CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU TRONG
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ XẤU
1.1.1 Khái niệm nợ xấu, phân loại nợ xấu
Nợ xấu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, thường được gọi là "bad debt" hay "non-performing loan" (NPL), xuất hiện khi các khoản cho vay không được thanh toán đúng hạn, cụ thể là khi đã quá 90 ngày kể từ ngày đến hạn trả nợ gốc và lãi.
(Peter Rose, 2009; Mishkin, 2010) Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm được đưa ra về nợ xấu trong ngân hàng.
Có thể nhắc đến một số khái niệm về nợ xấu như sau:
-I- Khái niệm về nợ xấu của một trong những tổ chức quốc tế độc lập, Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF:
Nợ xấu được xác định khi khoản vay có lãi và gốc quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc đã có ít nhất 90 ngày lãi được vốn hóa, tái đầu tư hoặc gia hạn theo thỏa thuận Ngoài ra, những khoản thanh toán quá hạn dưới 90 ngày cũng có thể được coi là nợ xấu nếu có lý do hợp lý để nghi ngờ khả năng hoàn trả Định nghĩa này của IMF dựa trên hai yếu tố chính: (i) thời gian quá hạn 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ bị nghi ngờ, và nó được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu.
-I- Khái niệm của nhóm chuyên gia tư vấn Advisory Expert Group (AEG)
Nhóm chuyên gia tư vấn AEG của Liên Hợp Quốc khuyến nghị rằng quan niệm về nợ xấu không nên chỉ mang tính mô tả mà nên được coi là hướng dẫn cho các ngân hàng Theo AEG (2004), một khoản nợ được xem là nợ xấu khi có các dấu hiệu như: quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ khả năng thanh toán đầy đủ Như vậy, định nghĩa này của AEG dựa trên hai yếu tố chính: thời gian quá hạn (trên 90 ngày) và khả năng trả nợ nghi ngờ.
HOÀNG THỊ XINH 3 KHOA NGẨN HÀNG
Ủy ban Basel về Giám sát Ngân Hàng (BCBS) không định nghĩa cụ thể về nợ xấu, nhưng trong các hướng dẫn quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác định rằng khoản vay được coi là không hoàn trả khi ngân hàng nhận thấy người vay không có khả năng trả nợ hoặc khi người vay đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày Do đó, nợ xấu bao gồm tất cả các khoản vay quá hạn 90 ngày và có dấu hiệu người vay không thể trả nợ.
Tại Việt Nam trước năm 2000 chưa có quy định cụ thể, thống nhất về nợ xấu.
Ngày 20/04/2005, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, đánh dấu cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc phân loại nợ và xử lý nợ xấu trong hoạt động ngân hàng Tiếp theo, vào ngày 21/01/2013, Thông tư 02/2013/TT-NHNN được ban hành, kế thừa nội dung của quyết định trước đó Theo quy định, nợ xấu được xác định là nợ thuộc các nhóm 3, 4, 5, tương ứng với nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn.
Dựa trên các định nghĩa, có thể nhận thấy sự tương đồng trong nhận thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính toàn cầu Một khoản nợ được xác định là nợ xấu khi xuất hiện ít nhất một trong hai dấu hiệu: quá hạn trả nợ gốc và lãi từ 90 ngày trở lên, hoặc khi khách hàng vay vốn bị tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng đánh giá là không có khả năng trả nợ.
Nợ xấu không có một định nghĩa duy nhất do sự khác biệt về đặc điểm kinh tế, chính trị và xã hội giữa các quốc gia Mục đích phân loại và quản lý nợ xấu của các cơ quan quản lý cũng khác nhau, cùng với cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu Dù vậy, vẫn tồn tại sự tương đồng trong nhận thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính toàn cầu.
Phân loại nợ xấu là quy trình mà các ngân hàng đánh giá các danh mục cho vay và phân chia các khoản vay thành các nhóm khác nhau dựa trên mức độ rủi ro và tính chất tương đồng Việc thường xuyên rà soát và phân loại nợ xấu giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến khoản vay.
Các quốc gia hiện nay đang áp dụng nhiều hệ thống khác nhau cho việc phân loại nợ, và vẫn chưa có quy định hay tiêu chuẩn quốc tế nào được thống nhất.
Theo IMF, việc phân loại các khoản tín dụng vào các nhóm nợ dựa trên hai yếu tố chính: thứ nhất là tuổi nợ, tức số ngày quá hạn của khoản vay; thứ hai là các quy định định tính dựa trên xếp hạng khách hàng IMF phân chia nợ thành năm nhóm: Đạt tiêu chuẩn, Cần theo dõi, Dưới chuẩn, Nghi ngờ và Mất vốn.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, nợ được phân loại thành 5 nhóm dựa trên số ngày quá hạn và xếp hạng khách hàng Nợ xấu được xác định là các khoản vay thuộc 3 nhóm cuối cùng: Dưới chuẩn, Nghi ngờ và Nợ có khả năng thu hồi thấp.
Việt Nam phân loại nợ dựa trên số ngày quá hạn và xếp hạng tín dụng của khách hàng, chia thành 5 nhóm, trong đó nợ xấu được xác định là các khoản nợ thuộc nhóm 3.
Theo Điều 10 và 11 của Thông tư 02/2013/TT-NHNN, sự khác biệt trong phân loại nợ và nợ xấu giữa các tổ chức và quốc gia trên thế giới là không đáng kể, chủ yếu chỉ nằm ở tên gọi.
1.1.2 Nguyên nhân hình thành nợ xấu.
Thiên tai, bão lụt, hoả hoạn, mất mùa và dịch bệnh là những nguyên nhân khách quan do biến đổi môi trường tự nhiên, gây ra sự thất bại trong hoạt động của khách hàng vay, đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay nông nghiệp, dẫn đến phát sinh nợ xấu Những yếu tố này nằm ngoài khả năng kiểm soát và mong muốn của cả ngân hàng lẫn khách hàng.
Môi trường kinh tế kém phát triển và cạnh tranh không công bằng dẫn đến khả năng tài chính hạn chế cho cá nhân và tổ chức Sự biến động trong các chính sách kinh tế vĩ mô như lãi suất, tỉ giá, và chính sách xuất nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của khách hàng, tạo ra những thách thức trong việc duy trì và phát triển tiềm lực tài chính.
TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NỢ XẤU VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU
1.3.1 Các nghiên cứu trên thế giới liên quan đến vấn đề nợ xấu và xử lý nợ xấu.
Có khá nhiều bài nghiên cứu quốc tế và trong nước liên quan tới việc xử lý nợ xấu, đáng chú ý là các nhiên cứu sau:
Janet Mitchell (2000) đã chỉ ra rằng nợ xấu là yếu tố chính làm giảm chất lượng báo cáo tài chính của ngân hàng, dẫn đến sự chênh lệch giữa báo cáo ngân hàng và kết quả kiểm toán Việc che giấu thông tin về nợ xấu và rủi ro đạo đức càng làm trầm trọng thêm tình hình Các nhà phân tích xác định hai yếu tố ảnh hưởng đến việc công khai nợ xấu của ngân hàng là tái cho vay và hành vi của các ngân hàng Bài viết phân tích sự cân bằng giữa ba chính sách: chính sách tự do kinh tế, chuyển nợ cho công ty quản lý tài sản và xóa bỏ nợ kế thừa từ chế độ cũ.
Daniela Klingebiel, 2000 đã nói đến vai trò của mô hình công ty quản lý tài sản
AMC, hay công ty quản lý tài sản, không chỉ tập trung vào việc thu hồi nợ xấu mà còn có hai mô hình hoạt động chính: một là tái cấu trúc các tổ chức tài chính, và hai là xử lý, chuyển nhượng tài sản Daniela Klingebiel chỉ ra rằng một công ty quản lý tài sản Thụy Điển đã thành công nhờ vào việc quản lý danh mục đầu tư chủ yếu là bất động sản, giúp quá trình tái cấu trúc dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp sản xuất Trong khi đó, các AMC ở Tây Ban Nha và Anh đã lập kế hoạch chi tiết để xử lý nợ xấu từ các công ty tài chính Để đạt được thành công, các AMC cần nhiều yếu tố như tài sản dễ chuyển đổi, đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, sự độc lập với chính trị, và cơ chế pháp lý rõ ràng Ngược lại, AMC ở Mexico và Philippines đã thất bại do bị giao xử lý nợ liên quan đến chính phủ và thiếu tính độc lập, dẫn đến áp lực chính trị và gian lận trong quy trình xử lý.
1.3.2 Các nghiên cứu trong nước liên quan đến vấn đề nợ xấu và xử lý nợ xấu.
Bàn về hướng xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam, tác giả ThS. Đào Thị Hồ Hương, năm 2013.
Nợ xấu đang gây tắc nghẽn dòng tín dụng trong nền kinh tế Việt Nam, vì vậy việc xử lý nợ xấu trở thành một bước đi quan trọng trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Cần áp dụng các biện pháp tháo gỡ, cơ chế xử lý nợ và học hỏi từ kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan đến nguồn tài chính để xử lý nợ, phương thức hỗ trợ từ Chính phủ, và việc có nên tìm kiếm một định chế mới tham gia vào quá trình này cũng cần được xem xét kỹ lưỡng.
Hoàng Thị Xinh, sinh viên năm 3 khoa Ngân hàng, chỉ ra rằng những bất cập trong phân loại nợ, quy trình chuyển nợ và vấn đề đạo đức nghề nghiệp đang tạo ra nợ xấu tại các ngân hàng Điều này dẫn đến tình trạng nợ xấu gia tăng đáng kể trong thời gian qua.
Mô hình AMC được đề xuất bởi Đào Thanh Bình và Đỗ Vân Anh, trưởng khoa tài chính và du lịch tại Đại học Hà Nội, nhằm giải quyết các khoản nợ xấu tại Việt Nam Bài viết năm 2014 này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng mô hình AMC để cải thiện tình hình tài chính và ổn định kinh tế quốc gia Mô hình này không chỉ giúp xử lý nợ xấu hiệu quả mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính Việt Nam.
Bài nghiên cứu này phân tích nợ xấu và các phương pháp xử lý nợ xấu, với Mô hình Công ty Quản lý Tài sản (AMC) được xem là lựa chọn tối ưu cho Việt Nam Nghiên cứu dựa trên lý thuyết cơ bản và kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Trung Quốc để áp dụng mô hình AMC trong bối cảnh Việt Nam Các đề xuất lý thuyết và thực tiễn, bao gồm giải pháp chứng khoán, được đưa ra nhằm phù hợp hơn với tình hình tại Việt Nam Để thực hiện sứ mệnh này, việc nâng cao năng lực cho các công ty và thành lập thị trường mua bán nợ với quy trình định giá tài sản rõ ràng cùng khung pháp lý vững mạnh là rất cần thiết.
1.3.3 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một của một số nước trên thế giới.
• Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Hàn Quốc.
Nợ xấu bùng nổ ở Hàn Quốc do sự mở rộng thị trường và vay mượn, dẫn đến cuộc khủng hoảng tín dụng và tiền tệ năm 1997 khi dòng vốn bị rút ra đột ngột Đến cuối tháng 3/1998, tổng nợ xấu của các TCTC đạt 118 nghìn tỉ Won, tương đương 18% tổng dư nợ và 27% GDP, buộc Chính phủ Hàn Quốc phải triển khai kế hoạch xử lý nợ xấu Hai phương pháp chính được áp dụng là yêu cầu tổ chức tín dụng sử dụng vốn để xử lý nợ xấu và thành lập Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc (KAMCO) để mua lại một nửa các khoản nợ xấu KAMCO đã phát hành chứng khoán đảm bảo bằng tài sản từ các khoản nợ xấu và thu hút nhà đầu tư nước ngoài thông qua đấu giá quốc tế, khuyến khích đầu tư vào các chứng khoán và nợ xấu trong nước.
• Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Trung Quốc.
Nguyên nhân chính dẫn đến nợ xấu ở Trung Quốc là do các ngân hàng thương mại cho vay không hiệu quả từ các khoản tín dụng nhà nước chỉ định, dẫn đến thất thoát nguồn vốn Quá trình xử lý nợ xấu gắn liền với cải cách các ngân hàng thương mại, tương tự như Hàn Quốc và Thái Lan, khi các khoản nợ xấu được chuyển giao từ bốn ngân hàng thương mại cho bốn công ty quản lý tài sản (AMC) với trách nhiệm xử lý trong vòng 10 năm Trung Quốc đã thực hiện cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, xử lý và xóa sổ các ngân hàng yếu kém, đồng thời giảm tỷ lệ nợ xấu Chính phủ đã cung cấp nguồn vốn dồi dào trong thời gian gặp rủi ro thông qua Bộ Tài chính, các khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng Trung ương, phát hành trái phiếu bảo lãnh và vay thương mại từ các định chế tài chính khác để hỗ trợ AMC trong việc xử lý nợ xấu Thêm vào đó, sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh cũng đã giúp tăng cường hiệu quả trong việc xử lý nợ xấu tại Trung Quốc.
• Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Hugary
Nợ xấu tại Hungary xuất phát từ sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, liên quan đến cấu trúc ngân hàng Quy trình xử lý nợ xấu ở Hungary bao gồm ba giai đoạn liên tiếp: làm sạch danh mục đầu tư của các ngân hàng, xóa nợ cho các doanh nghiệp và cá nhân gặp khó khăn tài chính.
