1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Những yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam

110 25 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Tác giả Phạm Thị Trang
Người hướng dẫn TS. Lại Tiến Dĩnh
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 110
Dung lượng 1,78 MB

Cấu trúc

  • Trang bìa luận văn (1)

  • chinh thuc

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu tổng quát là tìm ra những yếu tố tác động đến nợ xấu tại NHTM Việt Nam hiện nay, qua đó kiến nghị những giải pháp nhằm góp phần giảm thiểu tình hình nợ xấu tại các NHTM. Mời các bạn cùng tham khảo.

Giới thiệu vấn đề nghiên cứu

Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng, là một trong hai cấp chính trong hệ thống ngân hàng Chức năng chính của NHTM là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nhằm tạo ra lợi nhuận Trong cơ chế hoạt động của NHTM, hoạt động tín dụng được xem là quan trọng nhất, mang lại lợi nhuận cao nhất cho hệ thống này.

Hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận cao nhất cho các ngân hàng thương mại (NHTM), do đó, nhiều ngân hàng hiện nay đang tập trung nguồn lực lớn vào cho vay tín dụng Theo Ông Trần Văn Tần, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, năm 2017, tăng trưởng tín dụng đạt 18,17% so với năm 2016 Tuy nhiên, bên cạnh lợi nhuận cao, hoạt động tín dụng cũng tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt trong bối cảnh thị trường tự do cạnh tranh phức tạp như Việt Nam hiện nay Các NHTM đang phải đối mặt với tình trạng nợ xấu gia tăng, khi nhiều khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn Thuật ngữ “nợ xấu” đã trở nên quen thuộc trong các báo cáo kinh tế và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng và thậm chí làm tê liệt nền kinh tế và xã hội.

Theo báo cáo của NHNN, đến tháng 9/2017, nợ xấu đã giảm xuống 2.34% so với 2.46% vào cuối năm 2016, cho thấy những nỗ lực trong việc xử lý nợ xấu đã có kết quả tích cực Tuy nhiên, nếu tính cả nợ xấu, nợ tiềm ẩn và các khoản đã bán cho VAMC, tổng nợ xấu lên tới 566,000 tỷ đồng, tương đương 8.61%.

Tình trạng nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đang ở mức báo động, gây ra nhiều hệ lụy trong những năm qua Do đó, tôi quyết định thực hiện đề tài “Những yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của NHTM Việt Nam.” Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các nhân tố tác động đến tỷ lệ nợ xấu và từ đó đề xuất các biện pháp nhằm giảm thiểu tình trạng này tại các NHTM.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu tổng quát

Mục tiêu nghiên cứu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng nợ xấu tại các NHTM.

Mục tiêu cụ thể

- Tìm những yếu tố vi mô cũng như vĩ mô ảnh hưởng đến tình trạng nợ xấu tại NHTM Việt Nam

- Kiến nghị các giải pháp nhằm giảm thiểu nợ xấu tại các NHTM Việt Nam

Câu hỏi nghiên cứu

- Thực trạng nợ xấu của các NHTM Việt Nam hiện nay như thế nào?

- Các yếu tố vi mô và vĩ mô ành hưởng đến tình hình nợ xấu của các NHTM Việt Nam như thế nào?

- Có những giải pháp nào để giảm thiểu nợ xấu tại các NHTM

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thứ cấp từ 29 ngân hàng, bao gồm các chỉ số quan trọng như tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ ROE, tăng trưởng quy mô ngân hàng, tăng trưởng tín dụng, và tỷ lệ nợ xấu năm trước, được lấy từ báo cáo tài chính hợp nhất trên trang vietstock.vn Ngoài ra, nghiên cứu cũng xem xét các chỉ số tăng trưởng GDP, lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn 2008-2017.

Phương pháp nghiên cứu định lượng là phương pháp chủ yếu trong bài luận văn, trong đó tác giả áp dụng kỹ thuật hồi quy dữ liệu bảng để xây dựng mô hình hồi quy Tác giả thực hiện mô hình hồi quy đa biến bằng phương pháp OLS, REM và FEM, đồng thời kiểm định các giả thuyết về tác động cùng chiều hoặc ngược chiều của từng chỉ số đối với nợ xấu của ngân hàng thương mại.

Bài luận văn của tác giả gồm 5 chương :

Chương 1: Giới thiệu về đề tài

Chương 2: Tổng quan về nợ xấu và những yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM Việt Nam

Chương 3: Thực trạng về tình hình nợ xấu và những yếu tố tác động đến nợ xấu tại các NHTM Việt Nam

Chương 4: Mô hình, phương pháp, dữ liệu và kết quả nghiên cứu thực nghiệm những yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM Việt Nam

Chương 5: Kết luận và kiến nghị

Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu

Luận văn này giúp người đọc hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam, bao gồm cả các yếu tố nội tại của ngân hàng và các yếu tố vĩ mô liên quan đến nền kinh tế và xã hội.

Tác giả đã thực hiện nghiên cứu dựa trên số liệu thực tế từ báo cáo tài chính hợp nhất của 29 ngân hàng trong 10 năm qua Qua việc phân tích so sánh với các nghiên cứu trước, tác giả đưa ra những nhận định và kiến nghị nhằm giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam hoạt động hiệu quả hơn, đặc biệt là trong việc giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu.

Tín dụng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam, mang lại lợi nhuận lớn nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là vấn đề nợ xấu.

