1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu tại các NH thương mại việt nam khóa luận tốt nghiệp 035

84 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Nợ Xấu Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Tác giả Lê Thị Hoàng Hà
Người hướng dẫn THS. Phạm Hồng Linh
Trường học Học viện Ngân hàng
Chuyên ngành Ngân hàng
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 84
Dung lượng 655,48 KB

Cấu trúc

  • KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

    • CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG BÉN NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

      • LỜI CAM ĐOAN

      • LỜI CẢM ƠN

      • MỤC LỤC

      • LỜI MỞ ĐẦU

      • 1.1. Những vấn đề cơ bản về nợ xấu.

      • 1.1.1. Khái niệm nợ xấu.

      • 1.1.2 Các tiêu chí xác định nợ xấu ngân hàng.

      • 1.1.2.1. Các tiêu chí xác định nợ xấu xây dựng theo các tổ chức thế giới.

      • 1.1.2.2. Các tiêu chí xác định nợ xấu xây dựng theo pháp luật VN.

      • 1.1.3. Tác động của nợ xấu.

      • 1.1.3.1. Đối với ngân hàng.

      • 1.1.3.2. Đối với khách hàng.

      • 1.1.3.3. Đối với nền kinh tế.

      • 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu.

      • 1.2.1. Nhóm yếu tố vi mô( yếu tố từ ngân hàng).

      • 1.2.2. Nhóm các yếu tố vĩ mô (yếu tố đến từ nền kinh tế).

      • 1.2.3. Yeu tố từ khách hàng.

      • 1.2.4. Các yếu tố khác.

      • 1.3. Sơ lược tình hình nghiên cứu đề tài.

      • 1.3.1. Các nghiên cứu quốc tế về các yếu tố tác động đến nợ xấu.

      • 1.3.2. Các nghiên cứu trong nước về các yếu tố tác động đến nợ xấu.

      • KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

      • 2.1 Tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2010-2019.

      • Hình 2.1: Quy mô tổng tài sản hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011- 2019.

      • Hình 2.3: Tăng trưởng tín dụng hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2010- 2019.

      • 2.2.1. Toàn cảnh nợ xấu tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2019.

      • 2.2.2. Tình hình xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2019.

      • 2.3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu NHTM Việt Nam.

      • 2.3.1. Lựa chọn mô hình và biến số nghiên cứu.

      • 2.3.2. Dữ liệu nghiên cứu và phương pháp xử lý.

      • 2.3.2.1. Dữ liệu nghiên cứu.

      • 2.3.2.2. Phương pháp xử lý dữ liệu.

      • 2.3.3.2. Kiểm tra hệ số tương quan giữa các biến.

      • 2.3.3.3. Kết quả hồi quy các mô hình:

      • Bảng 2.5: Kết quả hồi quy 3 mô hình Pooled OLS, FEM, REM.

      • 2.3.3.4. Kiểm tra tính phù hợp của mô hình FEM.

      • NPLi,t = 2,2043- 0,9758*GDPi,t + 0, 0504*INi,t - 0,0079*SIZEi,t + 0,00852*LOANi,t + 0,5630*NPLi,t-1

      • 2.4.1. Ket quả đạt được sau xử lý nợ xấu.

      • 2.4.2. Hạn chế còn tồn tại.

      • 2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế.

      • 2.4.3.1. Nguyên nhân gây ra nợ xấu trong NHTM Việt Nam.

      • 2.4.3.2. Nguyên nhân của hạn chế trong công tác xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt Nam.

      • KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

      • CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM GIẢM THIỂU NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

      • 3.1. Một số giải pháp hạn chế nợ xấu tại các NHTM Việt Nam.

      • 3.1.1. Thường xuyên theo dõi và giám sát tốc độ tăng trưởng tín dụng.

      • 3.1.2. Kiểm soát tốc độ tăng trưởng quy mô ngân hàng cùng với với giám sát chặt nghiệp vụ cho vay.

      • 3.1.3. Một số giải pháp nội bộ khác cho cán bộ quản lý ngân hàng.

      • 3.2.1. Một số kiến nghị với nhà nước, chính phủ.

      • 3.2.2. Một số kiến nghị với NHNN.

      • KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

      • KẾT LUẬN CHUNG

      • Tài liệu tiếng Anh:

      • Phụ lục 04. Ket quả hồi quy mô hình

      • Mô hình Pooled OLS

      • Mô hình REM

      • Kiểm định Hausman

      • Kiểm định Tự tương quan của FEM

      • 1.3.1.1. Lựa chọn mô hình phù hợp.

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ NỢ XẤU VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Những vấn đề cơ bản về nợ xấu

Nợ xấu, hay còn gọi là Non-performing loan (NPL), là khái niệm phức tạp và không thống nhất, được định nghĩa khác nhau bởi các tổ chức và quốc gia khác nhau Nợ xấu thường được hiểu là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể là các khoản vay quá hạn hoặc có dấu hiệu nghi ngờ về khả năng trả nợ của khách hàng.

Một số quan điểm quốc tế về nợ xấu:

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, 2008), nợ xấu được xác định khi khoản vay quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi từ 90 ngày trở lên, hoặc khi lãi suất đã quá hạn và được vốn hóa, cơ cấu lại hoặc trì hoãn Ngoài ra, nếu khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay không thể hoàn trả nợ, khoản vay cũng được coi là nợ xấu Từ thời điểm đó, khoản vay sẽ tiếp tục được phân loại là nợ xấu cho đến khi được xóa nợ hoặc thu hồi đầy đủ cả gốc lẫn lãi.

Theo Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), nợ xấu được xác định khi khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày, hoặc lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận Ngoài ra, các khoản phải thanh toán quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng thanh toán đầy đủ cũng được coi là nợ xấu.

Theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS), không có định nghĩa cụ thể về nợ xấu, nhưng họ đưa ra hướng dẫn rằng nợ xấu là các khoản nợ không có khả năng hoàn trả khi xảy ra một trong hai điều kiện: (1) Ngân hàng nhận thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ mà chưa thực hiện hành động thu hồi nào; (2) Người vay đã quá hạn trả nợ trên 90 ngày.

Nợ xấu tại Việt Nam, bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn, được quy định trong văn bản hợp nhất 01/VBHN-NHNN Nợ xấu được xác định khi các khoản nợ quá hạn trên 90 ngày hoặc có dấu hiệu lo ngại về khả năng trả nợ Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM) cũng được đánh giá qua tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ.

1.1.2 Các tiêu chí xác định nợ xấu ngân hàng.

1.1.2.1 Các tiêu chí xác định nợ xấu xây dựng theo các tổ chức thế giới.

Các tiêu chí xác định nợ xấu có sự khác biệt tùy theo khu vực và quốc gia Dưới đây là một số phương pháp phổ biến để xác định nợ xấu, được đề xuất bởi các tổ chức quốc tế.