DNNN đóng vai trò quan trọng trong việc tái cấp vốn cho các ngân hàng, đặc biệt trong việc chứng khoán hóa các khoản nợ xấu, mang lại hiệu quả rõ rệt hơn so với Hàn Quốc AMC của Hungary có quyền bán các khoản nợ xấu hoặc tham gia vào quá trình tái cấu trúc các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ Đối với các khoản nợ xấu còn lại, các ngân hàng tự giải quyết theo hợp đồng với Bộ Tài chính và hạn chế cho vay mới Để khuyến khích các ngân hàng tự xử lý nợ xấu, Chính phủ Hungary cấp cho họ 2% phí xử lý nợ xấu, trong khi những khoản nợ xấu không thể giải quyết và không thể bán vẫn là thách thức cần được xử lý.
KHOA NGẨN HÀNG cuối cùng lại chuyển giao cho HDB và trong hầu hết trường hợp, HDB đã phải xóa nợ các khoản nợ xấu này.
THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
2.1.1 Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2013-2016.
I Về tăng trưởng kinh tế:
Giai đoạn 2013-2016, tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 6.07%, thấp hơn so với mức 7.01% của giai đoạn 2006-2012 Tuy nhiên, đây là tốc độ tăng trưởng hợp lý sau giai đoạn phục hồi kinh tế trong bối cảnh nhiều bất ổn, sản xuất gặp khó khăn và lạm phát gia tăng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo quyết liệt để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả của các biện pháp đã được ban hành.
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2013 - 2016
Năm 2017, Chính Phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6,7% so với năm 2016, với các chỉ tiêu cụ thể như: tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến tăng 6-7%; tỷ lệ nhập siêu khoảng 3,5% so với tổng kim ngạch xuất khẩu; tốc độ tăng giá tiêu dùng bình quân ước đạt khoảng 4%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 31,5% GDP; và 87% khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Giai đoạn 2013-2016 chứng kiến lạm phát ổn định ở mức thấp nhất trong hơn 10 năm, góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô Thị trường ngoại hối và tỷ giá cũng được giữ vững, trong khi dự trữ ngoại hối đạt mức kỷ lục và thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện Những yếu tố này đã được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế xem xét để nâng cao hệ số tín nhiệm của Việt Nam.
Ngân sách nhà nước (NSNN) dồi dào có thể hỗ trợ hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) giải quyết nợ xấu, nhưng theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), NSNN của Chính phủ luôn trong tình trạng bội chi Do đó, nguồn vốn mà Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) sử dụng để xử lý nợ xấu chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng nợ xấu cần mua Hơn nữa, vốn của VAMC cũng xuất phát từ ngân sách của Chính phủ, trong khi NSNN hạn hẹp khiến việc hỗ trợ tài chính từ Chính phủ trở nên không khả thi.
Kết luận: Giai đoạn 2013-2016, kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực sau khủng hoảng Mặc dù GDP năm 2016 giảm so với dự toán, nhưng năm 2017 hứa hẹn sẽ có nhiều cải cách Để đạt được điều này, cần phải thúc đẩy và "làm sạch" hoạt động của hệ thống ngân hàng trong những năm tới.
2.1.2 Tổng quan tình hình hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM.
Tính đến ngày 30/04/2017 Việt Nam có 4 NHTM Nhà nước, 2 NH chính sách,
Việt Nam hiện có 31 ngân hàng thương mại cổ phần, 2 ngân hàng liên doanh và 61 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, cùng với sự phát triển của nhiều công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và quỹ tín dụng từ trung ương đến địa phương Trong bối cảnh đổi mới nền kinh tế, ngân hàng thương mại và các định chế phi ngân hàng đã có sự phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào thành tựu kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm qua Đặc biệt, nghiệp vụ tín dụng luôn được các ngân hàng thương mại chú trọng, không chỉ vì chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu mà còn do những rủi ro mà các nhà kinh doanh tiền tệ phải đối mặt khi tìm kiếm lợi nhuận.
Tăng trưởng tín dụng "nóng" là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nợ xấu Theo thống kê, từ năm 2013 đến 2016, sau cơn "bão đen" nợ xấu, tình hình tín dụng đã có những biến động đáng kể.
KHOA NGẨN HÀNG các nhà băng tốc độ tăng tín dụng ở mức vừa phải không quá nhiều như giai đoạn 2008-2012 và tăng chậm , có kiểm soát.
Biểu đồ 2: Mức tăng trưởng vốn huy động và tín dụng giai đoạn 2013-2016
Mức tăng trưởng tín dụng trong năm 2016 đạt 18,39%, hoàn thành mục tiêu mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đề ra So với năm 2013, tình hình tín dụng đã có sự cải thiện rõ rệt, hỗ trợ tích cực cho các hoạt động đầu tư và phát triển kinh tế.
Lê Xuân Nghĩa (nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu phát triển kinh doanh (BDI)) cho rằng, tăng trưởng tín dụng năm
Năm 2013, tăng trưởng tín dụng toàn ngành đạt 12,51%, vượt chỉ tiêu đề ra, nhưng nếu loại trừ lạm phát, lãi nhập vào gốc và các khoản tăng “giả tạo” giữa các ngân hàng, thì tăng trưởng ròng thực tế rất thấp Đến hết tháng 10/2013, tín dụng toàn hệ thống chỉ tăng 7,18%, cho thấy sự sai lệch trong thông tin về tổng dư nợ, làm cho việc thẩm định và đo lường rủi ro trở nên phức tạp hơn.
Cơ cấu tín dụng cũng có nhiều biến đổi cụ thể trong giai đoạn cuối năm 2013 -
2016, tín dụng tiêu dùng tăng mạnh, cuối năm 2016 ước tăng 39% so với cuối năm
Tính đến năm 2015, tín dụng tiêu dùng chiếm 11,4% tổng tín dụng, tăng từ 9,8% năm 2015, trong đó gần 50% tập trung vào cho vay sửa chữa và mua nhà Cơ cấu tín dụng theo kỳ hạn ổn định từ tháng 12/2014 đến năm 2016, với tín dụng ngắn hạn chiếm 45% và tín dụng trung, dài hạn chiếm 55% Tín dụng trung, dài hạn mang lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro lớn Hơn 90% cho vay vẫn là tín dụng VND do sự mất giá của NDT và giảm lãi suất của FED, kết hợp với chính sách "thu hẹp" đô la hóa của Chính phủ.
Hình ảnh 1: Cơ cấu tăng trưởng tín dụng theo ngành nghề năm 2016
Vào năm mới 2017, đại diện Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nhận định rằng thị trường tài chính Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều thách thức do những biến động khó lường trên thế giới Vì vậy, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 18% và sẽ tiếp tục giảm lãi suất cho vay trung và dài hạn.
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay.
