cán bộ, công chứcnăm 2008 và Chính phủ ban hành
Nghị định 24/2010/NĐ-CP về quản lý, tuyển dụng, sử dụng, đánh giá công chức (thay thế
cho Nghị định 117/2003/NĐ-CP) thì việc quản lý, sử dụng đánh giá công chức đã cụ thể hơn
so với cơ chế quản lý, sử dụng viênchức theo quy định của Nghị định 116/2003/NĐ-CP.
Tháng 11 năm 2010, LuậtViênchức được xây dựng theo tinh thần tạo thế chủ động cho
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập trong việc thực hiện các nội dung quản lý như xây
dựng vị trí việc làm; tuyển dụng viên chức; ký hợp đồng làm việc; bổ nhiệm, thay đổi chức
danh nghề nghiệp; thay đổi vị trí việc làm, biệt phái, chấm dứt hợp đồng làm việc, giải quyết
chế độ thôi việc; bổ nhiệm, miễn nhiệm viênchức quản lý, sắp xếp, bố trí và sử dụng viên
chức theo nhu cầu công việc; thực hiện việc đánh giá, khen thưởng, kỷluậtviên chức; thực
hiện chế độ tiền lương, các chính sách đãi ngộ, … (Khoản 1 Điều 48).
Việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp đối với viênchức được thực hiện theo các nguyên
tắc: làm việc ở vị trí việc làm nào thì bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp tương ứng với vị
trí việc làm đó và người được bổ nhiệm phải có đủ tiêu chuẩn của chức danh nghề nghiệp đó
(Khoản 1 Điều 31); bổ nhiệm viênchức quản lý (Điều 37).
Các tiêu chí đánh giá viênchức đã mang tính định lượng nhiều, chủ yếu đánh giá về năng
lực chuyên môn nghiệp vụ, mức độ thành thạo, kỹ năng xử lý công việc của cán bộ, nhân
viên (Điều 40, 41).
2.2.5. Những quy định về quyền và nghĩa vụ của viênchức
Quyền và nghĩa vụ của viênchức là một trong những nội dung rất quan trọng của pháp
luật vềviên chức, đặt nền tảng cho mối quan hệ giữa nhà nước và viênchứctrong quá trình
cung cấp các dịch vụ công. Quyền, nghĩa vụ của viênchức (cán bộ, công chức) thường được
chia thành hai nhóm:
Thứ nhất, những quyền, nghĩa vụ như mọi công dân, bởi vì trước khi là viên chức, họ là
công dân Việt Nam, nên đương nhiên có những quyền và nghĩa vụ như công dân;
Thứ hai, những quyền nghĩa vụ dành riêng cho viên chức, với tư cách là chủ thể cung cấp
các dịch vụ công.
Tuy nhiên, những quy định về quyền, nghĩa vụ của viênchức hiện nay còn có những hạn
chế nhất định, đó là:
- Các quy định về nghĩa vụ viênchức được quy định trongPháp lệnh Cán bộ, công chức
năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2000, 2003) cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn
mang nặng về định tính, ít các quy định mang tính định lượng, do vậy, khó xác định, đánh giá
được trên thực tế; mặt khác các quy định về nghĩa vụ của viênchức phần lớn là các quy định
mang tính chính trị nhiều hơn là mang tính pháp lý.
- Chưa quy định rõ quyền, nghĩa vụ của nhóm viênchức lãnh đạo với nhóm viênchức
chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như các khác biệt về các ngạch viênchức với nhau.
- Do các quy định về quyền, nghĩa vụ (đặc biệt là các quy định về nghĩa vụ) mang nặng
định tính nhiều nên làm cho cơ sở để xử lý kỷluật đối với viênchức khó xác định, việc đánh
giá tính chất, mức độ vi phạm không được rõ ràng, dẫn đến việc xử lý kỷluậttrong nhiều
trường hợp không chính xác.
Bên cạnh nghĩa vụ chung của viên chức, LuậtViênchứcnăm 2010 còn có quy định rõ
nghĩa vụ của viênchức quản lý (Điều 16, 17, 18). Điều này thể hiện rõ tính trách nhiệm cao
của người quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập.
2.2.6. Những quy định về khen thưởng, kỷluậtviênchức
Khen thưởng là một trong những biện pháp quan trọng để động viênviênchức phấn đấu
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; mặt khác ghi nhận, tôn vinh những công lao, thành tích
đóng góp của viênchức đạt được trong quá trình thực hiện dịch vụ công. Vì vậy, các quy
định về khen thưởng viênchức cũng được ban hành, cùng với các điều chỉnh khác của pháp
luật vềviên chức.