Ngân hàng Thế giới xác định nợ theo năm nhóm tiêu chí khác nhau, giúp phân loại và đánh giá tình hình nợ một cách rõ ràng và hiệu quả.

- Nợ đạt tiêu chuẩn: (1) Không nghi ngờ về khả năng trả nợ; (2) Tài sản được đảm bảo hoàn toàn bằng tiền hoặc tương đương; (3) Quá hạn dưới 90 ngày.

Nợ cần theo dõi bao gồm những điểm yếu tiềm tàng có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, các điều kiện kinh tế hoặc viễn cảnh tài chính khó khăn, và tình trạng quá hạn dưới 90 ngày.

Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm các yếu tố như nhược điểm về tín dụng có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, các khoản nợ đã được thỏa thuận lại, và những khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày.

- Nợ đáng ngờ: (1) Không chắc thu hồi được toàn bộ nợ dựa trên các điều kiện hiện tại; (2) Có khả năng thất thoát; (3) Quá hạn từ 180-360 ngày.

- Nợ mất vốn: (1) Các khoản vay không thu hồi được; (2) Quá hạn hơn 360 ngày.

Theo cách xác định này, nợ xấu là các khoản nợ tập trung ở ba nhóm: nợ dưới chuẩn, nợ đáng nghi ngờ, nợ mất vốn.

Theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), nợ được phân thành 5 loại khác nhau, mỗi loại được xác định dựa trên các tiêu chí cụ thể.

- Nợ đủ chuẩn: Các khoản vay có khả năng được thanh toán.

- Nợ cần chú ý đặc biệt: Các khoản vay với doanh nghiệp mà có thể có khó khăn trong việc thu hồi.

Nợ dưới chuẩn là những khoản vay mà tiền lãi hoặc gốc thanh toán đã quá hạn 3 tháng Để đối phó với rủi ro, ngân hàng sẽ trích 10% dự phòng cho các khoản vay này.

Nợ nghi ngờ là những khoản vay mà khả năng thanh toán bị nghi ngờ và có khả năng gây ra tổn thất cho ngân hàng Để quản lý rủi ro, ngân hàng sẽ trích lập dự phòng 50% cho các khoản nợ thuộc nhóm này.

Nợ có khả năng mất vốn là những khoản nợ không thể thu hồi, và theo quy định của luật phá sản, các khoản nợ này được áp dụng các biện pháp bảo vệ Tỷ lệ trích lập dự phòng cho nhóm nợ này đạt mức 100%.

Theo cách xác định của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), nợ xấu bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm nợ dưới chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn Những khoản nợ này được phân loại dựa trên mức độ khó khăn trong việc thu hồi.

1.1.2.2 Các tiêu chí xác định nợ xấu xây dựng theo pháp luật VN. Ở Việt Nam, các nhóm nợ được phân chia theo quy định pháp luật, cụ thể theo văn bản hợp nhất 01/VBHN-NHNN (2014), hợp nhất 2 thông tư 02/2013/TT- NHNN và thông tư bổ sung số 09/2014/TT-NHNN Theo đó, nợ cũng được chia thành 5 nhóm bao gồm:

- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn

- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn

- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn

Các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu

Nợ xấu của ngân hàng chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, trong đó hai nhóm chính là yếu tố vi mô và vĩ mô Những yếu tố này có tác động mạnh mẽ và thường xuyên, do đó dễ dàng đưa ra giải pháp hạn chế nợ xấu Bên cạnh đó, còn có các yếu tố khác như đặc điểm khách hàng, môi trường tự nhiên và chính sách pháp luật, nhưng chúng thường mang tính ngẫu nhiên, không thường xuyên và không đặc trưng, nên không được chọn để nghiên cứu.

1.2.1 Nhóm yếu tố vi mô( yếu tố từ ngân hàng).

Các yếu tố vi mô từ bản thân ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến nợ xấu, bao gồm tốc độ tăng trưởng tín dụng, năng lực quản trị, quy mô ngân hàng và hiệu quả hoạt động Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng tín dụng có mối quan hệ tác động cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu, khi ngân hàng cạnh tranh giành thị phần dẫn đến việc nới lỏng điều kiện vay, từ đó gia tăng nợ xấu Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng cao có thể liên quan đến việc giảm các khoản nợ có vấn đề, cho thấy sự phức tạp trong mối quan hệ này.

Ngân hàng tập trung vào hoạt động tín dụng sẽ nâng cao khả năng đánh giá chất lượng tín dụng của khách hàng vay, do đó, tăng trưởng tín dụng có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu theo hai chiều hướng Nhiều nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa quy mô ngân hàng và tỷ lệ nợ xấu là ngược chiều, với lý do các ngân hàng lớn có khả năng cải thiện chất lượng nợ nhờ vào việc đa dạng hóa danh mục đầu tư và sở hữu nhiều nguồn lực cùng kinh nghiệm trong việc xử lý rủi ro Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho rằng tăng trưởng quy mô có thể dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tăng do các ngân hàng lớn chấp nhận rủi ro cao hơn khi mở rộng quy mô.

Tỷ lệ ROE và ROA có mối liên hệ ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu, khi hiệu quả hoạt động kém sẽ dẫn đến khả năng thanh khoản thấp và gia tăng nợ xấu (Louzis, 2010; Mesai và Jouuini, 2013; Rehmen, 2017) Các ngân hàng có lợi nhuận cao thường giảm khả năng tham gia vào các dự án rủi ro, từ đó giảm tỷ lệ nợ xấu (Hu và cộng sự, 2014; Jimenez và Saurina, 2006; Nikolaidou và Vogiazas, 2011) Tỷ lệ dư nợ trên tổng tài sản tăng cao cũng cho thấy nguy cơ nợ xấu gia tăng, như đã chỉ ra trong nhiều nghiên cứu (Ahmad và Bashir, 2013; Ekanayake và Azeez, 2015; Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng, 2013) Tỷ lệ nợ xấu của năm trước có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu hiện tại, cho thấy tác động lâu dài của chất lượng tín dụng (Salas và Saurina, 2002; Klein, 2013; Rajha, 2016) Dự phòng rủi ro tín dụng cũng là yếu tố quan trọng, với mức dự phòng cao phản ánh rủi ro tín dụng lớn và có tác động cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu (Mario, 2006) Cuối cùng, mức độ ứng dụng công nghệ trong ngân hàng có thể giúp giảm tỷ lệ nợ xấu thông qua việc cung cấp thông tin chính xác và đầy đủ, cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa hai yếu tố này (Golden và cộng sự, 1993; Auronen, 2003; Brendon Harper, 2011).