Nghiên cứu các yếu tố tác động đến nợ xấu là rất cần thiết để tìm ra giải pháp khắc phục hiệu quả Trong chương 1, tác giả đã cung cấp cái nhìn tổng quan về vấn đề nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu, tạo nền tảng cho việc xây dựng tổng quan tài liệu ở chương 2.

TỔNG QUAN VỀ NỢ XẤU VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỢ XẤU CỦA NHTM VIỆT NAM

Tổng quan về nợ xấu của NHTM

Nợ xấu, hay còn gọi là nợ khó đòi (Non-performing loans - NPLs), là các khoản nợ dưới chuẩn có khả năng không được thu hồi, thường xảy ra khi con nợ tuyên bố phá sản hoặc tẩu tán tài sản Các khoản nợ này bao gồm những khoản nợ đã quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên ba tháng, và được phân loại dựa trên khả năng trả nợ của khách hàng.

Dưới đây là khái niệm nợ xấu của các tổ chức trên thế giới về nợ xấu:

Nợ xấu, theo định nghĩa của Ngân hàng Châu Âu (European Central Bank, 2016), là các khoản vay ngân hàng mà người vay không thanh toán các khoản trả góp hoặc lãi trong vòng 90 ngày theo thỏa thuận.

Nợ xấu, theo Ủy Ban Châu Âu, là các khoản vay mà ngân hàng không thể thu hồi do người vay trả nợ trễ hoặc không trả Tình trạng này đã trở nên nghiêm trọng hơn trong cuộc khủng hoảng tài chính và các suy thoái sau đó, dẫn đến nhiều ngân hàng ghi nhận khoản nợ xấu trong sổ sách, đặc biệt ở một số quốc gia trong EU.

Nợ xấu, theo Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF, 2008), được định nghĩa là các khoản vay có các khoản thanh toán lãi và gốc quá hạn trên 90 ngày, hoặc khi lãi suất quá hạn được vốn hóa, cơ cấu lại hoặc trì hoãn theo thỏa thuận Ngoài ra, nợ xấu cũng bao gồm các khoản thanh toán dưới 90 ngày quá hạn nhưng không còn có thể dự đoán Một định nghĩa khác về nợ xấu là những khoản vay đã đến hạn nhưng vẫn còn một phần dư nợ Định nghĩa cụ thể của nợ xấu phụ thuộc vào các điều khoản của từng khoản vay.

Nợ xấu, theo Financial Times, là khoản vay mà bên vay không thực hiện thanh toán lãi hoặc gốc Thời điểm ngân hàng phân loại khoản vay là không hoạt động và chuyển thành nợ xấu phụ thuộc vào quy định địa phương Các ngân hàng thường dự trữ một khoản tiền để bù đắp cho các khoản lỗ tiềm ẩn từ cho vay và ghi nhận nợ xấu trong tài khoản lợi nhuận và lỗ Tại một số quốc gia, ngân hàng tích lũy nợ xấu có thể bán chúng với mức chiết khấu cho các công ty quản lý tài sản (AMCs) nhằm thu hồi ít nhất một phần số tiền nợ.

2.1.2 Chỉ tiêu đo lường nợ xấu:

Công thức tính: Tỷ lệ nợ xấu (NPL) = Tổng Nợ xấu/Tổng dư nợ

Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN, dư nợ tín dụng khách hàng được phân loại thành 5 nhóm: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), Nhóm 2 (Nợ cần chú ý), Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) Trong đó, các khoản nợ từ Nhóm 3 đến Nhóm 5 được coi là nợ xấu.

2.1.3 Tác động của nợ xấu

2.1.3.1 Tác động của nợ xấu đối với NHTM :

Nợ xấu ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, do hai hoạt động chính của NHTM là huy động tiền gửi và cho vay tín dụng Mặc dù cho vay tín dụng mang lại lợi nhuận lớn, nhưng nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng Nếu nợ xấu không được xử lý kịp thời, nó sẽ làm giảm khả năng thanh toán tiền mặt của ngân hàng, ảnh hưởng đến việc trả lãi cho các khoản huy động và các khoản đầu tư khác.

Nghiên cứu thực nghiệm của Muriithi (2010) chỉ ra rằng có mối quan hệ trực tiếp và tích cực giữa khả năng thanh khoản và tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng thương mại.

Kenya Kết quả nghiên cứu của ông cho thầy tỉ lệ nợ xấu càng cao kéo theo rủi ro thanh khoản càng cao

- Nợ xấu có ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của NHTM:

Ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì khả năng sinh lời, vì lãi suất của ngân hàng được tính bằng doanh thu trừ chi phí Khi nợ xấu gia tăng, ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi từ các khoản vay, dẫn đến doanh thu giảm Đồng thời, chi phí cũng tăng lên do các khoản chi phí quản lý và xử lý nợ xấu cũng như trích lập quỹ dự phòng Sự sụt giảm doanh thu kết hợp với gia tăng chi phí sẽ dẫn đến lãi suất giảm, từ đó làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng.

Nghiên cứu của Baasi (2018) cho thấy tỉ lệ nợ xấu ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời của bốn ngân hàng lớn tại Ghana Tương tự, nghiên cứu của Phạm Hữu Hồng Thái (2014) với dữ liệu từ 34 ngân hàng thương mại cổ phần trong giai đoạn 2005-2012 cũng chỉ ra rằng nợ xấu tác động tiêu cực đến khả năng sinh lợi của ngân hàng.

