NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
ĐỒNG 1.1 Khái niệm và đặc điểm về giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng :
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài trước khi được quy định như một loại trách nhiệm pháp lý trong Luật tư hiện nay Quá trình này bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn thể hiện những đặc điểm và bản chất riêng biệt của trách nhiệm BTTH Các giai đoạn phát triển cơ bản của trách nhiệm BTTH có thể được tóm tắt như sau:
Trong thời kỳ cổ đại, khi chính quyền chưa được tổ chức vững chắc, cá nhân thường tự ý trả thù khi quyền lợi bị xâm phạm Họ có thể trừng phạt đối phương, bắt làm nô lệ hoặc chiếm đoạt tài sản Chế độ này được gọi là chế độ tư nhân phục thù.
Trong giai đoạn thú hai, người gây ra tổn hại có thể nộp tiền chuộc hoặc thụ kim cho nạn nhân để tránh bị trả thù, chế độ này được gọi là chế độ thục kim Chế độ thục kim trải qua hai giai đoạn phát triển: đầu tiên là thỏa thuận tự nguyện giữa các bên mà không có sự can thiệp của pháp luật, và thứ hai là chế độ thục kim bắt buộc, nơi chính quyền can thiệp và quy định mức tiền chuộc Tiền thục kim không chỉ là hình phạt mà còn có tính chất bồi thường thiệt hại Thời kỳ Luật 12 bảng đánh dấu sự chuyển biến từ chế độ tự ý thục kim sang chế độ thục kim bắt buộc trong Cổ luật La Mã.
Giai đoạn thứ ba chứng kiến sự phân biệt giữa trách nhiệm hình sự và dân sự, trong đó chính quyền can thiệp để trừng phạt các tội phạm liên quan đến trật tự xã hội mà không ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân Sự can thiệp này là cần thiết để đảm bảo rằng những hành vi phạm pháp không bị bỏ qua Dần dần, sự can thiệp của chính quyền mở rộng đến các hành vi vi phạm quyền lợi cá nhân như ẩu đả và trộm cắp Về mặt hình sự, cá nhân không còn quyền phục thù mà chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo luật dân sự Tại Việt Nam, cổ luật cũng không tách biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại, coi đây là trách nhiệm thuộc luật tư và chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến trật tự công.
Các bộ luật cổ như Quốc triều Hình luật của nhà Lê và Hoàng Việt Luật lệ của Gia Long quy định rõ ràng về trách nhiệm hình sự liên quan đến súc vật Cụ thể, Điều 582 của Quốc triều Hình luật nêu rõ rằng nếu súc vật hoặc chó gây thương tích cho người mà không được quản lý đúng cách, chủ sở hữu sẽ phải chịu phạt 60 lượng Nếu sự cố dẫn đến chết người hoặc thương tích, mức án sẽ được giảm nhẹ so với tội danh gây thương tích hoặc giết người Trong trường hợp người được thuê chữa bệnh cho súc vật hoặc người cố tình trêu chọc súc vật mà bị thương hoặc chết, chủ sở hữu không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Việt Nam quy định về bồi thường trong trường hợp đánh người gây thương tích, theo điều 468 của Quốc triều hình luật Cụ thể, nếu đánh bằng tay chân, người bị thương cần được nuôi dưỡng 10 ngày; nếu dùng vật khác, thời gian nuôi là 20 ngày Đặc biệt, nếu gây thương tích bằng vật nhọn, nước sôi hoặc lửa, thời gian nuôi dưỡng sẽ được quy định cao hơn.