1.2.2 Nhóm các yếu tố vĩ mô (yếu tố đến từ nền kinh tế).

Các yếu tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá hối đoái, cung tiền và lãi suất thực có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ nợ xấu trong ngân hàng Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự biến động của những yếu tố này, như nghiên cứu của Salad và Saurina (2002), Saba và cộng sự (2012), Klein (2013), Rossi (2009), và Rajan và Dhal (2003), có thể tác động trực tiếp đến tình hình nợ xấu.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) là chỉ tiêu quan trọng đánh giá sức khỏe nền kinh tế của một quốc gia Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng GDP có tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ xấu, khi nền kinh tế tăng trưởng cao, doanh nghiệp bán hàng tốt hơn và có khả năng mở rộng sản xuất, dẫn đến thu nhập và lợi nhuận cao hơn, từ đó cải thiện khả năng trả nợ và giảm tỷ lệ nợ xấu Ngược lại, trong nền kinh tế tăng trưởng kém, khả năng trả nợ của doanh nghiệp bị ảnh hưởng do thu nhập không đạt yêu cầu Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa GDP và nợ xấu; trong thời kỳ bùng nổ kinh tế, ngân hàng có xu hướng cấp tín dụng dễ dàng hơn, dẫn đến việc cho vay mà không có sự sàng lọc kỹ lưỡng Khi nền kinh tế suy yếu, khả năng kinh doanh giảm, các khoản vay trước đó có thể trở thành nợ xấu do ngân hàng không thu hồi được vốn.

Tỷ lệ lạm phát có tác động đa chiều đến nợ xấu, phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của từng quốc gia Nghiên cứu của các tác giả như Le (2016), Nkusu (2011), và Pestova và Mamovo (2011) đã chỉ ra mối liên hệ giữa lạm phát và nợ xấu, nhấn mạnh rằng sự biến động của lạm phát có thể ảnh hưởng đến chất lượng tài sản của ngân hàng.

Theo nghiên cứu của Washington (2014) được Trang (2018) trích dẫn, lạm phát tăng có thể làm giảm giá trị thực của khoản vay, từ đó tăng khả năng trả nợ của khách hàng khi lãi suất ngân hàng không thay đổi Tuy nhiên, lạm phát cũng làm giảm thu nhập thực của khách hàng; nếu lãi suất cho vay là thả nổi, khả năng trả nợ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu gia tăng.

Tỷ lệ thất nghiệp có tác động trực tiếp đến nợ xấu, như đã được chứng minh trong các nghiên cứu trước đây (Messai và Jouini, 2013; Rehman, 2017) Khi tỷ lệ thất nghiệp tăng, số lượng người mất việc hoặc không có việc làm gia tăng, dẫn đến việc nguồn trả nợ không đảm bảo Kết quả là, khách hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán, từ đó làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu.

Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ nợ xấu ngân hàng, tương tự như lạm phát Nghiên cứu của Castro (2012), Beck (2013) và Lê Bá Trực (2014) cho thấy khi tỷ giá hối đoái được định giá thấp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu tăng lên, dẫn đến lợi nhuận cao hơn và tỷ lệ nợ xấu giảm Ngược lại, đối với các nền kinh tế phụ thuộc vào nhập khẩu, tỷ giá hối đoái thấp lại làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhập khẩu, khiến lợi nhuận giảm và tỷ lệ nợ xấu tăng, như được chỉ ra bởi Pestova (2011) và Washington (2014).

1.2.3 Yeu tố từ khách hàng.

Khách hàng cá nhân là nhóm vay vốn chủ yếu để tiêu dùng, với nguồn trả nợ chủ yếu từ thu nhập cố định hàng tháng như lương hoặc doanh thu từ sản xuất nhỏ Do đó, bất kỳ yếu tố nào tác động đến thu nhập của nhóm khách hàng này đều có thể dẫn đến tình trạng nợ xấu.

Một số nguyên nhân như sau:

- Khách hàng mất công việc đột ngột, khiến nguồn thu chính không đảm bảo.

- Khách hàng hoặc gia đình khách hàng có gặp những sự cố bất ngờ như bệnh tật, tai nạn

- Khách hàng phát sinh những khoản chi phí bất ngờ, không dự tính được.

Khách hàng vi phạm đạo đức khi cố tình lừa dối ngân hàng thông qua việc lập bảng lương giả, hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả lãi và gốc đúng hạn.

Khách hàng doanh nghiệp là những tổ chức vay vốn với mục đích cụ thể và thường có khoản vay lớn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh Nguồn trả nợ chủ yếu đến từ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Tuy nhiên, một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có thể dẫn đến tình trạng nợ xấu, bao gồm sự biến động của thị trường, quản lý tài chính kém, và thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng.

Ban lãnh đạo doanh nghiệp có thể gặp khó khăn khi năng lực yếu kém hoặc thiếu sự đồng nhất trong ý kiến của các thành viên Những quyết định sai lầm và nhận định không chính xác về tình hình kinh doanh có thể dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của doanh nghiệp.

Do tài chính doanh nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, bao gồm cơ cấu tài chính không cân đối và tình trạng bị chiếm dụng vốn từ khách hàng Những rủi ro này có thể kéo theo tình hình kinh doanh không hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và ổn định của doanh nghiệp.

Sơ lược tình hình nghiên cứu đề tài

Từ đầu thế kỷ XX, nhiều nghiên cứu đã áp dụng mô hình định lượng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu trong ngân hàng và đưa ra giải pháp thích hợp Mỗi nghiên cứu có sự khác biệt về các biến độc lập, số lượng ngân hàng và thời gian nghiên cứu, dẫn đến các kết quả khác nhau từ các mô hình hồi quy Dưới đây là tóm tắt một số nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực này.

1.3.1 Các nghiên cứu quốc tế về các yếu tố tác động đến nợ xấu.

Salas và Saurina (2002) đã nghiên cứu các yếu tố quyết định cho vay của ngân hàng thương mại Tây Ban Nha trong giai đoạn 1985-1997, cho rằng nợ xấu của ngân hàng thương mại yếu chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như tăng trưởng GDP, mở rộng tín dụng, kích thước ngân hàng, tỷ lệ vốn và sức mạnh thị trường Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng tại châu Âu, tốc độ tăng trưởng tín dụng và nợ xấu có mối quan hệ thuận chiều.

Nghiên cứu của Nir Klein (2013) về nợ xấu ở Trung, Đông và Đông Nam Châu Âu trong giai đoạn 1998-2011 cho thấy nợ xấu bị ảnh hưởng bởi các điều kiện kinh tế vĩ mô và yếu tố nội tại của ngân hàng Ông chỉ ra rằng nợ xấu gia tăng khi tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát cao, cùng với sự giảm giá của đồng tiền Chất lượng quản trị ngân hàng có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu, trong khi rủi ro đạo đức và mức độ chấp nhận rủi ro lại có mối quan hệ cùng chiều Nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng nợ xấu của ngân hàng tác động tiêu cực đến tốc độ phục hồi kinh tế sau khủng hoảng ở các nước CESEE.