- Nợ xấu ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của NHTM:

Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) là yếu tố then chốt quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng Một NHTM được coi là hoạt động hiệu quả khi có khả năng hạn chế rủi ro, bảo toàn vốn và đạt được thu nhập, lợi nhuận cao từ các hoạt động kinh doanh Tình trạng nợ xấu cao sẽ dẫn đến sự suy giảm thu nhập và lợi nhuận, gây ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng bảo toàn vốn, từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Theo nghiên cứu thực nghiêm của tác giả Omwenga & Omar (2017) cho thấy tỉ lệ nợ xấu ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của NHTM tại Kynia

Nghiên cứu thực nghiệm của nhóm tác giả David, Nemwel và George (2012) chỉ ra rằng tỷ lệ nợ xấu gia tăng sẽ dẫn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) giảm sút.

Theo tác giả Ozurumba đã nghiên cứu NHTM tại Nigeria từ 2000-2013 cho thấy NPLs ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Nợ xấu có tác động lớn đến khả năng thanh khoản, sinh lời và hiệu quả hoạt động của ngân hàng Nếu không được xử lý kịp thời, nợ xấu có thể làm giảm uy tín và thương hiệu của ngân hàng thương mại, từ đó giảm khả năng cạnh tranh trong thị trường hội nhập khốc liệt, và nghiêm trọng hơn là dẫn đến tình trạng phá sản.

2.1.3.2 Tác động của nợ xấu đối với Khách hàng:

Trong lĩnh vực dịch vụ, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần chú trọng đến sự hài lòng của khách hàng qua cả chất lượng sản phẩm và dịch vụ Khi tỷ lệ nợ xấu gia tăng, ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ gốc và lãi, đồng thời phải chi tiêu nhiều để xử lý nợ xấu, dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn vốn Điều này khiến ngân hàng thiếu tiền mặt để chi trả lãi và đáp ứng các yêu cầu rút tiền đột xuất từ khách hàng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tài chính của họ trong việc chi trả cho giáo dục, y tế và nhà ở.

2.1.3.3 Tác động của nợ xấu đối với nền Kinh Tế

Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, hoạt động như kênh thu hút và cung cấp vốn cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân Do đó, nợ xấu trong ngân hàng có tác động trực tiếp đến sự phát triển và ổn định của nền kinh tế.

Các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của NHTM

2.2.1 Các nghiên cứu quốc tế về các yếu tố tác động đến nợ xấu

Nghiên cứu thực nghiệm của Messai & Jouini (2013) đã phân tích dữ liệu từ 85 ngân hàng tại Ý, Hi Lạp và Tây Ban Nha trong giai đoạn 2004-2008, cho thấy tỉ lệ nợ xấu (NPLs) bị ảnh hưởng bởi cả yếu tố vi mô và vĩ mô Cụ thể, NPLs có mối quan hệ tích cực với tốc độ tăng trưởng tín dụng và dự phòng rủi ro vỡ nợ trong năm hiện tại, trong khi lại có mối quan hệ tiêu cực với lãi suất thuần trên tổng tài sản của ngân hàng trong năm trước Đối với yếu tố vĩ mô, NPLs có mối quan hệ tích cực với lãi suất thực trong năm hiện tại và ngược chiều với tốc độ tăng trưởng.

Nghiên cứu của Ekanayake & Azeez (2015) đã phân tích dữ liệu từ 9 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 1999-2012 bằng mô hình hồi quy dữ liệu bảng Kết quả cho thấy tỉ lệ nợ xấu (NPL) chịu ảnh hưởng từ cả các nhân tố vi mô và vĩ mô Cụ thể, NPL có mối quan hệ tích cực với tỉ lệ dư nợ trên tổng tài sản, nhưng lại có mối quan hệ tiêu cực với hiệu quả hoạt động của ngân hàng, tốc độ tăng trưởng tín dụng và quy mô ngân hàng Về nhân tố vĩ mô, NPL có mối quan hệ tiêu cực với GDP và lạm phát, trong khi lại có mối quan hệ tích cực với lãi suất cho vay cơ bản.

Nghiên cứu của İSLAMOĞLU (2015) chỉ tập trung vào các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu (NPLs) tại 13 ngân hàng trong giai đoạn 2002-2013, cho thấy hai yếu tố chính là tỷ lệ nợ công trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và lãi suất cho vay thương mại Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc giảm lãi suất cho vay thương mại trong dài hạn dẫn đến tình trạng tăng trưởng cho vay quá mức, từ đó làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ công trên GDP cao cũng có mối liên hệ tích cực với việc gia tăng tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.

Theo nghiên cứu của Rajha (2016) tại ngân hàng Jordan trong giai đoạn 2008-2012, NPLs bị ảnh hưởng bởi hai nhóm yếu tố vi mô và vĩ mô Trong nhóm vi mô, NPLs có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu của năm trước đó.

Chỉ số nợ trên tổng tài sản (NPLs) có mối quan hệ ngược chiều với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát, trong khi lại có mối quan hệ cùng chiều với khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Nghiên cứu của REHMAN (2017) tại khu vực Nam Á chỉ ra rằng tỉ lệ ROE của ngân hàng có mối quan hệ ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu (NPLs), trong khi tăng trưởng cho vay năm trước cũng có mối quan hệ ngược chiều với NPLs Đối với các yếu tố vĩ mô, tỉ lệ lạm phát và tỉ lệ thất nghiệp có mối quan hệ cùng chiều với NPLs, trong khi tỉ giá hối đoái lại có mối quan hệ ngược chiều.