Trong 40 ngày, nếu bị gãy xương, người bệnh cần đến 80 ngày để hồi phục Tuy nhiên, ngoài một số trường hợp đặc biệt, Cổ luật Việt Nam không phân biệt rõ giữa trách nhiệm hình sự và dân sự, cũng như không đưa ra nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm dân sự Hiện nay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) ở Việt Nam được quy định bởi Luật tư, với những nguyên tắc chung đã được áp dụng tại nhiều quốc gia Theo đó, BTTH được hiểu là trách nhiệm dân sự, yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường cho những tổn thất mà họ đã gây ra cho người khác.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể không có quan hệ hợp đồng hoặc có nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc nghĩa vụ hợp đồng Loại trách nhiệm này liên quan đến bên có lỗi, gây hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền lợi hợp pháp khác của cá nhân hoặc pháp nhân Để áp dụng hiệu quả quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần làm rõ các điều kiện phát sinh trách nhiệm này.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
Người gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản hoặc quyền lợi hợp pháp của người khác do lỗi cố ý hoặc vô ý sẽ phải bồi thường, trừ khi có quy định khác trong Bộ luật hoặc luật liên quan.
2 Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3 Trường hợp tài sản gây thiệt thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định của khoản 2 Điều này " Điều 584 căn cứ xác định trách nhiệm BTTH đầu tiên là hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại Theo đó người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản, của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường Người bị hại chỉ cần xác định được hành vi xâm phạm của người gây thiệt là có thể yêu cầu bồi thường Trách nhiệm chứng minh lỗi giờ đây sẽ thuộc về người gây thiệt hại trong trường hợp muốn được miễn nhiễm trách nhiệm BTTH (Khoản 2,4 Điều 586 BLDS 2015)
Theo quy định chung, người gây thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm bồi thường Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người khác có thể phải chịu trách nhiệm Chẳng hạn, theo Điều 586 BLDS 2015, khi con cái gây thiệt hại, cha mẹ hoặc người giám hộ sẽ là người bồi thường Tương tự, Điều 598 BLDS 2015 quy định rằng nếu thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, cơ quan hoặc tổ chức quản lý sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Theo Khoản 3 Điều 584 BLDS 2015, chủ sở hữu và người chiếm hữu tài sản có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của mình gây ra Cụ thể, Điều 605 BLDS 2015 quy định rằng chủ sở hữu, người chiếm hữu, và người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng phải bồi thường thiệt hại nếu tài sản đó gây thiệt hại cho người khác Thực tế cho thấy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có thể phát sinh khi tài sản gây ra thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hình thức trách nhiệm dân sự, phát sinh khi cá nhân vi phạm nghĩa vụ pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, buộc họ phải bồi thường thiệt hại Đây là loại trách nhiệm pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bị thiệt hại và thường kèm theo hậu quả bất lợi cho người vi phạm Trách nhiệm này không chỉ được thực hiện thông qua các biện pháp cưỡng chế nhà nước mà còn có những đặc điểm riêng biệt khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự phát sinh theo quy định của pháp luật Khi một cá nhân gây ra tổn thất cho người khác, họ có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, và mối quan hệ này được điều chỉnh bởi Luật Dân sự.
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NGOÀI HỢP ĐỒNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX về việc chia tách tỉnh Quảng
Vào ngày 31/12/1996, Nam - Đà Nẵng đã được chia thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương: tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng Sau khi tách ra, ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã thành lập Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, bao gồm 06 Tòa án quận huyện: Tòa án nhân dân quận Hải Châu, Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn và Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang.
Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng được thành lập vào ngày 23 tháng 01 năm 1997 theo Nghị định số 07/1997/NĐ-CP của Chính phủ, dựa trên sự chuyển giao ba xã Hòa Hiệp, Hòa Khánh và Hòa Minh từ huyện Hòa Vang.
Sau khi thành lập, Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng đã gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc Tuy nhiên, vào năm 2010, trụ sở mới tại số 02 Trương Văn Đa, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu được khánh thành, đánh dấu bước tiến quan trọng Trụ sở mới khang trang cùng với việc tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị đã góp phần nâng cao chất lượng công tác của đơn vị.
Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ với sự lãnh đạo của Chánh án, phó Chánh án và các Thẩm phán, chịu trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực công tác được phân công Tòa án có chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính, đồng thời thực hiện công tác thi hành án hình sự và giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật Nhiệm vụ của Tòa án bao gồm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, tài sản của nhà nước và tập thể, cũng như bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, góp phần giáo dục công dân tuân thủ pháp luật và nâng cao ý thức phòng ngừa tội phạm.
Toà án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, có các tổ chức như Công đoàn và Đoàn thanh niên hoạt động theo quy định pháp luật Nhờ vào những hoạt động nổi bật và xuất sắc, các tổ chức đoàn thể của Tòa án luôn được công nhận là đơn vị trong sạch, vững mạnh xuất sắc và nhận được nhiều khen thưởng trong những năm qua.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng:
Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, Đà Nẵng, có cơ cấu tổ chức gồm Chánh án, Phó Chánh án, 09 Thẩm phán và 07 Thư ký Tất cả cán bộ, công chức tại đây đều có trình độ cử nhân luật và được đào tạo chuyên môn cũng như bồi dưỡng về đạo đức lý luận chính trị Địa chỉ của tòa án là 02 Trương Văn Đa, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, Đà Nẵng, và số điện thoại liên hệ là (85)511 3841 685.
Sau đây là cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng:
2.2.Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp ngoài hợp đồng tại Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
2.2.1.Thực trạng giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
Bộ luật dân sự 2015, kế thừa từ các bộ luật năm 1995 và 2005, đã được sửa đổi và bổ sung để phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là trong việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Điều này đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, Đà Nẵng trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề này Kể từ khi Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực, các tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được xử lý triệt để, với số liệu từ Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu cho thấy sự gia tăng trong việc thụ lý và giải quyết các vụ việc này qua các năm.
Số liệu thống kê các vụ án tranh chấp BTTH ngoài hợp đồng trên địa bàn quận Liên Chiểu từ năm 2018-2020:
ĐVT: vụ Năm Tổng các vụ án toà thụ lý và giải quyết
Các vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Thụ lý Đã giải quyết Thụ lý Đã giải quyết Đình chỉ Hoà giải
Bảng 2.1 Số liệu các vụ tranh chấp BTTH ngoài hợp đồng trên địa bàn quận Liên Chiểu từ năm 2018-2020:
Qua số liệu trên cho thấy:
Thứ nhất, các vụ BTTH ngoài họp đồng hàng năm chiếm một lượng vừa phải, không có quá nhiều vụ
Thứ hai, có thể nói rằng các cán bộ Tòa án đã vận dụng các quy định của
Bộ luật dân sự đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, giúp khắc phục tổn thất cho người bị hại Điều này không chỉ hỗ trợ họ ổn định cuộc sống mà còn giúp duy trì các hoạt động bình thường hàng ngày.
Bộ luật dân sự chỉ quy định những vấn đề chung, dẫn đến việc các thẩm phán hiểu và áp dụng khác nhau, gây ra sự thiếu nhất quán trong cách giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Điều này dẫn đến mức bồi thường không đồng nhất, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan Nhiều trường hợp, người gây thiệt hại phải bồi thường không thỏa đáng theo phán quyết của Tòa án.
2.2.2 Tình hình giải quyết tranh chấp ngoài họp đồng tại Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng:
Nghiên cứu các bản án dân sự tranh chấp BTTH ngoài hợp đồng tại TAND quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng cho thấy rằng hầu hết các bản án đều phản ánh đầy đủ và chính xác các quy định của pháp luật, dựa trên cơ sở lý luận và nghiên cứu khoa học pháp lý thực tế.