Nghiên cứu thực nghiệm của Messai & Jouini (2013) đã thu thập dữ liệu từ 85 ngân hàng tại Ý, Hi Lạp và Tây Ban Nha trong giai đoạn 2004-2008 Sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng, nghiên cứu phát hiện rằng khoản nợ xấu có mối quan hệ thuận với khoản dự phòng rủi ro mất vốn và lãi suất thực, trong khi đó, nó có mối quan hệ nghịch chiều với tốc độ tăng trưởng và lãi suất thuần.

Nghiên cứu của Ekanayake & Azeez (2015) về 9 ngân hàng thương mại tại Sri Lanka trong giai đoạn 1999-2012 cho thấy tỷ lệ nợ xấu (NPL) chịu ảnh hưởng từ cả yếu tố vi mô và vĩ mô Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu có mối quan hệ tích cực với tỷ lệ dư nợ trên tổng tài sản, nhưng lại có mối quan hệ tiêu cực với hiệu quả hoạt động của ngân hàng, tốc độ tăng trưởng tín dụng và quy mô ngân hàng Về yếu tố vĩ mô, tỷ lệ nợ xấu ngược chiều với GDP và lạm phát, trong khi có mối quan hệ cùng chiều với lãi suất cho vay cơ bản.

Nghiên cứu của Rajha (2016) về 12 ngân hàng Jordan trong giai đoạn 2008-2012 cho thấy rằng tỷ lệ nợ xấu (NPLs) bị ảnh hưởng bởi cả yếu tố vi mô và vĩ mô Cụ thể, NPLs có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu năm trước và chỉ số nợ trên tổng tài sản, trong khi lại có mối quan hệ ngược chiều với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát, đồng thời cùng chiều với khủng hoảng tài chính toàn cầu Tương tự, nghiên cứu của Rehman (2017) tại khu vực Nam Á chỉ ra rằng tỷ lệ ROE của ngân hàng có mối quan hệ ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu, trong khi tăng trưởng cho vay năm trước lại có mối quan hệ cùng chiều Về yếu tố vĩ mô, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu, trong khi tỷ giá hối đoái lại có mối quan hệ ngược chiều.

1.3.2 Các nghiên cứu trong nước về các yếu tố tác động đến nợ xấu.

Trong bài nghiên cứu của PGS.TS Tô Ngọc Hung và các cộng sự (2013), sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 13 NHTM ở Việt Nam trong giai đoạn 5 năm từ 2008-

Nghiên cứu năm 2012 chỉ ra rằng lạm phát có tác động tích cực đến tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng ở Việt Nam Các yếu tố nội tại của ngân hàng, như khả năng quản trị và tăng trưởng tín dụng, có ảnh hưởng ngược chiều đến nợ xấu, trong khi quy mô ngân hàng lại có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu.

Nghiên cứu của Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013) sử dụng dữ liệu bảng từ 10 ngân hàng thương mại lớn trong giai đoạn 2005-2011 Kết quả cho thấy các biến vi mô như quy mô ngân hàng, tỷ lệ tín dụng và tăng trưởng tín dụng năm trước có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu (NPLs) Ngược lại, tốc độ tăng trưởng GDP có mối quan hệ ngược chiều với NPLs, trong khi tỷ lệ lạm phát lại có mối quan hệ cùng chiều.

Theo nghiên cứu của nhóm tác giả Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toàn (2014) tại

Trong giai đoạn 2009-2012, nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ tăng trưởng tín dụng và quy mô ngân hàng có mối quan hệ tích cực với tỷ lệ nợ xấu (NPL) Ngược lại, tỷ lệ tăng trưởng GDP của năm trước lại có mối quan hệ tiêu cực với NPL.

Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vinh (2015) dựa trên mẫu số liệu từ 23 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007-2014, được coi là toàn diện nhất về các yếu tố ảnh hưởng đến ngân hàng Tác giả đã phân tích nhiều biến số như hiệu quả ngân hàng (L.NPL, ROA, CE), tăng trưởng tín dụng (LRG), quy mô ngân hàng (TA), an toàn vốn (ETA), khả năng thanh toán (LDR), khả năng bù đắp rủi ro (LLR), mức độ cạnh tranh ngành (CR4, HHI), mức độ kiểm soát của chủ sở hữu (OWN), cùng với các biến vĩ mô (GDP, INF, INT, EXI, ESI) Kết quả cho thấy rằng các chỉ số khả năng sinh lời và tăng trưởng kinh tế có tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ xấu, trong khi các chỉ số nợ xấu trong quá khứ, quy mô ngân hàng và tăng trưởng tín dụng lại tác động cùng chiều lên tỷ lệ nợ xấu.

Nghiên cứu của Phạm Thị Trang (2018) về các chỉ số vi mô và vĩ mô của 29 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2008-2017 cho thấy tỷ lệ nợ xấu bị ảnh hưởng bởi cả yếu tố vi mô và vĩ mô Cụ thể, nợ xấu có mối quan hệ nghịch với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp và quy mô ngân hàng, trong khi lại có mối quan hệ thuận với lạm phát và tỷ lệ nợ xấu của năm trước.

Nghiên cứu của Phạm Dương Thương Thảo và Nguyễn Linh Đan (2018) đã phân tích dữ liệu từ 27 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong giai đoạn 2005-2016 Kết quả cho thấy rằng các yếu tố vi mô như chi phí hoạt động của ngân hàng và lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu có mối quan hệ nghịch với tỷ lệ nợ xấu Thêm vào đó, yếu tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng có tác động nghịch chiều với tỷ lệ nợ xấu, nghĩa là khi nền kinh tế Việt Nam phát triển, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng sẽ giảm.

Qua việc tổng hợp kết quả từ các nghiên cứu trước đây trong và ngoài nước, chúng ta nhận thấy rằng các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu thường giống nhau, nhưng lại được nghiên cứu ở các quốc gia khác nhau với mẫu ngân hàng đa dạng và trong những giai đoạn nghiên cứu khác nhau Điều này dẫn đến việc cùng một tập biến số được lựa chọn có thể cho ra kết quả trái ngược nhau Để so sánh các kết quả giữa các nghiên cứu, tác giả đã xây dựng một bảng thống kê.

Tên biến Tác động cùng chiều với nợ xấu (+)

Tác động ngược chiều với nợ xấu (-)

Tốc độ tăng trưởng kinh tế

Klein(2013), Salad & Saurina(2002), Messai & Jouini(2013), Rajan (2016), Mataba(2018), Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng

Pestova và Mamovo(2011), Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013), Le(2016), Rehma(2017), Phạm Dương Phương Thảo và Nguyễn Linh Đan (2018).