Trong giai đoạn 2013-2016, lãi suất huy động và cho vay đã giảm và ổn định Từ tháng 9/2011 đến tháng 6/2013, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 8 lần điều chỉnh giảm lãi suất huy động tiền gửi VNĐ Năm 2014, NHNN thực hiện 2 lần cắt giảm trần lãi suất huy động, giảm từ 7% xuống 6% cho kỳ hạn dưới 6 tháng và từ 6% xuống 5,5% vào tháng 10 Lãi suất cho vay cũng giảm mạnh, đặc biệt với 5 lĩnh vực ưu tiên chỉ còn 7%/năm Năm 2015, lãi suất huy động tiếp tục giảm 0,2-0,5%/năm, củng cố lòng tin vào VND, trong khi lãi suất cho vay giảm 0,3-0,5%/năm, đưa mặt bằng lãi suất giảm khoảng 50% so với cuối năm 2011.
Lãi suất cho vay tại KHOA NGẨN HÀNG hiện đang dao động từ 6-9% cho các khoản vay ngắn hạn và 9-11% cho các khoản vay dài hạn Trong năm 2016, lãi suất cho vay và huy động không có nhiều biến động lớn, giữ ổn định tương tự như mức cuối năm 2015.
Lãi suất huy động và cho vay của Việt Nam vẫn cao so với các nước trong khu vực do chính sách tiền tệ và quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Các tổ chức tín dụng phải sử dụng phần lớn lợi nhuận để xử lý nợ xấu, khiến việc giảm lãi suất trở nên khó khăn Thêm vào đó, trái phiếu Chính phủ với lãi suất cao cũng tạo áp lực lên mặt bằng lãi suất Mặc dù hệ thống ngân hàng mong muốn giảm lãi suất, nhưng cần phải cân nhắc liều lượng giảm sao cho vừa đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, vừa an toàn cho hệ thống và phù hợp với khả năng chịu đựng của các tổ chức tín dụng.
Biểu đồ 3: Chỉ số sinh lời của hệ thống ngân hàng giai đoạn 2013-2016.
Năm 2013, lợi nhuận của hầu hết các ngân hàng sụt giảm do lãi suất giảm mạnh và chênh lệch lãi suất đầu ra-đầu vào chỉ còn 1,5-1,7%, thấp hơn mức cần thiết từ 3-3,5% để bù đắp chi phí Tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm và tâm lý e ngại nợ xấu khiến dòng vốn khó lưu thông Tuy nhiên, từ năm 2014, lợi nhuận ngân hàng bắt đầu tăng trở lại, mặc dù mức tăng chưa đáng kể Năm 2015, các ngân hàng thương mại phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng, đồng thời phải xử lý nợ xấu để đưa tỷ lệ này về dưới 3% Năm 2016, chỉ số sinh lời có dấu hiệu khởi sắc khi nền kinh tế phục hồi, nhưng câu hỏi về việc nợ xấu có giảm hay không vẫn còn bỏ ngỏ.
2016 -2020 không lại là một câu hỏi với các NHTM khi mà các khoản bán nợ choVAMC bắt đầu không khả thi.
THỰC TRẠNG NỢ XẤU TẠI HT NHTM VIỆT NAM NĂM 2013- 2016 .27
Biểu đồ 4: Mối quan hệ giữa tổng dư nợ và nợ xấu giai đoạn 2013-2016
Năm 2013, tỷ lệ nợ xấu vẫn tiếp tục tăng cao, chạm mức 4, 67% vào tháng
Tính đến tháng 6/2013, tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng đã giảm xuống còn 4,46%, so với 4,65% vào cuối tháng 5/2013 Đến cuối tháng 12/2013, tỷ lệ này tiếp tục giảm xuống còn 3,61% Những năm sau đó, tỷ lệ nợ xấu giảm mạnh, đặc biệt sau khi tổ chức mua bán nợ VAMC ra đời, giúp tỷ lệ nợ xấu giảm từ hơn 3% xuống còn 2,8% vào cuối tháng 12/2016.
Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam luôn duy trì trên 3% Tính đến quý I/2017, tình hình nợ xấu đã có sự thay đổi đáng kể, với khoảng 10 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tăng so với cuối năm 2016.
Hình ảnh 2: Tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng thời điểm ngày 31/3/2017.
Trong quý I/2017, có khoảng 4/6 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu giảm, bao gồm Sacombank, VIB, Vietcombank và Kienlongbank Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu của Sacombank vẫn cao nhất trong danh sách, ở mức 4,89%, với tổng nợ xấu kỷ lục hơn 10.083 tỷ đồng, chưa kể 37.760 tỷ đồng nợ xấu bán cho VAMC, ước tính tổng nợ xấu khoảng 47.843 tỷ đồng BIDV, ngân hàng lớn duy nhất trong top 3, có tỷ lệ nợ xấu cao 2,14%, tăng từ 1,99% vào cuối năm 2016, với tổng nợ xấu đạt 16.250 tỷ đồng, tăng 13% trong ba tháng đầu năm Trong khi đó, Vietcombank có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất trong ba ngân hàng lớn, đạt 1,48%, giảm nhẹ so với 1,51% vào cuối 2016, với tổng nợ xấu 7.377 tỷ đồng, tăng hơn 6% Kienlongbank và BacABank duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 1%, lần lượt là 0,96% và 0,82%.
2.2.2 Cơ cấu nợ xấu của hệ thống ngân hàng giai đoạn 2013-2016:
Biểu đồ 5: Cơ cấu nhóm nợ xấu giai đoạn 2013-2016 ĐƠN VỊ: %
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN giai đoạn 2013 -2016
Trong cơ cấu nợ xấu, nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) luôn chiếm hơn 50% tổng nợ xấu, chủ yếu do quy định TT-02/NHNN từ năm 2013 đã làm các khoản nợ tốt bị chuyển xuống nhóm xấu Mặc dù quy định phân loại nợ xấu giúp đánh giá chính xác rủi ro tín dụng, nhưng trong những năm gần đây, nợ nhóm 1, 2 tăng lên trong khi nợ có khả năng mất vốn giảm nhẹ, cụ thể là giảm 0,1% vào quý 1/2017 Nhìn chung, nhờ vào chính sách đa dạng hóa danh mục tín dụng và thắt chặt chính sách tiền tệ của NHNN, nợ nhóm 5 có xu hướng giảm dần trong tổng nợ xấu của hệ thống ngân hàng.
HOÀNG THỊ XINH 29 KHOA NGẨN HÀNG
Hình ảnh 3: Nợ có khả năng mất vốn tại một số ngân hàng thương mại. Đơn vị: Tỷ đông
Mặc dù Sacombank đang đối mặt với tỷ lệ nợ xấu cao, nhưng điểm tích cực là nợ có khả năng mất vốn của ngân hàng này đã giảm khoảng 7%, chỉ còn 6.600 tỷ đồng Trong khi đó, BIDV ghi nhận sự gia tăng 4,5% trong nợ có khả năng mất vốn Đáng chú ý, VIB đã giảm gần 13% nợ có khả năng mất vốn, hiện còn khoảng 1.167 tỷ đồng.