Trong nghiên cứu gần đây của Mataba (2018), tác giả chỉ ra rằng tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) và tỷ lệ cho vay trên tiền gửi có mối quan hệ tích cực với tỷ lệ nợ xấu (NPLs), trong khi tỷ lệ vốn lại có tương quan nghịch với NPLs Ngoài ra, tổng sản phẩm nội địa (GDP) cũng cho thấy mối liên hệ tích cực với NPLs.

2.2.2 Các nghiên cứu trong nước tác động đến nợ xấu

Nghiên cứu của Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013) sử dụng dữ liệu bảng từ 10 ngân hàng thương mại lớn trong giai đoạn 2005 - 2011, cho thấy các biến vi mô như quy mô ngân hàng, tỷ lệ tín dụng năm trước, tăng trưởng tín dụng năm trước và chỉ số nợ trên tổng tài sản đều có mối quan hệ tích cực với tỷ lệ nợ xấu (NPLs) Ngược lại, tốc độ tăng trưởng GDP có mối quan hệ tiêu cực, trong khi tỷ lệ lạm phát lại có mối quan hệ tích cực với NPLs.

Nghiên cứu của Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toàn (2014) tại 26 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2009-2012 chỉ ra rằng tỉ lệ tăng trưởng tín dụng và quy mô ngân hàng có mối quan hệ tích cực với tỷ lệ nợ xấu (NPLs), trong khi tỉ lệ tăng trưởng GDP năm trước lại có mối quan hệ tiêu cực với NPLs.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Vinh (2015) phân tích các yếu tố nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2007-2014, sử dụng ba mô hình ước lượng dữ liệu bảng: hiệu ứng cố định (FE), GMM dạng sai phân và GMM dạng hệ thống Kết quả cho thấy rằng khả năng sinh lời và tăng trưởng kinh tế có tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ xấu (NPLs), trong khi các yếu tố như nợ xấu trong quá khứ, quy mô ngân hàng và tăng trưởng tín dụng lại có tác động cùng chiều lên NPLs.

Qua các nghiên cứu thực nghiệm, tác giả nhận định rằng có hai nhóm yếu tố chính tác động đến nợ xấu: yếu tố nội tại ngân hàng (vi mô) và yếu tố xã hội (vĩ mô) Trong nhóm yếu tố vi mô, tốc độ tăng trưởng được cho là có tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ xấu, điều này được đồng thuận bởi các tác giả Messai & Jouini.

(2013),Ekanayake & Azeez (2015), Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013),

Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toàn (2014) cùng Nguyễn Thị Hồng Vinh (2015) đã chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng quy mô có tác động tích cực đến tỷ lệ nợ xấu Nghiên cứu của Messai & Jouini (2013) và Ekanayake & Azeez (2015) cũng hỗ trợ quan điểm này, bên cạnh đó, Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013) cũng nhấn mạnh mối liên hệ giữa tăng trưởng quy mô và nợ xấu trong các doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toàn (2014) cùng Nguyễn Thị Hồng Vinh (2015) cho thấy có ít quan điểm đồng thuận về tác động của tỷ lệ ROE lên tỷ lệ nợ xấu Trong khi nhóm tác giả Messai & Jouini (2013) và REHMAN (2017) cho rằng tỷ lệ ROE tác động ngược chiều lên nợ xấu, thì Ekanayake & Azeez (2015) và Đỗ Quỳnh Anh, Nguyễn Đức Hùng (2013) lại khẳng định tỷ lệ dư nợ trên tổng tài sản có tác động cùng chiều Rajha (2016) và Nguyễn Thị Hồng Vinh (2015) chỉ ra rằng tỷ lệ nợ xấu năm trước ảnh hưởng cùng chiều đến nợ xấu năm hiện tại Ngoài ra, Rajha (2016) cũng cho rằng chỉ số nợ trên tổng tài sản tác động cùng chiều lên nợ xấu, trong khi Rehman (2017) nhận định rằng tăng trưởng tín dụng năm trước có tác động ngược chiều Mataba (2018) nhấn mạnh rằng tỷ lệ thu nhập lãi thuần và tỷ lệ cho vay trên tiền gửi có tác động cùng chiều lên tỷ lệ nợ xấu Các yếu tố vi mô tác động lên tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng được tổng hợp trong bảng 2.1.

Bảng 2.1: Tổng hợp các yếu tố vi mô tác động đến nợ xấu của ngân hàng

Yếu tố thuộc về nội tại ngân hàng ( vi mô ) Tác giả

Tốc độ tăng trưởng tín dụng ( + ) Messai & Jouini (2013),Ekanayake &

Azeez (2015), Đỗ Quỳnh Anh và

Nguyễn Đức Hùng (2013), Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toàn (2014), Nguyễn Thị

Hồng Vinh (2015) ROE ( - ) Messai & Jouini (2013), REHMAN

Tỉ lệ dư nợ trên tổng tài sản ( + ) Ekanayake & Azeez (2015), Đỗ Quỳnh

Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013)

Tỉ lệ nợ xấu năm trước đó NPLst-1 ( + ) Rajha (2016) , Nguyễn Thị Hồng Vinh

Tốc độ tăng trưởng quy mô ngân hàng ( + ) Messai & Jouini (2013),Ekanayake &

Azeez (2015), Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013), Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toàn (2014), Nguyễn Thị

Hồng Vinh (2015) Chỉ số nợ trên tổng tài sản ( + ) Rajha (2016)

Tăng trưởng tín dụng năm trước(-) REHMAN (2017)

Tỉ lệ thu nhập lãi thuần ( + ) Mataba(2018)

Tỉ lệ cho vay trên tiền gửi ( + ) Mataba(2018)

Nợ xấu của ngân hàng không chỉ xuất phát từ các yếu tố nội tại mà còn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố xã hội Nhiều nghiên cứu, bao gồm của Messai & Jouini (2013) và Ekanayake & Azeez, đã chỉ ra rằng các yếu tố bên ngoài có thể làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.