Lãi suất Pestova và Mamovo(2011),

Klein (2013), Filip (2015), Ghosh(2015),Makri & cộng sự(2014), Messai & Jouini

Messai và Jouini (2013), Ekanayake và Azeez (2015), Nguyễn Thị Hồng Vinh(2015), Đỗ Quỳnh Anh và

Le (2006), Bodriga (2009), PGS.TS Tô Ngọc Hưng và các cộng sự (2013)

Bảng 1.1 Bảng tổng hợp các nghiên cứu trước đây.

Nguyễn Đức Hùng (2013) Hiệu quả hoạt động và tỷ lệ sinh lời

Hu và cộng sự (2014), Jimenez và Saurina (2006), Nikolaidou và Vogiazas (2011)

Louzis (2010), Mesai và Jouuini (2013), Rehmen

Tô Ngọc Hung và cộng sự

Salas và Sarina (2002), Hu và cộng sự (2004), Ekanayake và Azeez (2015), Nguyễn Thị

Ngọc Diệp và Nguyễn Minh Kiều (2015) Hiệu quả hoạt động ngân hàng

Hu và cộng sự (2014), Jimenez và Saurina (2006), Nikolaidou và Vogiazas (2011)

Louzis (2010), Mesai và Jouuini (2013), Rehmen(2017)

Du nợ trên tổng tài sản

Ahmad và Bashir (2013), Ekanayake và Azeez (2015), Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức

Tỷ lệ nợ xấu năm truớc

(2013), Rajha (2016), Nguyễn Thị Hồng Vinh(2015), Phạm Thị Trang, (2018). Ứng dụng công nghệ

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu trong ngân hàng đã được thực hiện nhiều lần, nhưng mỗi nghiên cứu lại cho ra kết quả và giải pháp khác nhau do sự khác biệt trong phương pháp, mẫu nghiên cứu và đặc điểm kinh tế Có hai nhóm yếu tố chính tác động đến nợ xấu: yếu tố vi mô (nội tại ngân hàng) và yếu tố vĩ mô (kinh tế xã hội) Do sự biến đổi của nền kinh tế và các ngân hàng theo thời gian, việc nghiên cứu liên tục về các yếu tố này là cần thiết để tìm ra giải pháp hiệu quả trong việc ngăn ngừa và xử lý nợ xấu Điều này cũng mở ra những hướng nghiên cứu mới cho các đề tài tiếp theo.

Nợ xấu là một vấn đề quan trọng trong hệ thống ngân hàng và nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển Việc hiểu rõ khái niệm, phân loại và tác động của nợ xấu giúp nhận diện và quản lý rủi ro tiềm ẩn Các yếu tố tác động đến nợ xấu cần được phân tích kỹ lưỡng, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế Việt Nam Qua nghiên cứu, việc xác định các mô hình và yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu là cần thiết để đưa ra giải pháp ngăn chặn hiệu quả Chương tiếp theo sẽ trình bày thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến nợ xấu.

NH Liên doanh và nước ngoài

THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2010- 2019

NH Liên doanh và nước ngoài

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2.1 Tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2010-2019.

Năm 1988, Nghị định 53/HĐBT đã quy định về tổ chức bộ máy ngân hàng nhà nước Việt Nam, với mô hình gồm hai cấp: Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Ngân hàng thương mại Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam được phân chia thành ba loại khác nhau.

- NHTM nhà nước (được thành lập bằng 100% vốn ngân sách nhà nước)

- NHTM cổ phần (thuộc loại hình tín dụng cổ phần của nhà nước và nhân dân)

Ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam bao gồm ba loại chính: Ngân hàng chi nhánh nước ngoài, được thành lập theo luật pháp nước ngoài và hoạt động theo pháp luật Việt Nam; Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, là ngân hàng có 100% vốn điều lệ từ nước ngoài và được thành lập tại Việt Nam; và Ngân hàng liên doanh, được hình thành từ vốn liên doanh giữa ngân hàng nước ngoài và ngân hàng Việt Nam, hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam.

Số lượng NHTM tại Việt Nam Bảng 2.1: Số lượng NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2019.

Nguồn: Thống kê theo số liệu NHNN.

Từ năm 2010 đến 2015, số lượng ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam đã giảm, sau đó ổn định từ năm 2016 đến nay Nguyên nhân chính là do việc triển khai đề án Tái cơ cấu hệ thống NHTM giai đoạn 2011-2015 của nhà nước Sau gần 9 năm thực hiện tái cấu trúc, số lượng NHTM đã giảm còn 35 ngân hàng thông qua các hoạt động sáp nhập và hợp nhất.

Từ năm 2009, số lượng ngân hàng trong nước đã tăng lên 42, nhưng bắt đầu từ năm 2012, các thương vụ sáp nhập ngân hàng đã diễn ra mạnh mẽ Đỉnh điểm của quá trình này là vào năm 2015, với những vụ sáp nhập nổi bật như ngân hàng Phương Nam về với Sacombank, Mekong Bank sáp nhập vào Maritime Bank, và G.Bank sáp nhập vào VietinBank Đến cuối năm 2016, đã có 9 ngân hàng thương mại được sáp nhập, hợp nhất, 4 ngân hàng được mua lại, và 3 ngân hàng được nhà nước mua lại với giá 0 đồng (VNCB, OceanBank và GP Bank) Những động thái này nhằm tăng quy mô, nâng cao năng lực cạnh tranh và tái cấu trúc hoạt động của các ngân hàng thương mại cũng như các tổ chức tín dụng khác.

Việc khuyến khích sáp nhập và hợp nhất các ngân hàng thương mại (NHTM) trên cơ sở tự nguyện đã chứng minh là một chính sách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam Chính sách này nhằm cơ cấu lại hệ thống NHTM và giảm số lượng các NHTM, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ và yếu kém.

Quy mô và thị phần các NHTM Việt Nam:

Hình 2.1: Quy mô tổng tài sản hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011- 2019.

Đến cuối năm 2019, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt khoảng 12,5 triệu tỷ đồng, chiếm 43% tổng tài sản của toàn bộ các tổ chức tín dụng Trong giai đoạn 2011-2019, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng không ngừng tăng trưởng, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm (CARG) đạt khoảng 12,4% trong giai đoạn 2016-2019, cao hơn nhiều so với mức 9,9% của giai đoạn 2011-2015 Kết quả này phản ánh thành công của quá trình tái cơ cấu toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Hình 2.2: Thị phần hoạt động hệ thống Ngân hàng Việt Nam.

Thị phần cho vay Thị phần huy động

Trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, NHTMNN và NHTMCP chiếm ưu thế lớn trong thị phần cho vay và huy động, trong khi phần còn lại dành cho các tổ chức khác rất nhỏ Giai đoạn 2010-

Từ năm 2011, các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) chiếm hơn 50% thị phần cho vay và huy động, nhưng giai đoạn 2016-2019 cho thấy sự chuyển dịch về phía các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) do số lượng gia tăng và các dịch vụ tiện ích tốt hơn cùng lãi suất ưu đãi Trong hoạt động huy động vốn, các NHTM Việt Nam đã chuyển hướng tăng tỷ trọng huy động vốn trung dài hạn và giảm tỷ trọng huy động ngắn hạn Về cho vay, các NHTM hiện nay đang chú trọng vào tín dụng bán lẻ, đặc biệt là cho vay cá nhân, mặc dù cạnh tranh giữa NHTMNN và NHTMCP trong lĩnh vực này rất khốc liệt, nhưng NHTMNN vẫn giữ ưu thế trong thị phần cho vay cá nhân.