Tính đến tháng 3 năm 2017, tỷ lệ nợ xấu của Techcombank đã tăng từ 1.58% lên 1.89%, với tổng nợ xấu tăng gần 16%, đạt hơn 2.600 tỷ đồng, trong đó nợ có khả năng mất vốn chiếm 1.506 tỷ đồng, tăng 10% so với cuối năm 2016 Ngân hàng MBB cũng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tăng lên 1,35%, với nợ có khả năng mất vốn tăng gần 40%, đạt 854 tỷ đồng, trong khi nợ nhóm 2 tăng gấp rưỡi lên 730 tỷ đồng và nợ nhóm 1 giảm hơn một nửa còn 435 tỷ đồng Đáng chú ý, Vietinbank đã tăng nợ nhóm 1 hơn 70%, lên 3.606 tỷ đồng, trong khi nợ có khả năng mất vốn giảm 9% xuống 3.487 tỷ đồng Mặc dù báo cáo tài chính không cho thấy số nợ xấu của VietinBank gửi VAMC, ngân hàng này dự kiến sẽ mua lại nợ từ VAMC trong năm nay Tỷ lệ nợ xấu của VietinBank cũng đã tăng từ 1,02% vào cuối năm 2016 lên 1,13% vào cuối tháng 3.
Trong 3 ông lớn thì Vietcombank có tỷ nợ xấu giảm nhưng trong đó nợ có khả năng mất vốn tăng 3% lên 4.369 tỷ đồng Đáng chú ý là nợ nhóm 2 tăng hơn 40%, lên 1.885 tỷ đồng Kienlongbank và BacABank là hai ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu duy trì dưới 1%, tổng nợ xấu cũng như nợ có khả năng mất vốn trong kỳ thay đổi không đáng kể, Kienlongbank có khoảng 145 tỷ đồng đồng nợ có khả năng mất vốn, BacABank là
2.2.3 Dự phòng rủi ro tín dụng so với tổng dư nợ.
Khảo sát cho thấy 2/3 các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ, thường có tỷ lệ dự nợ cho vay trên dự phòng rủi ro cao Ví dụ, trong các năm 2013 và 2014, sau khi bán nợ cho VAMC, tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) trên trái phiếu trở thành gánh nặng cho nhiều ngân hàng Tuy nhiên, tỷ lệ này đôi khi thấp do mức trích lập DPRR tăng chậm hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Biểu đồ 6: Tỷ lệ DPRR/Dư nợ của một số NHTM giai đoạn 2013 -2016.
Nguồn: Tổng hợp từ BCTN các NHTM giai đoạn 2013-2016.
Nhiều người có thể cho rằng Vietcombank, Tech, MB và SHB có chính sách tín dụng không hiệu quả khi tỷ lệ DPRR của họ luôn lớn hơn 1 Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn chính xác, vì số DPRR mà các ngân hàng này trích lập không chỉ dành cho các khoản tín dụng mới mà còn để xử lý các khoản tín dụng cũ Vietcombank, Tech và MB là những ngân hàng chủ động trong việc xử lý nợ xấu, đặc biệt là những khoản nợ có khả năng mất vốn, thay vì chờ đợi 5 năm để xóa khỏi báo cáo tài chính Chính sách xử lý nợ của các ngân hàng này cho thấy sự chủ động và linh hoạt trong việc quản lý rủi ro tín dụng.
Các ngân hàng có chỉ số DPRR/Dư nợ thấp thường có chi phí cao hơn trong năm, trong khi đó, các ngân hàng có chỉ số này cao lại có mức chi phí thấp hơn Nguyên nhân một phần là do tăng trưởng tín dụng của họ thấp hơn so với huy động và dịch vụ, cùng với kết quả kinh doanh tốt giúp các ngân hàng chủ động trích lập DPRR để xử lý nợ Điều này cho thấy rằng hệ số DPRR/Dư nợ chưa phản ánh đầy đủ bản chất của việc bù đắp rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2.2.4 Chi phí DPRR trên lợi nhuận ròng
Hình ảnh 4: Chi phí DPRR/lợi nhuận ròng của một số NHTM.
Vietcombank ghi nhận lãi trước thuế đạt 6.326 tỷ đồng, tăng 36% so với cùng kỳ năm 2015 Sự tăng trưởng này không chỉ phản ánh sự phát triển trong hoạt động kinh doanh mà còn do ngân hàng giảm tỷ lệ trích lập dự phòng từ 50% trong 9 tháng đầu năm 2015 xuống còn 42% trong 9 tháng đầu năm 2016.
MBBank, ACB, Techcombank và LienVietPostBank đều giảm trích lập dự phòng rủi ro (DPRR), mỗi ngân hàng có câu chuyện riêng MBBank ghi nhận lợi nhuận thuần 3.916 tỷ đồng, giảm 7,9% so với cùng kỳ năm 2015 Tuy nhiên, ngân hàng này đã thoát khỏi tình trạng tăng trưởng lợi nhuận âm nhờ giảm mạnh mức trích lập DPRR từ 40% xuống 29%, dẫn đến lợi nhuận trước thuế khả quan hơn.
MB ghi nhận lợi nhuận tăng 9,2%, đạt 2.788 tỷ đồng Trong khi đó, Techcombank có sự tăng trưởng ấn tượng với lợi nhuận thuần tăng 34% và lãi sau thuế tăng tới 85% Mặc dù mức trích lập dự phòng của Techcombank chỉ ở mức 51%, thấp hơn so với 64% cùng kỳ năm ngoái.
Sacombank nổi bật trong lĩnh vực trích lập dự phòng khi trở thành ngân hàng duy nhất hoàn nhập dự phòng 54 tỷ đồng trong quý III/2016 Nguyên nhân chính cho động thái này là do Sacombank đã trích lập dự phòng đáng kể trong quý I, II/2016 và đặc biệt là quý IV/2015, ngay sau khi sáp nhập với Southern Bank.
Trường hợp của BIDV và Eximbank cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong tỷ lệ trích lập dự phòng Trong 9 tháng đầu năm 2016, BIDV tăng tỷ lệ trích lập dự phòng từ 42% lên 55%, trong khi Eximbank có sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn, từ 42% lên 82% Điều này dễ hiểu, khi BIDV đang dẫn đầu về tổng nợ xấu trong các ngân hàng thương mại cổ phần, trong khi Eximbank lại đứng đầu về tỷ lệ nợ xấu.