Sau đây là ví dụ cụ thể tại TAND quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng:
Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở TAND quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 66/2019/TLST –DS ngày 20 tháng 5 năm 2019 về việc “Yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2019/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 9 năm 2019; Quyết định tạm hoãn phiên tòa số 42/2019/QĐST-DS ngày 18 tháng 10 năm 2019 giữa đương sự gồm: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn P – Sinh năm 1938, địa chỉ tại quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng (Có mặt) và Bị đơn Ông Lê Công C – Sinh năm 1971, địa chỉ phường Chính Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng (Có mặt) Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào sáng ngày 12/1/2018, chị Mai Thị Kiều T (cháu của ông Nguyễn Văn P) điều khiển xe mô tô BKS 43X3-75XX chở theo bà Võ Thị K (vợ ông Nguyễn VănP) đến đoạn đường số 3 KCN Hòa Khánh (trước xí nghiệp bê tông Đà Nẵng),thì tông vào đuôi xe ô tô tải BKS 43C-0XX do anh Lê Công C đỗ cách mép lề không đúng quy định (vượt quá 0,25m); không có tín hiệu báo cho người điều khiển phương tiện khác biết và không đặt biển báo nguy hiểm phía sau xe khi đỗ xe chiếm một phần đường chạy, Hậu quả, Chị T và bà K chết tại chỗ. Nhưng từ lúc vợ và cháu của ông P chết thì ông Lê Công C vẫn chưa khắc phục hậu quả do ông vô tình gây ra Nên ông Nguyễn Văn P khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết buộc ông Lê Công C BTTH số tiền mai táng là 45.000.000đồng và tiền tổn thất tinh thần là 78.000.000đồng Như vậy, tổng cộng ông Nguyễn Văn P yêu cầu ông Lê Công C bồi thường số tiền: 123.000.000đồng Về phía ông Lê Công C trình bày khi mai táng, ông C có cúng điếu 10.000.000đồng nhưng gia đình ông P không nhận Ngày 25.4.2018 Công an điều tra quận Liên Chiểu đã mời ông C lên làm việc cùng thân nhân của hai người bị nạn về việc ông C đỗ xe không đúng lề đường quy định và lỗi này không phải nguyên nhân cái chết cho hai nạn nhân và ông C bị xử phạt hành chính với số tiền 850.000 đồng Về phần yêu cầu BTTH của gia đình ông Nguyễn Văn P thì ông C không đồng ý, vì ông C có hoàn cảnh khó khăn nên không có tiền để hỗ trợ chi phí như gia đình nạn nhân yêu cầu Ông
C chỉ có thể hỗ trợ số tiền 23.000.000đồng
Về kết luận giải quyết tranh chấp ngoài hợp đồng của TAND quận Liên Chiểu cũng như quyết định của Tòa án thì:
Căn cứ theo Điều 584, 585, 591 Bộ luật dân sự năm 2015 và các quy định tại Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, cũng như Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các quy định này nhằm xác định mức thu, miễn, giảm và nộp án phí một cách rõ ràng và hợp lý.
Tòa án đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn P về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xâm phạm tính mạng đối với ông Lê Công C.
1 Buộc ông Lê Công C phải có trách nhiệm bồi thường cho ông
Nguyễn Văn P (thiệt hại liên quan đến cái chết của bà Võ Thị K), với số tiền
Tiền mai táng: 45.000.000đ; Tiền tổn thất tinh thần: 26.000.000đ
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu người được thi hành án nộp đơn yêu cầu mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ, thì sẽ phải chịu lãi suất nợ quá hạn theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
2 Án phí DSST: Buộc ông Lê Công Cẩn phải chịu số tiền 3.550.000đ
(Ba triệu, năm trăm năm mươi ngàn đồng y)
3 Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG22 PHẦN III: KẾT LUẬN
2 Võ Sỹ Đoàn ( 2008) ,Vướng mắc từ thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng), Tạp chí Tòa án nhân dân, (6),tr.23-24
3 Nguyễn Văn Cương, Chu Thị Hoa (2005), “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, (4),tr.61-66
4 Giáo trình Luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội.
5 Hội đông thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết 03/2006/NQ- HĐTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hà Nội
6 Các số liệu thống kê về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của phòng Thư Ký- Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu
7 Các bản án xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
8 Các trang web: luatdansu.wordpress.com; vi.wikipedia.org; moj.gov.vn, thongtinphapluatdansu.edu.vn