Hình 2.3: Tăng trưởng tín dụng hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2010- 2019.

Tốc độ tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn: 2010-2012, 2012-2016 và 2016-2019 Năm 2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt gần 40% do ảnh hưởng của cuộc bùng phát tín dụng trước đó Tuy nhiên, giai đoạn 2011-2012 chứng kiến sự giảm liên tục, với các chỉ số lần lượt là 34,1%; 14,2%; 8,85%, do tái cơ cấu ngân hàng và chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát Từ 2012-2016, tín dụng tăng trưởng trở lại, từ 8,85% lên 18,71%, nhờ vào những chính sách hỗ trợ của chính phủ giúp duy trì đà tăng trưởng kinh tế Đến cuối 2016, nhà đầu tư lo ngại về sự ổn định của nền kinh tế, dẫn đến tín dụng chững lại cho đến năm 2019.

Thực trạng nợ xấu và tình hình xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2019

2.2.1 Toàn cảnh nợ xấu tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2019.

Dựa trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước đã thống kê và công bố các số liệu liên quan đến tỷ lệ nợ xấu.

Hình 2.4: Tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2010-2019.

Giai đoạn 2010-2012, tỷ lệ nợ xấu tại Việt Nam tăng mạnh từ 2,25% lên 4,86%, chủ yếu do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn và thua lỗ Sự tăng trưởng tín dụng nóng trong giai đoạn 2009-2010 cũng góp phần làm gia tăng nợ xấu khi chính phủ áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt Bên cạnh đó, hạn chế trong quản trị và giám sát vốn cho vay của hệ thống ngân hàng cũng là nguyên nhân quan trọng Như vậy, nợ xấu tại Việt Nam xuất phát từ cả yếu tố khách quan của nền kinh tế và yếu tố chủ quan của hệ thống ngân hàng.

Giữa giai đoạn 2012-2014, trước tình trạng nợ xấu gia tăng, chính phủ đã nhanh chóng triển khai các giải pháp cấp bách nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu Kết quả, sau ba năm thực hiện các biện pháp quyết liệt, tỷ lệ nợ xấu đã giảm từ gần 5% tổng dư nợ vào năm 2012 xuống dưới 3% tổng dư nợ vào năm 2014.

Từ năm 2014 đến năm 2015, tỷ lệ nợ xấu đã giảm từ 2,55% xuống 2,46% Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các ngân hàng thương mại (NHTM) đã thực hiện nhiều biện pháp để cải thiện tình hình nợ xấu Sự ra đời của tổ chức VAMC đã góp phần quan trọng trong việc xử lý nợ xấu, giúp tỷ lệ nợ xấu liên tục giảm và duy trì dưới mức 3% trong các năm tiếp theo.

2017 đạt 1,99%; 2018 và 2019 cùng tỷ lệ là 1,89%).

Hình 2.5: Tỷ lệ nợ xấu các NHTM Việt Nam năm 2019.

Theo dữ liệu từ NHNN, nợ xấu chủ yếu tập trung ở các ngân hàng thương mại nhà nước, chiếm hơn một nửa tổng số nợ xấu Ngân hàng thương mại cổ phần chiếm khoảng 25%-27%, trong khi ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm khoảng 5% Nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao ở các ngân hàng nhà nước là do ba ngân hàng được nhà nước mua lại với giá 0 đồng: Oceanbank, GB Bank và VNCB.

Năm 2019, VPBank là ngân hàng thương mại duy nhất có tỷ lệ nợ xấu vượt mức quy định 3%, đạt 3,42% PGBank và SeABank gần ngưỡng quy định với tỷ lệ nợ xấu lần lượt là 2,8% và 2,3% Các ngân hàng thương mại khác duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, trong đó ACB (0,54%), Bắc Á Bank (0,68%) và Vietcombank (0,78%) kiểm soát nợ xấu rất tốt với mức dưới 1% Ba ngân hàng quốc doanh lớn là BIDV, Vietinbank và Vietcombank đều ghi nhận tỷ lệ nợ xấu thấp dưới 2%, với BIDV ở mức 1,74%, VietinBank 1,16% và Vietcombank 0,78%.

2.2.2 Tình hình xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2019.

Tình hình xử lý nợ xấu được chia làm 2 giai đoạn tương ứng với các nghị quyết và đề án của chính phủ đưa ra là giai đoạn 2011-2015 và 2016-2019.

Giai đoạn 2011-2015, theo đề án “Cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng”, Chính phủ đã ban hành quyết định 843/2013/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu” và thành lập Công ty Quản lý Tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) NHNN đã chỉ đạo toàn hệ thống NHTM triển khai đồng bộ các biện pháp điều hành hoạt động nhằm chấn chỉnh lại tình hình.

Kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết để giảm rủi ro tín dụng Cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong ngân hàng nhằm hỗ trợ việc xử lý nợ xấu hiệu quả Các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tăng cường trích lập dự phòng cho nợ xấu thông qua việc cắt giảm lợi nhuận, giảm cổ tức và bán nợ cho VAMC Họ thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt như bán nợ, tự xử lý nợ xấu, đánh giá lại nợ, cơ cấu lại nợ, và nâng cao chất lượng đánh giá giá trị thị trường của các khoản nợ xấu Đồng thời, hỗ trợ hoàn thiện hồ sơ pháp lý liên quan đến tài sản đảm bảo tiền vay để nhanh chóng xử lý nợ xấu, và tái cơ cấu ngân hàng thông qua sáp nhập hoặc quốc hữu hóa.

Giai đoạn 2016-2019, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2016/QH14 vào ngày 08/11/2016, nhằm thực hiện kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế cho giai đoạn 2016 - 2020 Nghị quyết này tập trung vào việc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu và áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại các tổ chức tín dụng, với mục tiêu lành mạnh hóa thị trường tài chính Đặc biệt, mục tiêu đặt ra là giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng xuống dưới 3% vào năm 2020.

Năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 42/2017/QH14 nhằm thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD), với mục tiêu giải quyết những khó khăn và bất cập trong quy định pháp luật liên quan đến xử lý nợ xấu Nghị quyết này bảo đảm quyền chủ nợ hợp pháp của TCTD và Công ty VAMC, đồng thời thúc đẩy nhanh chóng quá trình xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, góp phần bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và nền kinh tế quốc dân Cùng năm, đề án 1058 cũng được ban hành, tập trung vào việc cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020.