THỰC TRẠNG XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
2.3.1 Tần suất sử dụng các biện pháp xử lý nợ xấu.
Theo thống kê hiện nay, có 7 biện pháp chính được các tổ chức tín dụng (TCTD) áp dụng để xử lý nợ xấu, tuy nhiên không phải tất cả đều được sử dụng triệt để Mỗi ngân hàng sẽ áp dụng các biện pháp khác nhau tùy thuộc vào thị trường tín dụng, chính sách, nguyên nhân phát sinh nợ xấu và mức độ ảnh hưởng Bài viết này thống kê mức độ ưa thích của các TCTD trong việc xử lý nợ xấu tại hệ thống ngân hàng Việt Nam, dựa trên phỏng vấn và tham khảo ý kiến từ các cán bộ tín dụng về các biện pháp được ưa chuộng khi khoản vay gặp rủi ro.
Biểu đồ 8: Tần suất sử dụng các biện pháp xử lý nợ xấu năm 2016
Sử dụng Thanh lý Muabanno Dùngpháp Cơ cấu nợ Chuyến Chứng
DPRR TSDB luật thành vốn khoán hóa góp
■ Sử dụng DPRR BThanhIyTSDB BMuabannp
Dùng pháp luật ■ Cơ cấu nợ BChuyen thành vốn góp
Theo thống kê năm 2016, các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam ưa chuộng các biện pháp xử lý nợ xấu như trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) và sử dụng tài sản đảm bảo (TSĐB) do chi phí thấp và dễ thực hiện Trích lập DPRR được xem là phương pháp ưu tiên hàng đầu, mặc dù có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng Việc mua bán nợ, mặc dù không được coi là giải pháp triệt để, giúp kéo dài thời gian xử lý nợ cho các ngân hàng Chứng khoán hóa, mặc dù hiệu quả ở một số quốc gia như Hàn Quốc và Trung Quốc, vẫn là một khái niệm mới và khó áp dụng tại thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam.
2.3.2 Thực trạng sử dụng các phương pháp xử lý nợ xấu.
Trong 4 năm trở lại đây, các biện pháp chính được sử dụng để giảm nợ xấu bao gồm: VAMC thu hồi nợ, TCTD trích lập dự phòng trên trái phiếu đặc biệt VAMC, TCTD tự xử lý (bằng xóa nợ, thu hồi nợ ) Qua phương pháp đo lường của mình, báo
Theo báo cáo của VCBS năm 2015, các tổ chức tín dụng (TCTD) chủ yếu tự giải quyết nợ xấu để giảm tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống Phương pháp này vẫn là cách tiếp cận chính trong việc cải thiện tình hình nợ xấu trong ngành ngân hàng.
2015, các TCTD tự giải quyết nợ xấu vẫn là phương pháp chủ yếu góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống
2.3.2.1 Sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng để xử lý nợ xấu:
Việc thực hiện quy định sử dụng dự phòng rủi ro (DPRR) tại các ngân hàng có sự khác biệt rõ rệt Một số ngân hàng có thể linh động trong việc xử lý rủi ro bằng cách sử dụng tài sản đảm bảo (TSĐB) thay vì DPRR Ngoài ra, một số khoản vay còn được ngân hàng xin Chính phủ giữ nguyên nhóm nợ để hạn chế nợ xấu và giảm thiểu việc sử dụng DPRR Tại VP Bank, khoản vay tín chấp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) không có TSĐB để xử lý khi gặp rủi ro, vì bản chất của khoản vay này dựa vào uy tín của doanh nghiệp.
Quy trình tổ chức xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thường linh động và rút gọn hơn so với quy định, nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí Mỗi chi nhánh khi xác định hạn mức cho vay cũng đồng thời xác định mức rủi ro chấp nhận (% nợ xấu/dư nợ) Giám đốc khu vực sẽ chịu trách nhiệm về mức nợ xấu của chi nhánh và báo cáo cho ban điều hành cùng hội đồng quản trị ngân hàng để xác định DPRR trong năm Việc thành lập hội đồng xử lý nợ tùy thuộc vào mục tiêu kinh doanh và chính sách tín dụng của từng ngân hàng Chẳng hạn, tại MB, MB AMC là công ty con chuyên xử lý nợ xấu, và quá trình xử lý nợ thường dựa vào đánh giá từ MB AMC cũng như quyết định của ban hội đồng quản trị và ban điều hành để đưa ra phương pháp phù hợp nhất.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước đang có mức trích lập dự phòng rủi ro cao nhất, với số trích lập của BIDV, Vietcombank và VietinBank trong quý II/2014 đạt trên 4.085 tỷ đồng Đồng thời, nhóm ngân hàng thương mại cổ phần cũng tăng cường trích lập dự phòng rủi ro để đảm bảo an toàn cho hoạt động cho vay.
Việc sử dụng quỹ DPRR để xử lý nợ xấu gặp khó khăn do nguồn trích lập không rõ ràng, đặc biệt khi đơn vị kinh doanh yếu kém Cần xác định liệu hội đồng xử lý nợ có bao gồm những người quyết định phê duyệt khoản vay hay không, và ai sẽ là người giám định điều đó Đồng thời, cần có tỷ lệ hợp lý để đánh giá mức sử dụng quỹ DPRR Ngoài ra, thông tin về việc trích lập tại các ngân hàng thường mập mờ, do đó cần xem xét việc thành lập tổ chức giám sát sử dụng và trích lập DPRR tại mỗi ngân hàng.
2.3.2.2 Mua bán các khoản nợ xấu:
Tại Việt Nam, việc mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) diễn ra phổ biến, tuy nhiên, việc mua bán nợ theo giá thị trường do VAMC chủ trương từ cuối năm 2015 vẫn chưa được thực hiện do nhiều lý do khách quan và chủ quan Hồ Quốc Tuấn, giảng viên tại Đại học Bristol, Anh, nhận định rằng việc chuyển nợ xấu sang VAMC chỉ là một kỹ thuật làm đẹp báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại Hơn nữa, cơ chế xử lý nợ xấu của VAMC vẫn gặp nhiều vướng mắc, khiến các khoản nợ xấu này chỉ được xem là "tạm để đó" mà chưa được giải quyết triệt để.
Biểu đồ 9: Nợ xấu mua và xử lý của VAMC giai đoạn 2013-2016.