Trong các hình thức kỷluật đối với công chức nhà nước có sự thay đổi, hình thức hạ ngạch
công chức được thay thế bằng hình thức giáng chức. Do Luật Cán bộ, công chứcnăm 2008
không điều chỉnh đối tượng là viên chức, nên các quy định vềkỷluật đối với viênchứctrong các
đơn vị sự nghiệp công lập vẫn tạm thời thực hiện theo những quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công
chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2000, 2003) và các văn bản có liên quan vềkỷluật cán bộ,
công chức, viênchức được chi tiết hóa, cụ thể hóa để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Cán bộ,
công chứcnăm 1998.
Năm 2010, LuậtViênchức được Quốc hội thông qua và các quy định vềkỷluật đối với
viên chứctrong các đơn vị sự nghiệp công lập đã được quy định tại các điều 51, 52, 53, 54,
55, 56, 57 của luật này.
2.2.7. Nhận xét chung phápluậtvềviênchức
Mặc dù có những bước phát triển về chất lượng nhưng nhìn chung, phápluậtvềviên
chức ở nước ta hiện nay cũng còn nhiều điểm hạn chế. Cụ thể là:
Thứ nhất, phápluật còn phân tán và thiếu một định hướng dài hạn cho việc phát triển đội
ngũ viênchức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ hai, các quy định phápluật chưa phân biệt và làm rõ những đặc thù của đội ngũ viên
chức so với đội ngũ những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó chưa
tạo ra cơ chế quản lý, sử dụng thực sự phù hợp, hiệu quả.
Thứ ba, các quy định phápluậtvề quản lý, sử dụng viênchức chưa được thể hiện trong
các văn bản phápluật riêng, có giá trị pháp lý cao, có tính khái quát, điều chỉnh ở tầm vĩ mô,
có tính chất định hướng, ổn định, lâu dài và bảo đảm thực hiện cao mà chủ yếu được ban
hành dưới dạng nghị định, thông tư.
Thứ tư, các quy định của phápluậtvề hệ thống cơ chế, chính sách vềviênchức còn chưa
cụ thể, chưa có sự đổi mới kịp thời với quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, với quá
trình trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Cho đến thời điểm hiện nay, ngoài một số đạo luật chuyên ngành có điều chỉnh các nội
dung liên quan đến hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của viênchứcở một số ngành cụ thể
(như Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh chữa bệnh…), văn bản có giá trị pháp lý cao nhất quy
định về việc quản lý, sử dụng viênchức là Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Tuy nhiên văn bản
này cũng chỉ quy định những vấn đề, mang tính khái quát về quản lý, sử dụng cán bộ, công
chức, viênchức nói chung; còn những nội dung cụ thể vềviênchức được điều chỉnh trong
các nghị định của Chính phủ hoặc thông tư của các bộ, ngành. Điều này ảnh hưởng không
nhỏ đến tính minh bạch, thống nhất của phápluậtvềviênchứcở nước ta.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀVIÊNCHỨCTRONGTHỜIKỲHỘINHẬPỞVIỆTNAM
3.1. Các yêu cầu phải hoàn thiện phápluậtvềviênchức
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện phápluậtvềviên chức, đặc biệt là các văn bản quy phạm
pháp luậtvề quản lý, sử dụng viênchức là một nội dung quan trọng của cải cách nền hành
chính nhà nước hiện nay. Yêu cầu đặt ra là:
Thứ nhất, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống phápluậtvềviênchức phải quán triệt và
thể chế hóa các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, về đổi mới tổ chức và quản lý đơn vị
sự nghiệp công lập; đồng thời phải phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính trong giai đoạn
hiện nay.
Thứ hai, phápluậtvềviênchức phải xác định đúng đắn vị trí, địa vị pháp lý của viên
chức, quyền, nghĩa vụ của viên chức, phân định trách nhiệm giữa công chức và viên chức;
giữa viênchứctrong khu vực công và những người làm trong khu vực tư… để có cơ chế
quản lý, sử dụng viênchức hiệu quả, phù hợp.
Thứ ba, phápluậtvềviênchức phải tạo khung pháp lý đồng bộ để xây dựng, phát triển
đội ngũ viênchức có chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình phát triển đất
nước.
Thứ tư, phápluậtvềviênchức phải đáp ứng sự phát triển của kinh tế thị trường, hộinhập
quốc tế của Việt Nam.