Chỉ thị số 05/CT-NHNN, ban hành tháng 9/2018, yêu cầu tăng cường giám sát thực hiện nghị quyết 42 và phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 của các TCTD và VAMC Để hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ), NHNN đã phát hành thông tư yêu cầu các ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố tạo điều kiện thuận lợi Đến tháng 3/2019, NHNN tiếp tục ban hành Văn bản số 1968/NHNN-TTGSNH, nhấn mạnh việc các TCTD cần đẩy mạnh xử lý nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro khi bán nợ cho VAMC, đồng thời yêu cầu ngân hàng thu lãi đúng hạn theo quy định pháp luật.

2.3 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu NHTM Việt Nam.

2.3.1 Lựa chọn mô hình và biến số nghiên cứu. Để làm rõ mục đích nghiên cứu và trả lời cho câu hỏi nghiên cứu đã nêu ra ở lời mở đầu, tác giả đã thực hiện việc nghiên cứu để đo luờng các yếu tố ảnh huởng đến nợ xấu của NHTM bằng cách sử dụng mô hình hồi quy đa biến

Dựa trên kết quả từ các nghiên cứu trước đây trong và ngoài nước, cùng với tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam, bài viết sẽ tập trung vào hai nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến nợ xấu ngân hàng: nhân tố vĩ mô và vi mô Tác giả đã lựa chọn các nhân tố quan trọng nhất cho nghiên cứu, bao gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế, trưởng tín dụng (Loan), tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), quy mô ngân hàng (SIZE) và tỷ lệ nợ xấu của năm trước (NPLt-1).

Dựa trên sự tham khảo các nghiên cứu trước đó như các nghiên cứu của Messai & Jouini (2013), Ekanayake & Azeez (2015), Nguyễn Thị Hồng Vinh

(2015) làm tài liệu để xây dựng mô hình.

Như vậy mô hình nghiên cứu có dạng:

NPL i,t = β o + β ι GDP t + β 2 UE t + β 3 IN t + β 4 ROE i,t +β 5 SIZE i,t + β 6 LOAN i,t + e 7 NP L i,t-i + ε i,t

• GDPt : Tốc độ tăng trưởng kinh tế tại năm t

• UEt : Tỷ lệ thất nghiệp tại năm t

• INt : Tỷ lệ lạm phát tại năm t

• ROE1J : Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng i tại năm t

• SIZE1J : Tốc độ tăng trưởng quy mô của ngân hàng i tại năm t

• LOAN i jt : Tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng i tại năm t

• NPLi , t-1 : Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng i tại năm t-1

• β1 - β7 : Hệ số quy hồi riêng

Giải thích các biến trong mô hình như sau:

*Tăng trưởng kinh tế GDP:

Trong kinh tế học, GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) là chỉ số phản ánh giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong một lãnh thổ cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.

Tăng trưởng GDP là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính trên giá bình quân đầu người hàng năm Công thức tính tăng trưởng GDP bao gồm việc so sánh giá trị GDP của các năm khác nhau để xác định mức độ phát triển kinh tế.

Biến GDP được tác giả kỳ vọng có tác động ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu các NHTM, đồng nhất với hầu hết các nghiên cứu trước đây.

* Tỷ lệ thất nghiệp (UE):

Đánh giá nợ xấu và các nhân tố ảnh hưởng tới nợ xấu tại các NHTM Việt

2.4.1 Ket quả đạt được sau xử lý nợ xấu.

Sau một thập kỷ nỗ lực xử lý nợ xấu từ chính phủ, ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực Các giải pháp đa dạng đã được áp dụng, giúp cải thiện tình hình nợ xấu trong các ngân hàng thương mại, từ đó nâng cao tính ổn định và hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Trong giai đoạn 2011-2016, Việt Nam đã xử lý khoảng 611,59 nghìn tỷ đồng nợ xấu, giúp cải thiện tăng trưởng tín dụng và kinh tế, với tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm từ 4,47% vào tháng 9/2012 xuống 2,55% vào cuối 2016 Từ 2012 đến đầu 2018, 753 nghìn tỷ đồng nợ xấu đã được xử lý, trong đó 282 nghìn tỷ đồng được bán cho VAMC, chiếm gần 40%, và hơn 60% do các tổ chức tín dụng tự xử lý Đến cuối 2019, tỷ lệ nợ xấu giảm còn 1,89%, so với 2,46% năm 2016 Trung bình mỗi tháng từ 2012-2017, hệ thống xử lý khoảng 4,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu, con số này tăng lên 9,6 nghìn tỷ đồng mỗi tháng từ 2017 đến 2019 sau khi nghị quyết 42 có hiệu lực.

Trong 10 tháng thí điểm từ giữa tháng 8/2017 đến tháng 6/2018, hệ thống TCTD đã xử lý gần 140 nghìn tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết 42 Cụ thể, 70,23 nghìn tỷ đồng nợ xấu nội bảng được xử lý, chiếm 50,78% tổng nợ xấu đã xử lý, trong khi khoản ngoại bảng đạt 21,59 nghìn tỷ đồng (15,61%) Đặc biệt, 46,46 nghìn tỷ đồng nợ xấu được xử lý bằng trái phiếu đặc biệt, tương đương 33,59% Đến cuối tháng 6/2018, các TCTD đã sử dụng 61,04 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng và tổng nợ xấu được xử lý đạt 236,8 nghìn tỷ đồng tính đến 31/8/2019.

Nhiều ngân hàng đã xử lý nợ xấu hiệu quả, trong đó ACB nổi bật với việc trích lập dự phòng mạnh mẽ và xử lý triệt để nợ xấu từ giai đoạn trước, giúp ngân hàng đạt tỷ lệ nợ xấu thấp nhất toàn hệ thống chỉ 0,54% vào năm 2019 Vietcombank đứng thứ hai với tỷ lệ nợ xấu ấn tượng.

Đến tháng 5 năm 2019, tỷ lệ nợ xấu được xử lý qua việc mua lại từ VAMC đạt 0,78% Ngoài ra, có 4 ngân hàng khác đã hoàn tất việc xóa nợ tại VAMC, bao gồm MBBank, OCB, Techcombank và VIB.

Trong suốt 10 năm qua, công tác xử lý nợ xấu đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng (TCTD) khác.

2.4.2 Hạn chế còn tồn tại.

Mặc dù các ngân hàng thương mại (NHTM) đã đạt được nhiều thành tựu trong việc xử lý nợ xấu, nhưng vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục.

Trong giai đoạn 2010-2012, tỷ lệ nợ xấu và khối lượng nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tăng mạnh, không thể kiểm soát Tỷ lệ nợ xấu đã tăng từ 2,25% lên 4,86%, gấp đôi so với mức ban đầu.