Sau hơn ba năm hoạt động, công ty đã thu hồi tổng cộng 42.856 tỉ đồng nợ xấu, trong đó bao gồm 3.692 tỉ đồng từ bán nợ, 11.359 tỉ đồng từ bán tài sản đảm bảo (TSĐB), và 27.805 tỉ đồng do ủy quyền cho các tổ chức tín dụng (TCTD) thu hồi Năm 2014, VAMC đã đạt kết quả mua nợ và thu hồi nợ vượt chỉ tiêu, và đến 26/12/2016, công ty đã mua thêm 8.000 - 9.000 tỉ đồng nợ xấu từ 8 TCTD, nâng tổng số nợ mua trong năm 2016 lên hơn 30.000 tỉ đồng Đến 16/12/2016, công ty đã phối hợp với các TCTD thu hồi nợ và bán TSĐB trị giá hơn 20.697 tỉ đồng, trong đó có 469 tỉ đồng từ bán nợ xấu và 5.496 tỉ đồng từ bán TSĐB, cùng với 14.732 tỉ đồng được thu hồi qua ủy quyền cho các TCTD Tuy nhiên, tốc độ thu hồi nợ so với tổng dư nợ đã mua vẫn còn hạn chế.
Khoa Ngân hàng cho biết, khách hàng tự trả nợ chiếm 70%, trong khi 30% còn lại đến từ việc bán nợ và tài sản bảo đảm Trong đó, việc bán tài sản bảo đảm, bao gồm phát mại và thi hành án để thu hồi nợ, chỉ đạt 10.990 tỷ đồng, tương đương 28,9%.
So với kỳ vọng vào năm 2020, nợ xấu đã được thu hồi cơ bản, nhưng với tốc độ xử lý hiện tại của VAMC, việc đạt được những kỳ vọng đó là điều khó khăn, theo Tiến sỹ Nguyễn.
Quốc Hùng, Chủ tịch Hội đồng thành viên VAMC, cho biết VAMC đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc xử lý nợ xấu, chủ yếu do nội tại của tổ chức này Nợ xấu mà VAMC mua từ các TCTD thường là những khoản khó thu hồi, với nhiều khách hàng không còn hoạt động và không hợp tác trong việc hoàn trả nợ Để giải quyết vấn đề này, VAMC cần áp dụng biện pháp cứng rắn như khởi kiện và thi hành án Bên cạnh đó, nguồn vốn của VAMC còn hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu xử lý nợ theo chức năng của mình, đặc biệt trong việc mua bán nợ theo giá thị trường Việc xử lý nợ xấu sẽ không hiệu quả nếu không có dòng tiền hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng và khách hàng Hơn nữa, khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm do Nghị định 53/2013/NĐ-CP không quy định rõ về chức năng và nhiệm vụ của các cấp, ngành trong việc thu giữ tài sản, khiến cho việc thực hiện thu hồi tài sản gặp nhiều cản trở, đặc biệt khi chủ tài sản không hợp tác.
Tốc độ xử lý nợ xấu của VAMC phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự ổn định của kinh tế vĩ mô và chu kỳ phục hồi của thị trường bất động sản Để tăng hiệu quả thu hồi vốn từ các khoản nợ xấu, cần vượt qua các điểm nghẽn và không chỉ dựa vào mệnh lệnh của cơ quan chức năng hay vai trò của VAMC, mà còn cần sự nỗ lực từ các ngân hàng thương mại.
2.3.2.3 Xử lý tài sản đảm bảo, đòi bảo lãnh bên thứ 3.
Xử lý tài sản đảm bảo (TSĐB) là phương pháp nhanh chóng để thu hồi vốn từ khách hàng, nhưng chi phí xử lý không phải lúc nào cũng thấp và dễ dàng cho ngân hàng Đặc biệt, khi các tổ chức tín dụng (TCTD) bán nợ cho VAMC, câu hỏi quan trọng là cách xử lý TSĐB của các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua TSĐB sẽ được xử lý theo thỏa thuận giữa các bên; nếu không có thỏa thuận, tài sản sẽ được bán đấu giá VAMC có quyền bán đấu giá mà không cần sự đồng ý của khách hàng Ngoài ra, việc bảo lãnh từ bên thứ ba trong trường hợp khoản vay liên quan đến nhiều đối tượng cũng gặp nhiều khó khăn, khiến TCTD gặp trở ngại trong việc thanh lý TSĐB hoặc đòi bảo lãnh do các tranh chấp pháp lý.
Biểu đồ 10: Tỷ lệ nợ xấu được xử lý bằng TSBĐ giai đoạn 2013-2016.
Nguồn: Thống kê từ báo cáo NHTM giai đoạn 2013-2016.
ĐÁNH GIÁ CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU
2.4.1 Thành công trong các phương pháp xử lý nợ xấu.
Việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro đúng thời điểm và hợp lý là rất quan trọng trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam để xử lý nợ xấu Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng vẫn là phương pháp tối ưu, mặc dù nhiều ngân hàng thương mại đã bán nợ cho VAMC, họ vẫn tích cực đòi nợ và thu hồi thay vì chỉ dựa vào khoản nợ đã bán Hầu hết các ngân hàng thương mại đều tự giác chấp hành và nhận thức rõ về việc trích lập dự phòng rủi ro.
Bán nợ và tuân thủ trích lập DPRR đúng theo văn bản của NHNN: Hầu hết các
Các ngân hàng thương mại (NHTM) đều thực hiện việc trích lập Dự phòng rủi ro (DPRR) sau khi bán nợ cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và nhận lại trái phiếu đặc biệt (TPĐB) Nhiều ngân hàng cũng chủ động mua lại nợ xấu đã bán, cho thấy họ không chỉ tuân thủ quy định về trích lập dự phòng mà còn nhận thấy việc bán nợ cho VAMC trong giai đoạn 2014 - 2015 là phương án hiệu quả hơn so với việc tự xử lý nợ xấu.
Trong những năm gần đây, cho vay bất động sản đã giảm, trong khi cho vay cho sản xuất và kinh doanh các mặt hàng như may mặc, thủy sản, dầu và nông sản đã gia tăng đáng kể Điều này cho thấy các ngân hàng đang áp dụng các phương pháp xử lý nợ xấu hiệu quả Mặc dù khoản vay thế chấp vẫn chiếm ưu thế trong danh mục cho vay, nhưng sản phẩm tín chấp vẫn chưa được triển khai rộng rãi Các ngân hàng đã điều chỉnh cơ cấu danh mục sản phẩm nhằm giảm nợ xấu nhưng vẫn đảm bảo lợi nhuận.
2.4.2 Hạn chế trong phương pháp xử lý nợ xấu.
Xử lý nợ xấu là nhiệm vụ quan trọng của ngành ngân hàng trong năm 2017, theo đánh giá của lãnh đạo NHNN Mặc dù tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng đã giảm xuống dưới 3%, nhưng việc xử lý nợ xấu bán cho VAMC vẫn diễn ra chậm do vướng mắc về cơ chế Nếu không giải quyết cơ bản nợ xấu, đặc biệt là nợ xấu trong VAMC trong hai năm 2017 và 2018, ngành ngân hàng sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, nhất là khi có nguy cơ xảy ra cơn bão đen lần 2.