3.2. Quan điểm hoàn thiện phápluậtvềviênchức
Tác giả luận văn đưa ra một số quan điểm hoàn thiện phápluậtvềviênchức như sau:
3.2.1. Thể chế hóa chủ trương xây dựng hoàn thiện phápluật cán bộ, công chức nhằm
đáp ứng về đổi mới cơ chế quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập, thúc đẩy xã hội hóa các
hoạt động nghề nghiệp, góp phần tạo điều kiện chuyển đổi hoàn toàn hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
[...]... 3.3.2 Tổ chức thực hiện phápluậtviênchức trong thờikỳhộinhập 3.3.2.1 Ban hành kịp thời các văn bản có thể hướng dẫn thực hiện luậtviênchức Làm cho người viênchức hiểu quyền và tự có tinh thần trách nhiệm trong "chức danh nghề nghiệp" của mình, việc thực hiện phápluậtvềviênchức cần phải có các văn bản hướng dẫn kịp thời và có thể để người lao động thực hiện luậtviênchức được sử dụng trong. .. định về tuyển dụng, quản lý, sử dụng, bổ nhiệm viên chức; về quyền, nghĩa vụ cơ bản của viên chức; quy định về khen thưởng, kỷluậtviênchứcPhápluậtvềviênchức cần được hoàn thiện theo hướng điều chỉnh chuyên biệt để phân biệt dịch vụ công trong hoạt động nghề nghiệp của viênchức với hoạt động công vụ của công chức 4 Quá trình phát triển kinh tế thị trường, hộinhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. .. cạnh tranh trong cung cấp các dịch vụ công 6 Một số giải pháp cơ bản để tiếp tục hoàn thiện phápluậtvềviênchức như: Nhận thức, thể chế hóa các nguyên tắc trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức; Ban hành các quy phạm phápluật điều chỉnh chuyên biệt phù hợp với tính chất hoạt động nghề nghiệp của viên chức; Pháp điển hóa phápluậtvềviênchức theo hướng xây dựng luậtviênchức Các giải pháp này... thực hiện trong quá trình tổng thể hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phápluậtViệt Nam, từ đó tạo ra một hệ thống phápluậtvềviênchức thống nhất, đồng bộ, minh bạch, phù hợp với thực tiễn Việt Namtrong bối cảnh hộinhập quốc tế References 1 Ban Tổ chức Cán bộ - Chính phủ (1994), Chế độ công chức và Luật Công chức các nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2 Ban Tổ chức Cán bộ... hoàn thiện của phápluậtvềviênchức được thể hiện qua sự hoàn thiện cả về nội dung và hình thức 3 Nghiên cứu thực trạng phápluậtvềviênchứcở nước ta cho thấy, chế định phápluật này có quá trình hình thành và phát triển qua các giai đoạn khác nhau của đất nước, góp phần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hộiPhápluậtvềviênchức điều chỉnh hầu hết quan hệ cơ bản về dịch vụ công:... mình, nhất là khi LuậtViênchức vừa được Quốc hội thông qua Cụ thể là: 3.3.2.3 Tổ chức thực hiện luậtviênchức Để tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ (chủ yếu tiền lương, phụ cấp và bảo hiểm xã hội) đối với viênchức cần có các giải pháp sau: Thứ nhất, phải làm rõ được mô hình của người viênchức trong thờikỳ đổi mới Vị trí, vai trò của họ là viênchức thực thi các công việc ở các đơn vị sự... công chứctrong các đơn vị sự nghiệp nhà nước, Hà Nội 9 Lương Thanh Cường (2004), "Bàn về khái niệm công vụ nước ta hiện nay", Quản lý nhà nước, (4) 10 Lương Thanh Cường (2007), "Một số vấn đề vềphápluậtvềkỷluật đối với cán bộ, công chức" , Dân chủ và pháp luật, (3) 11 Lương Thanh Cường (2008), Hoàn thiện chế định vềphápluật công vụ, công chứcởViệtNam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật. .. cầu tất yếu cần phải tiếp tục hoàn thiện phápluậtvềviênchức cả về nội dung và hình thức, để trên cơ sở đó đổi mới, nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ công, xây dựng một đội ngũ viênchức có năng lực, có đạo đức toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, nhân dân, dân tộc 5 Việc hoàn thiện phápluậtvềviênchức cần đi theo hướng xây dựng phápluậtvềviênchức toàn diện, thống nhất, đồng bộ và chuyên... việc quản lý viên chức: - Các nghị định hướng dẫn việc thực hiện luật của Chính phủ bao gồm: Nghị định về đào tạo viên chức; nghị định về quản lý, tuyển dụng và sử dụng viên chức; nghị định quy định đối tượng viên chức; nghị định vềthôi việc và thủ tục nghỉ hưu đối với viênchức - Các văn bản và thông tư hướng dẫn của các Bộ liên quan về đào tạo, tuyển dụng, kỷ luật, thôi việc, các chế độ về tiền lương... trong quản lý viên chức; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập 3.2.4 Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về quản lý viên chức, đồng thời kế thừa và hoàn thiện các quy định của phápluật hiện hành phù hợp với yêu cầu quản lý nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp của viênchứctrong giai đoạn hiện nay 3.3 Những giải pháp hoàn thiện và thực hiện phápluậttrongthời . pháp luật về viên chức ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về viên
chức trong thời kỳ hội nhập ở Việt. của pháp luật về viên chức ở Việt
Nam, luận văn đề xuất các giải pháp về hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về viên
chức trong thời kỳ hội nhập.