Nhiều nghiên cứu, bao gồm các tác giả như Rajha (2016), Mataba (2018), và Đỗ Quỳnh Anh cùng Nguyễn Đức Hùng (2013), đều chỉ ra rằng tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều lên tỷ lệ nợ xấu Đồng thời, yếu tố lãi suất thực trong năm hiện hành được nhiều tác giả, như Messai, đồng thuận rằng có ảnh hưởng cùng chiều đến tỷ lệ nợ xấu.

Jouini (2013),Ekanayake & Azeez (2015), İSLAMOĞLU(2015) , Nguyễn Thị Hồng Vinh (2015) Các tác giả Ekanayake & Azeez (2015), Rajha (2016), REHMAN

THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỢ XẤU CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM

Thực trạng về hệ thống NHTM Việt Nam

3.1.1 Hệ thống NHTM Việt Nam:

NHTM ở Việt Nam có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như hình thức sở hữu, tính chất hoạt động và cơ cấu tổ chức Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung vào phân loại NHTM theo hình thức sở hữu, chia thành ba loại chính.

- Ngân hàng Liên doanh và nước ngoài

Bảng 3.1: Số lượng ngân hàng từ 2008-2017

Liên doanh và nước ngoài

Nguồn: Tác giả thống kê theo số liệu của NHNN

3.1.2 Quy mô NHTM Việt Nam:

Quy mô ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam được đánh giá dựa trên ba tiêu chí chính: tổng tài sản, vốn tự có và vốn điều lệ Bài viết tổng hợp và phân tích các chỉ số này để phản ánh tình hình phát triển của NHTM Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại.

1 Khối NHTM Nhà nước bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam,

Ngân hàng TNHH MTV Dầu khí toàn cầu (GP Bank), Ngân hàng TNHH MTV Đại Dương và Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng.

Bảng 3.2: Bảng tổng tài sản có, vốn tự có và vốn điều lệ của các loại hình NHTM:

Tổng tài sản có Vốn tự có Vốn điều lệ

NHTM Nhà nước 4,021,553 16.63 230,499 12.87 157,239 6.39 NHTM Cổ phần 3,422,830 16.89 254,151 7.54 200,855 3.55

Liên doanh và nước ngoài 828,322 9.63 130,955 11.77 104,103 10.81

Nguồn: Thống kê theo Báo cáo thường niên của NHNN

Theo số liệu từ NHNN tính đến ngày 31/12/2016, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại đạt 8,272,704 tỷ đồng, với mức tăng trưởng 16,15% so với năm trước.

Năm 2016, tổng tài sản của khối ngân hàng thương mại nhà nước đạt 4,021,553 tỷ đồng, dẫn đầu với tốc độ tăng trưởng 16.63% Khối ngân hàng thương mại cổ phần theo sau với tổng tài sản 3,422,830 tỷ đồng và tốc độ tăng trưởng 16.89% Ngân hàng liên doanh và nước ngoài có tổng tài sản thấp nhất, chỉ đạt 828,322 tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng 9.63%.

Vốn tự có của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đạt 614,605 tỷ đồng, tăng 10.66% so với năm 2016 Trong đó, khối NHTM nhà nước chiếm 230,499 tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng 12.87%, khối NHTM cổ phần có vốn tự có 254,151 tỷ đồng, tăng 7.54%, và khối ngân hàng liên doanh và nước ngoài đạt 130,955 tỷ đồng, với mức tăng trưởng 11.77%.

Vốn điều lệ của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đạt 462,197 tỷ đồng, tăng trưởng 6.11% so với năm 2016 Cụ thể, vốn điều lệ của khối NHTM nhà nước là 157,239 tỷ đồng với mức tăng 6.39%, khối NHTM cổ phần đạt 200,855 tỷ đồng với tốc độ tăng 3.55%, trong khi khối ngân hàng liên doanh và nước ngoài có vốn điều lệ 104,103 tỷ đồng, ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao nhất là 10.81%.

3.1.3 Hoạt động huy động vốn của NHTM Việt Nam

Nghiệp vụ huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng của ngân hàng thương mại (NHTM), mặc dù không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng đóng vai trò thiết yếu trong việc cung cấp nguồn vốn cho các nghiệp vụ khác, đặc biệt là tín dụng Đối với khách hàng, đây là kênh an toàn để tiết kiệm và đầu tư, giúp tiền sinh lời trong tương lai Khi nguồn vốn của ngân hàng tăng trưởng bền vững, nó sẽ đảm bảo khả năng thanh khoản, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và các hoạt động đầu tư khác Hơn nữa, nguồn vốn từ NHTM cũng góp phần hỗ trợ các thành phần kinh tế, phục vụ tiêu dùng và mở rộng sản xuất, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và ổn định đời sống xã hội.

Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn của NHTM Việt Nam Đơn vị: %

Theo thống kê từ BCTN của NHNN, trong giai đoạn 2008-2017, tốc độ tăng trưởng huy động vốn có xu hướng giảm Hiện tại, Agribank dẫn đầu với 866.005 tỷ đồng, tiếp theo là BIDV với 859.786 tỷ đồng, Vietinbank đạt 752.370 tỷ đồng và Vietcombank với 708.506 tỷ đồng Tốc độ tăng trưởng huy động vốn trung bình trong giai đoạn này là 22,08%, cho thấy rằng ngân hàng thương mại vẫn là kênh gửi tiền an toàn và đáng tin cậy cho các thành phần kinh tế trong suốt 10 năm qua.

Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng huy động vốn tại Việt Nam đã tăng từ 25.1% lên 34.7%, tương ứng với mức tăng 9.6% Sự giảm tốc độ huy động vốn xuống còn 25.1% trong giai đoạn đầu là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 Sau khủng hoảng, chính phủ Việt Nam đã thực hiện các chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm ngăn chặn lạm phát, góp phần ổn định tốc độ tăng trưởng Đồng thời, nhu cầu vốn từ các thành phần kinh tế để khôi phục và mở rộng sản xuất đã thúc đẩy các ngân hàng thương mại tăng cường huy động vốn trong giai đoạn này.

Giai đoạn 2012-2015 chứng kiến sự giảm tốc độ tăng trưởng huy động vốn từ 18.2% xuống còn 13.6% Nguyên nhân chủ yếu là do nền kinh tế chưa hồi phục hoàn toàn sau các biện pháp khôi phục của Chính phủ, với tốc độ tăng trưởng GDP thấp, lạm phát cao và lãi suất huy động thấp.

2008 2009 2010 2011 Tốc độ tăng trưởng huy …2012 2013 2014 2015 2016 2017 cho kênh ngân hàng không mấy hấp dẫn các thành phần kinh tế so với các kênh đầu tư khác trên thị trường

Từ năm 2015 đến 2017, tốc độ tăng trưởng huy động vốn đã tăng nhẹ từ 13.6% lên 14.6%, nhờ vào lạm phát thấp và chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ được duy trì hợp lý Điều này đã góp phần nâng cao giá trị của đồng VND, trong khi các kênh đầu tư khác như chứng khoán và bất động sản vẫn chưa hồi phục hoàn toàn Do đó, ngân hàng tiếp tục là kênh đầu tư an toàn và tin cậy mà nhiều người dân lựa chọn trong giai đoạn này.

3.1.4 Hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam:

Hoạt động tín dụng là yếu tố then chốt của ngân hàng thương mại (NHTM) nhằm tạo ra lợi nhuận lớn NHTM huy động vốn từ các nguồn nhàn rỗi để cho vay những chủ thể thiếu vốn phục vụ tiêu dùng, mở rộng sản xuất và đầu tư Tăng trưởng tín dụng bền vững không chỉ giúp NHTM gia tăng lợi nhuận mà còn cung cấp đủ vốn cho các doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống.

Biểu đồ 3.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM Việt Nam Đơn vị: %

Nguồn: Thống kê theo BCTN của NHNN

Tốc độ tăng trưởng tín dụng

Từ năm 2008 đến 2017, tốc độ tăng trưởng tín dụng giảm nhẹ từ 22.87% xuống 19.3%, với mức tăng trưởng trung bình đạt 19.57% Sự giảm sút này phản ánh thực trạng bất ổn vĩ mô cả trong và ngoài nước Các ngân hàng dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn này bao gồm Agribank, BIDV, Vietcombank và Viettinbank.

Trong giai đoạn 2008-2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã tăng từ 22.87% lên 31.19%, điều này phản ánh các chính sách tiền tệ và tài khóa của Chính phủ nhằm ổn định lạm phát và lãi suất cho vay sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008 Các chủ thể kinh tế cần vốn để khôi phục và mở rộng sản xuất, từ đó thúc đẩy các ngân hàng thương mại tăng cường tín dụng để đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Trong giai đoạn 2010-2012, tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam giảm mạnh từ 31,19% xuống chỉ còn 8,85% vào năm 2012, đánh dấu năm này là năm “u ám” nhất của ngành ngân hàng với mức tăng trưởng tín dụng thấp nhất trong 10 năm qua Nguyên nhân chủ yếu là do những biến động phức tạp của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là tác động của khủng hoảng nợ công Châu Âu, khiến nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề, lạm phát ở mức cao và lãi suất cho vay dao động từ 20-25%/năm.

Thực trạng nợ xấu và những yếu tố ảnh hưởng đến Nợ Xấu của NHTM Việt Nam

3.2.1 Thực trạng nợ xấu của các NHTM Việt Nam

3.2.1.1 Tỷ lệ nợ xấu các NHTM Việt Nam

Nợ xấu được xem như "cục máu đông" gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam Nó không chỉ ảnh hưởng đến các ngân hàng thương mại, làm giảm lợi nhuận và uy tín, mà còn tác động tiêu cực đến khách hàng trong việc kinh doanh và mở rộng sản xuất Hệ quả là nền kinh tế bị trì trệ, tăng trưởng kém và lạm phát gia tăng.

Biểu đồ 3.3: Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ nợ xấu của NHTM Việt Nam Đơn vị: %

Trong giai đoạn 2008-2017, tỷ lệ nợ xấu tại Việt Nam có sự biến động nhưng thể hiện hai xu hướng chính: tăng từ 2008 đến 2012 và giảm từ 2013 đến 2017 Tỷ lệ nợ xấu trung bình trong giai đoạn này đạt 2.96%, gần sát với ngưỡng an toàn 3% do Ngân hàng Nhà nước quy định Trong số các ngân hàng thương mại, Viettin Bank, ACB, LienViet và Kien Long luôn duy trì tỷ lệ nợ xấu thấp.