Ngân hàng tại Việt Nam hiện đang thiếu sự đa dạng và linh hoạt trong việc áp dụng các phương pháp xử lý nợ xấu Hiện tại, các ngân hàng thương mại chủ yếu chỉ tập trung vào ba biện pháp chính: sử dụng Dự phòng rủi ro (DPRR) để xử lý nợ xấu, thu hồi nợ thông qua thanh lý tài sản đảm bảo, và bán các khoản nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) Điều này cho thấy sự hạn chế trong việc mở rộng các phương pháp khác như chứng khoán hóa và cơ cấu nợ, dẫn đến hiệu quả xử lý nợ xấu chưa cao.
Hầu hết các biện pháp hiện tại chưa giúp các ngân hàng thương mại thu hồi khoản tín dụng đã cấp, ngoại trừ việc thu nợ từ thanh lý tài sản bảo đảm Các biện pháp khác chủ yếu chỉ làm đẹp báo cáo tài chính mà không thực sự giải quyết vấn đề nợ xấu Theo các nhà nghiên cứu kinh tế, việc thu hồi từ thanh lý tài sản bảo đảm mới thực sự mang lại "tiền thật" cho các ngân hàng từ khách hàng.
Số liệu nợ xấu bị che giấu gây khó khăn cho việc áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu hiệu quả Nhiều ngân hàng công bố tỷ lệ nợ xấu khác nhau tại cùng một thời điểm, làm ảnh hưởng đến khả năng của NHNN trong việc đưa ra giải pháp phù hợp Sự không nhất quán này không chỉ khiến các ngân hàng gặp rủi ro mà còn làm họ e ngại công bố thông tin vì lo ngại ảnh hưởng đến uy tín và tâm lý khách hàng Hệ quả là, NHNN gặp khó khăn trong việc hỗ trợ ngân hàng tìm ra phương án xử lý nợ xấu tối ưu.
2.4.3 Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong các phương pháp xử lý nợ xấu
Các ngân hàng thương mại hiện đang thiếu chủ động trong việc xử lý nợ xấu, dẫn đến tình trạng nợ xấu gia tăng mà không có tác động rõ rệt đến các tổ chức tín dụng Hơn nữa, cơ quan quản lý Nhà nước chưa thiết lập chế tài xử phạt hiệu quả đối với các tổ chức tín dụng khi nợ xấu tăng cao Việc quản lý và xử lý nợ xấu chủ yếu dừng lại ở việc ban hành chính sách và hướng dẫn, trong khi công tác giám sát thực hiện còn lỏng lẻo, khiến các tổ chức tín dụng vẫn thụ động trong quá trình này.
Quá trình giám sát xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện đang gặp nhiều bất cập Khi các khoản vay bị phân loại vào nhóm nợ xấu, các ngân hàng thường chỉ chú trọng vào việc tìm kiếm giải pháp xử lý nhanh chóng và tiết kiệm chi phí, mà không thực hiện giám sát hiệu quả của các biện pháp đó Điều này dẫn đến việc thiếu đánh giá về khả năng áp dụng các phương pháp xử lý cho các khoản vay khác, trong khi mỗi khoản vay đều có nguyên nhân rủi ro khác nhau Hơn nữa, sự khác biệt trong mục tiêu kinh doanh của từng ngân hàng cũng ảnh hưởng đến mức độ chấp nhận rủi ro, làm cho quá trình xử lý nợ xấu trở nên kém hiệu quả.
Thiếu đội ngũ chuyên môn trong việc đánh giá các phương pháp xử lý nợ xấu là một vấn đề lớn tại các ngân hàng Mỗi ngân hàng áp dụng quy trình xử lý nợ xấu riêng biệt, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong toàn hệ thống Điều này gây khó khăn khi một khoản vay gặp rủi ro, vì không có chuyên gia để đưa ra phương pháp xử lý tối ưu nhất, từ đó ảnh hưởng đến việc tiết kiệm thời gian và chi phí Việc đánh giá hiệu quả của các phương pháp sau khi áp dụng cũng trở nên khó khăn hơn, làm giảm khả năng cải thiện quy trình xử lý nợ xấu.
Nguồn lực ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu hiện đang bị hạn chế, khiến cho việc cơ cấu nợ trở nên khó khăn Các ngân hàng phải lựa chọn kỹ lưỡng các khoản nợ để cơ cấu, dẫn đến việc có thể bỏ lỡ cơ hội hỗ trợ cho những khoản nợ khác Hơn nữa, lợi nhuận dành cho việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cũng bị giới hạn, làm cho con số nợ xấu được công bố thấp hơn so với thực tế Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn, khiến nợ xấu không được giải quyết triệt để.
Nền kinh tế hiện đang trong giai đoạn phục hồi nhưng còn yếu ớt, với sự thiếu hụt trong tăng trưởng rõ rệt Việc xử lý nợ xấu và phục hồi kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ, vì nợ xấu chỉ có thể được giải quyết triệt để khi doanh nghiệp và cá nhân khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra lợi nhuận và có khả năng trả nợ cho ngân hàng Để đạt được điều này, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ từ các bộ ngành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động, thúc đẩy tổng cầu và góp phần vào việc xử lý nợ xấu một cách hiệu quả hơn.
Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện, với tỷ lệ nợ xấu mà VAMC xử lý sau 2 năm cho thấy tốc độ xử lý rất chậm Việc này gặp nhiều rào cản, bao gồm thiếu minh bạch thông tin, khung pháp lý chưa rõ ràng và trình độ kỹ năng của đội ngũ thực hiện còn hạn chế Đến nay, VAMC chưa thể sử dụng “tiền thật” để mua nợ theo giá trị thị trường, dẫn đến việc xử lý nợ xấu không hiệu quả như các phương pháp phổ biến trên thế giới Thực tế, VAMC chỉ đóng vai trò như một "kho" để các TCTD lưu trữ nợ xấu.
Tốc độ thi hành án chậm: Gây ra nhiều rắc rối cho ngân hàng trong việc xử lý
TSBĐ là một khoản nợ được công chứng và có giao dịch đảm bảo, đã hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết, trong đó ngân hàng giữ vai trò là người nắm giữ giấy tờ sở hữu chính.
Ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý và thu hồi nợ, khi gần như không có quyền hạn và phụ thuộc hoàn toàn vào sự hợp tác của bên chủ tài sản Nếu bên vay không hợp tác, ngân hàng sẽ khó khăn trong việc thu giữ tài sản và phải nhờ đến sự can thiệp của cơ quan pháp luật Thêm vào đó, quy trình đưa vụ việc ra tòa án thường rất phức tạp và rườm rà, ngay cả đối với những trường hợp đơn giản Điều này dẫn đến tình trạng nợ xấu ngày càng gia tăng, khiến cho các khoản vay có giấy tờ đầy đủ lẽ ra chỉ mất vài tháng để xử lý lại kéo dài thành vài năm.