Tốc độ giảm nợ xấu trong những năm gần đây chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng Cụ thể, trong giai đoạn 2013-2014, tỷ lệ nợ xấu chỉ giảm 0,09%, và từ năm 2017 trở đi, tốc độ giảm nợ xấu gần như không có sự cải thiện rõ rệt.

Từ năm 2013, tỷ lệ nợ xấu bắt đầu giảm, nhưng đến năm 2018, dấu hiệu tăng trở lại đã xuất hiện Bên cạnh đó, những khoản nợ xấu chờ xử lý và nợ xấu tiềm ẩn trong quá trình tái cơ cấu vẫn còn rất lớn.

Công tác thu hồi nợ đang gặp nhiều khó khăn, với tiến trình xử lý tài sản đảm bảo chậm chạp và giá trị thu hồi không đạt yêu cầu Thời gian xử lý kéo dài đã dẫn đến tình trạng nợ cũ chưa được giải quyết, trong khi nợ mới lại gia tăng.

Năm qua, việc xử lý nợ xấu vẫn còn hạn chế về tính triệt để và hiệu quả, khi ngân hàng và người vay chưa hoàn thành nghĩa vụ trả nợ Điều này dẫn đến chi phí trích lập dự phòng gia tăng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và khả năng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại.

Các chính sách và đề án của chính phủ cùng với Ngân hàng Nhà nước hiện còn nhiều lỗ hổng, dẫn đến việc triển khai không đồng bộ giữa các địa phương Điều này gây khó khăn trong việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, đồng thời hạn chế sự hợp tác của các ủy ban địa phương trong việc phối hợp xử lý tài sản bảo đảm.

2.4.3 Nguyên nhân của hạn chế.

2.4.3.1 Nguyên nhân gây ra nợ xấu trong NHTM Việt Nam.

Trong giai đoạn 2010-2016, đặc biệt từ 2010 đến 2012, nợ xấu gia tăng do sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của nhà nước Năm 2009-2010, NHNN áp dụng chính sách nới lỏng, dẫn đến việc các ngân hàng thương mại tập trung vào tăng trưởng tín dụng mà không chú trọng đến chất lượng khoản vay, khiến tăng trưởng tín dụng đạt mức 31,19% vào năm 2010 Đến giai đoạn 2011-2012, khi tình trạng tăng trưởng tín dụng quá nóng xảy ra, NHNN đã chuyển sang chính sách thắt chặt tiền tệ, làm lãi suất ngân hàng tăng cao Điều này khiến các doanh nghiệp với khoản vay kém chất lượng gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn, làm suy yếu khả năng kinh doanh và gia tăng nợ xấu.

Đề án cơ cấu lại nợ đã khiến các ngân hàng phải đối mặt với gánh nợ từ quá khứ Theo Quyết định 780/QĐ-NHNN năm 2012, các tổ chức tín dụng được phép cơ cấu lại nợ mà không cần chuyển nhóm, dẫn đến việc một lượng lớn dư nợ, vốn dĩ đã trở thành nợ xấu, được gia hạn thời gian trả nợ Điều này đã tạo ra sự chuyển tiếp nợ xấu sang tương lai để ghi nhận sau.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM GIẢM THIỂU NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Ngày đăng: 27/03/2022, 10:24

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
7. PGS. TS. Tô Ngọc Hưng, 2013, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành “ Xử lý nợ xấu trong quá trình tái cấu trúc các Ngân hàng Thương mại Việt Nam”, Thư viện Học viện Ngân hàng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xử lý nợ xấu trong quá trình tái cấu trúc các Ngân hàng Thương mại ViệtNam
2. Báo cáo thu thập từ website NHNN nhà nước Việt Nam< https://www.sbv.gov.vn/&gt Link
4. Cát Lam, 2019. Bức tranh nợ xấu ngân hàng năm 2019 .<https://vietstock.vn/2020/02/buc-tranh-no-xau-ngan-hang-nam-2019-757-730262.htm&gt Link
5. Tuyết Hương, 2020. Khách hàng vay vốn, gửi tiền tháo chạy từ ngân hàng thương mại Nhà Nước tháo chạy sang tư nhân.<https://cungcau.vn/khach-hang-vay-von-gui-tien-thao-chay-tu-ngan-hang-thuong-mai-nha-nuoc-sang-tu-nhan-d1935 94.html&gt Link
1. Báo cáo tài chính và báo cáo thường niên từ năm 2010-2019 của 15 NHTM Việt Nam Khác
3. Báo cáo thu thập từ website của Vietstock< https://vietstock.vn/ &gt Khác
6. TS. Lê Thị Thùy Vân, 2017. Xử lý nợ xấu ở Việt Nam: Thực trạng và những vấn đề đặt ra. Viện Chiến lược và Chính sách tài chính Khác
8. Nguyễn Thị Hồng Vinh, 2015. Yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM Việt Nam, Tạp chí phát triển kinh tế Khác
9. Vũ Mai Chi và Trần Anh Quý, 2018. Tình hình xử lý nợ xấu tại Việt Nam qua các giai đoạn - các vấn đề cần quan tâm và khuyến nghị. TCNH số 21/2018 Khác
10.Phạm Dương Phương Thảo và Nguyễn Linh Đan, 2018. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng số 194- Tháng 7.2018 Khác
11. Nguyễn Thị Quỳnh Nhu và cộng sự, 2018. Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại các NHTM Việt Nam. Tạp chí khoa học đại học mở TP.Hồ Chí Minh Khác
12. Phạm Thị Trang, 2018. Những yếu tổ ảnh huởng đến nợ xấu của ngân hàng thuơng mại Việt Nam. Luận văn thạc sĩ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Khác
13. Quốc hội nuớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2010. Luật các Tổ chức tín dụng Khác
14. Chính phủ, 2013. Nghị định số 53/2013/NĐ-CP, ngày 18/05/2013. Thành lập, tổ chức và hoạt động công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam Khác
15. Quốc hội, 2017. Nghị quyết số: 42/2017/QH14, ngày 21/06/2017. Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.Tài liệu tiếng Anh Khác
1. Ekanayake E.M.N.N & Azeez A.A, 2015. Determinants of non performing loans in licensed commercial banks: Evidence from srilanka, Asian Economic and Financial Review Khác
2. Klein, 2013. Non-performing loans in CESEE: Determinants and impact on macroeconomic performance Khác
3. Raija, K.S, 2016. Determinants of Non-Performing Loans: Evidence from the Jordanian Banking Sector, Journal of Finance and Bank Management Khác
4. Rehman, O.U, 2017. Determinants of Non-Performing Loan in South Asia:The Role of Financial Crisis, Eurasian Journal of Business and Economics Khác
5. Salas, Vincente & Jesus Saurina, 2002. Credit Risk in Two Institutional Regimes: Spanish Commercial and Savings Bank. Journal of Financial Services Research Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w