Năm 2008, tỷ lệ nợ xấu tại Việt Nam đã đạt 3.5%, vượt mức an toàn 3%, với tổng nợ xấu của các ngân hàng thương mại lên tới khoảng 43,500 tỷ đồng Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã để lại những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt sau khi gia nhập WTO năm 2007 Chính sách vĩ mô thắt chặt, lãi suất tăng cao và tiêu thụ hàng hóa giảm đã tác động xấu đến tình hình tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp Lĩnh vực bất động sản chịu ảnh hưởng nặng nề, với giá trị giảm từ 30-40%, khiến nhiều công ty không thể trả nợ, dẫn đến sự gia tăng nợ xấu tại các ngân hàng thương mại.

Năm 2009-2012, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng dần qua các năm từ 2.2% năm

2009 tăng lên 4.08% năm 2012 Tỷ lệ nợ xấu năm 2012 là cao nhất trong giai đoạn 2008-2017 Điều này được phân tích như sau:

Theo số liệu của NHNN, nợ xấu năm 2009 khoảng 45,000 tỷ đồng chiếm khoảng 2,2% tổng dư nợ,giảm 1.3% so với năm 2008 Điều này là do sau khủng hoảng

Năm 2008, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thận trọng nhằm hỗ trợ thanh khoản và tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng Chính sách này không chỉ giúp ổn định kinh tế vĩ mô mà còn kích cầu đầu tư, từ đó cải thiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và nâng cao khả năng trả nợ.

Giai đoạn 2010-2012: Tỷ lệ nợ xấu lại tăng dần lên và đỉnh điểm cao nhất là năm

Từ năm 2010 đến 2012, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có sự gia tăng đáng kể Năm 2010, tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 2,52%, tương đương khoảng 58.000 tỷ đồng, tuy nhiên đến năm 2011, con số này đã tăng lên 3,07% với 85.000 tỷ đồng, vượt ngưỡng an toàn Nguyên nhân chủ yếu là do chính sách tiền tệ thắt chặt và tình trạng doanh nghiệp thua lỗ Đến năm 2012, tỷ lệ nợ xấu bùng nổ lên 4,08%, chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng nợ công Châu Âu và lạm phát cao tại Việt Nam.

Giai đoạn 2013-2017, tỷ lệ nợ xấu giảm từ 3.61% năm 2013 xuống còn 2.34% năm 2017, cho thấy sự cải thiện trong quản lý nợ xấu sau khi đạt mức cao vượt ngưỡng an toàn vào năm 2012-2013 Tình hình nợ xấu trước đó đã trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh hệ thống ngân hàng và ổn định tài chính quốc gia Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã tích cực thực hiện các biện pháp, bao gồm việc triển khai đề án 254 trong giai đoạn hai.

Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng VAMC, theo Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ, đã có những bước tiến trong việc nâng cao quản trị rủi ro và hoàn thiện chuẩn mực Basel II Mặc dù tỷ lệ nợ xấu có cải thiện vào năm 2014 nhưng vẫn vượt ngưỡng 3.25% do tình hình kinh tế vĩ mô khó khăn Đến năm 2015, tỷ lệ nợ xấu giảm xuống 2.55% nhờ vào các biện pháp quyết liệt từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, bao gồm Chỉ thị 02/CT-NHNN về xử lý nợ xấu và Nghị định 34/2015/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định 53/2013/NĐ-CP.

Tính đến tháng 01/2017, toàn hệ thống ngân hàng thương mại đã xử lý tổng cộng 616,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu, với các năm trước đó lần lượt xử lý 74,68 nghìn tỷ đồng (2012), 87,98 nghìn tỷ đồng (2013), 143,55 nghìn tỷ đồng (2014), 186,89 nghìn tỷ đồng (2015) và 118,49 nghìn tỷ đồng (2016) Trong số đó, 349,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu (chiếm 56,7%) được các ngân hàng tự xử lý, trong khi 43,3% còn lại được bán cho các tổ chức và cá nhân khác Vào tháng 6/2017, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 42 về thí điểm xử lý nợ xấu.

Nghị quyết xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã đạt được những kết quả tích cực, với tỷ lệ nợ xấu giảm xuống còn 2,34% tính đến ngày 31/12/2017 Dự báo rằng vào năm 2018, tỷ lệ này sẽ tiếp tục cải thiện Tuy nhiên, theo báo cáo thường niên năm 2017, hai ngân hàng Saccomebank và Agribank vẫn ghi nhận tỷ lệ nợ xấu cao lần lượt là 4,28% và 4,23%.

3.2.1.2 Nguyên nhân nợ xấu tại các NHTM Việt Nam

 Nguyên nhân từ phía Ngân Hàng

Quy trình tín dụng tại một số ngân hàng thương mại (NHTM) còn thiếu sót và không chặt chẽ, tạo điều kiện cho cán bộ ngân hàng và khách hàng lợi dụng Năng lực quản trị rủi ro của một số NHTM vẫn còn hạn chế, cùng với công tác kiểm tra và kiểm soát nội bộ chưa hiệu quả Tính tuân thủ các quy chế chưa cao và chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ tín dụng ngân hàng chưa được chú trọng, dẫn đến những rủi ro trong hoạt động cho vay.

- Năng lực tài chính của bản thân các NHTM còn hạn chế, đặc biệt kể cả các NHTM của nhà nước

Quy mô ngân hàng đang chịu áp lực tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng, dẫn đến việc các ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động thâu tóm, sát nhập và kêu gọi đầu tư Tình trạng này đã tạo ra sân sau và sở hữu chéo, gây ra vòng luẩn quẩn trong dòng tiền và nợ xấu giữa các doanh nghiệp và ngân hàng Việc giải quyết vấn đề này trở nên khó khăn do thiếu tính minh bạch và giải trình.

Rủi ro về đạo đức trong ngành ngân hàng đang gia tăng khi một số cán bộ biến chất lợi dụng quyền hạn để hợp tác với khách hàng, cố ý làm giả hồ sơ cho vay trái với quy định pháp luật Bên cạnh đó, nhiều cán bộ làm công tác cho vay thiếu kiến thức chuyên môn và kỹ năng, dẫn đến việc phân tích, đánh giá và thẩm định khách hàng không chính xác, từ đó tạo ra những quyết định cho vay tiềm ẩn nhiều rủi ro.

 Nguyên nhân từ phía khách hàng:

Trong bối cảnh nền kinh tế cạnh tranh và mở cửa, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, dẫn đến thua lỗ và phá sản, gây ra nợ xấu cho ngân hàng thương mại Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2017, số lượng doanh nghiệp phá sản và ngừng hoạt động tăng cao kỷ lục, với trung bình hơn 11.100 doanh nghiệp mỗi tháng, tương đương hơn 370 doanh nghiệp mỗi ngày.

Rủi ro đạo đức từ phía khách hàng xảy ra khi cá nhân và doanh nghiệp cố tình lừa dối ngân hàng qua các thủ đoạn tinh vi như cấu kết với cán bộ tín dụng hoặc hối lộ để tạo hồ sơ giả nhằm vay vốn Những đối tượng này thường không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn, dẫn đến tình trạng nợ xấu cho ngân hàng.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và khủng hoảng nợ công châu Âu năm 2010 đã gây ra những tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế Việt Nam Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đối mặt với nhiều khó khăn, bao gồm việc bị từ chối hợp đồng, sản phẩm tiêu thụ chậm, và hàng tồn kho gia tăng Những yếu tố này đã dẫn đến tình trạng phá sản và mất khả năng trả nợ của nhiều doanh nghiệp.

MÔ HÌNH, PHƯƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỢ XẤU CỦA NHTM VIỆT NAM

Ngày đăng: 06/07/2021, 09:35

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Chính phủ, 2009. Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM NHTM Khác
2. Chính phủ, 2013. Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/05/2013 về thành lập, tổ chức và hoạt động công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng việt nam Khác
3. Ngân hàng nhà nước.2005. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN , 22/04/2005, Ban hành Quy định về phân loại nợ, Trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NHcủa tổ chức tín dụng Khác
4. Nguyễn Thị Hồng Vinh, 2015. Yếu tố tác động đến nợ xấu của NHTM Việt Nam, Tạp chí phát triển kinh tế, 26(11): 80-98 Khác
5. Ngân hàng nhà nước, 2007. Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN ngày 28 tháng 05 năm 2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoản nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh Khác
6. Ngân hàng nhà nước, 2007. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày ngày 22 tháng 4 năm 2005 về việc ban hàng quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NHcủa tổ chức tín dụng Khác
7. Ngân hàng nhà nước, 2015. Chỉ thị 02/CT của NHNN về tăng cường xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng Khác
8. Phạm Hữu Hồng Thái, 2014. Tác động của nợ xấu đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, số 142 Khác
9. Quốc hội, 2017. Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng Khác
10. Trần Huy Hoàng, 2010. Quản trị ngân hàng. Nhà xuất bản lao động xã hội 11. Võ Thị Quý, Bùi Ngọc Toản,2014. Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của hệ thống NHTM Việt Nam. Tạp chí khoa học trường đại học mở Tp.HCM, số 3 Khác
1. Addae & Emmanuel, 2017. Effect of non performing loans on the profitability of commercial bank. University of education, Winneba Khác
2. Ahmad, F. & Bashir, T., 2013. Explanatory Power of Macroeconomic Variables as Determinants of Non-Performing Loans: Evidence form Pakistan, World Applied Sciences Journal, 22 (2): 243-255 Khác
3. Adeyemi, B., 2011. Bank failure in Nigeria: a consequence of capital inadequacy, lack of transparency and non-performing loans?, Banks and Bank Systems, 6(1) Khác
4. Ahmad, F. & Bashir, T., 2013. Explanatory Power of Bank Specific Variables as Determinants of Non-Performing Loans: Evidence form Pakistan Banking Sector, World Applied Sciences Journal, 22 (9): 1220-1231 Khác
5. Akinlo, K. & Awolowo, O., 2014. DETERMINANTS OF NON-PERFORMING LOANS IN NIGERIA, Accounting & Taxation, 6(2): 21- 28 Khác
6. CUCINELLI, D., 2015. The Impact of Nonperforming Loans on Bank Lending Behavior:Evidence from the Italian Banking Sector Khác
7. Campbell, A., 2007. Bank insolvency and the problem of nonperforming loans, Journal of Banking Regulation, 9(1):25-45 Khác
8. Collins, J. & Wanjau. K., 2011. The effects of interest rate spread on the level of non-performing assets: A case of commercial banks in Kenya, International Journal of Business and Public Management, 1(1): 58-65 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN