RÀ SOÁT NGÀNH NGHỀ KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CẢI CÁCH CÁC QUY ĐỊNH ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
THỐNG KÊ NGÀNH NGHỀ KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ NỖ LỰC CẢI CÁCH NGÀNH NGHỀ KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN
1 Thống kê về ngành nghề kinh doanh có điều kiện a) Về ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh
Luật đầu tư quy định 7 ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh và các Nghị định của Chính phủ cũng xác định hàng hóa và dịch vụ cấm hoặc hạn chế kinh doanh Thống kê cho thấy có 12 ngành nghề/hoạt động kinh doanh chỉ được phép thực hiện bởi doanh nghiệp nhà nước, bao gồm 1 ngành trong lĩnh vực tài chính, 3 ngành trong công thương và 8 ngành trong giao thông vận tải.
Hình 1: Ngành nghề cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh
Nguồn: Tác giả tổng hợp b) Ngành nghề kinh doanh có điều kiện; sản phẩm hàng hóa dịch vụ kinh doanh có điều kiện
Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện ban hành theo Phụ lục
Luật đầu tư hiện hành quy định 243 ngành nghề, theo Luật số 03/2016/QH14, sửa đổi Điều 6 và Phụ lục 4 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện Thống kê từ các nghị định liên quan cho thấy có 92 loại hàng hóa và dịch vụ kinh doanh có điều kiện, được phân loại thành hai nhóm: hàng hóa, dịch vụ phải cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và loại không cần cấp Giấy chứng nhận Đặc biệt, chỉ có hai Bộ không có ngành nghề kinh doanh có điều kiện, đó là Bộ Quốc phòng và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Hình 2: Thống kê số lượng ngành nghề kinh doanh có điều kiện phân chia theo lĩnh vực quản lý của Bộ, ngành Đơn vị: ngành nghề
Hình 3: Thống kê số lượng ngành nghề kinh doanh có điều kiện phân theo ngành kinh tế quốc dân Đơn vị: ngành nghề
Văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và các điều kiện đầu tư tương ứng được phân loại theo lĩnh vực quản lý của các Bộ, ngành.
Nguồn: Tác giả tổng hợp d) Thống kê các loại điều kiện kinh doanh
Theo thống kê, có 243 ngành nghề kinh doanh có điều kiện với khoảng 3407 điều kiện kinh doanh cụ thể Những điều kiện này rất đa dạng, bao gồm 149 loại khác nhau, và được phân chia thành 7 nhóm chính.
(1)- Yêu cầu người làm việc trong doanh nghiệp phải có chứng chỉ đào tạo chỉ do Bộ/ Ngành quản lý ban hành;
(2)- Yêu cầu về địa điểm, như: diện tích tối thiểu mà doanh nghiệp phải đạt được, có địa chỉ rõ ràng,…;
Yêu cầu về năng lực sản xuất bao gồm các tiêu chí cụ thể về kho bãi và xưởng sản xuất, quy định chi tiết về cách xây dựng và tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm đảm bảo hiệu quả trong việc bảo quản và sản xuất.
Yêu cầu về năng lực nhân lực bao gồm tiêu chuẩn kỹ năng, thường quy định các loại bằng cấp và lĩnh vực làm việc mà người lao động cần có.
(5)- Yêu cầu về tiêu chuẩn số lượng nhân lực quy định tối thiểu số lao động phải đảm bảo các yêu cầu về kỹ năng;
(6)- Yêu cầu về năng lực tài chính, như: vốn quy định số vốn tối thiểu phải có để kinh doanh;
(7)- Yêu cầu, áp đặt một phương thức kinh doanh cứng nhắc, như: tổng đại lý – đại lý; vận tải hành khách theo tuyến cố định,…
Hình 5: Tổng số điều kiện kinh doanh phân theo ngành, lĩnh vực theo thẩm quyền quản lý của Bộ, ngành Đơn vị tính: điều kiện
Hình 6: Các nhóm điều kiện kinh doanh cơ bản Đơn vị tính: điều kiện, tỷ lệ %
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 7: Các loại điều kiện cụ thể trong nhóm điều kiện về Giấy phép, hình thức pháp lý (707 điều kiện)
2 Các nỗ lực cải cách ngành nghề kinh doanh có điều kiện
Nỗ lực cải cách quy định về điều kiện kinh doanh bắt đầu từ đầu những năm 2000, gắn liền với việc xây dựng và thực thi Luật Doanh nghiệp 1999 Quá trình này đã trải qua nhiều thành công và thất bại trong cải cách giấy phép kinh doanh Kinh nghiệm trong 15 năm cải cách hệ thống giấy phép đã đóng vai trò quan trọng trong việc thiết kế nội dung cơ bản của Luật Đầu tư liên quan đến ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Giai đoạn từ năm 2000 đến 2003, Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ đã tích cực rà soát và đánh giá các giấy phép kinh doanh, dẫn đến việc bãi bỏ khoảng 160 giấy phép không còn cần thiết và không hợp lý Cải cách này đã tạo ra tác động tích cực, thúc đẩy hoạt động kinh doanh và phát triển cộng đồng doanh nghiệp.
Hộp 1: Các giấy phép bị bãi bỏ giai đoạn 2000-2003
Quyết định 19/2000/QĐ-TTg ngày 3-2-2000 của Thủ tướng Chính phủ đã bãi bỏ 84 loại giấy phép kinh doanh không phù hợp với Luật doanh nghiệp, thuộc 15 lĩnh vực quản lý khác nhau Trong số đó, ngành văn hóa thông tin là lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều nhất với 34 giấy phép bị bãi bỏ.
Nghị định số 30/2000/NĐ-CP ngày 11 tháng 8 năm 2000 của Chính phủ quy định việc bãi bỏ 27 loại giấy phép thuộc 9 ngành, lĩnh vực quản lý và chuyển 34 giấy phép thành điều kiện kinh doanh không cần giấy phép Nghị định này nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
Nghị định số 59/2002/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ đã bãi bỏ 4 giấy phép và thay thế 4 giấy phép khác bằng phương thức quản lý nhà nước mới, nhằm cải cách hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý.
Kể từ năm 2003, sau nỗ lực cắt giảm giấy phép kinh doanh không cần thiết, một làn sóng giấy phép mới đã xuất hiện nhanh chóng, với số lượng giấy phép tăng từ 194 vào năm 2002 lên 298 vào cuối năm 2004, trung bình mỗi tuần có một giấy phép mới Hơn nữa, còn hàng trăm loại giấy phép trá hình dưới dạng “chấp thuận” và “thông qua” Nghiên cứu trong 15 năm qua cho thấy quy định về giấy phép kinh doanh còn nhiều khiếm khuyết, như điều kiện không rõ ràng, không minh bạch và không đồng bộ Từ năm 2003 đến trước khi ban hành Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp năm 2014, không có cải cách đáng kể nào trong quy định về điều kiện kinh doanh.
Việc ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2014 đánh dấu nỗ lực của Quốc hội và Chính phủ trong việc cải thiện quy định về điều kiện kinh doanh Hai luật này đã mang lại những bước tiến quan trọng trong việc điều chỉnh ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh, góp phần nâng cao chất lượng môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Luật đầu tư lần đầu tiên công khai hai danh mục quan trọng: danh mục các ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh và danh mục các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, cùng với các điều kiện tương ứng Điều này giúp đảm bảo tính minh bạch và rõ ràng trong quy định pháp luật về đầu tư.
Lần đầu tiên, quy định về cấm các Bộ, ngành và Ủy ban Nhân dân ban hành tùy ý điều kiện đầu tư kinh doanh đã được thực hiện đầy đủ theo Luật đầu tư Các Bộ, ngành và Chính phủ đã tích cực rà soát và đánh giá các điều kiện đầu tư kinh doanh trái luật đã ban hành trước ngày 1-7-2015, và trình Chính phủ ban hành đúng thẩm quyền trước ngày 1-7-2016 Quy định này nhằm hạn chế sự tùy tiện trong việc ban hành điều kiện kinh doanh, đã được thực thi sau 15 năm kể từ khi được quy định lần đầu trong Luật doanh nghiệp năm 1999.
PHÁT HIỆN VÀ ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU VỀ HỆ THỐNG QUY ĐỊNH NGÀNH NGHỀ ĐẦU TƯ KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ
Rà soát và đánh giá sơ bộ các quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện cho thấy có mấy phát hiện đáng lưu ý sau đây:
Chất lượng quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện hiện nay đang ở mức thấp, dẫn đến năm nguy cơ chính ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh, bao gồm: tăng rủi ro, hạn chế cạnh tranh, cản trở gia nhập thị trường, kìm hãm sự sáng tạo và hình thành chuỗi, cũng như làm gia tăng chi phí kinh doanh, đặc biệt tác động bất lợi đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nỗ lực cải cách quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện đã đạt được kết quả hạn chế, không đạt được mục tiêu đề ra Mặc dù đã có những cải cách thành công trước đó, nhưng kết quả không được duy trì do cơ chế kiểm soát và quy định mới không được thực thi hiệu quả.
Cải cách giấy phép kinh doanh và ngành nghề kinh doanh có điều kiện cần được hiểu đúng và đầy đủ, nhằm loại bỏ những tác động tiêu cực từ các điều kiện kinh doanh Mục tiêu của cải cách là chuyển đổi phương thức quản lý nhà nước, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước, đồng thời thúc đẩy sự giám sát từ thị trường và người tiêu dùng Hệ thống giám sát của nhà nước sẽ được xây dựng dựa trên nguyên tắc rủi ro và tập trung vào việc theo dõi kết quả đầu ra.
1 Chất lượng kém của các quy định về điều kiện kinh doanh
Chất lượng kém của các quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện đang gây ra 5 nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm rủi ro, hạn chế cạnh tranh, gia tăng chi phí, hạn chế sáng tạo và tác động bất lợi đến doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hình 8: 5 nguy cơ tác động bất lợi của điều kiện kinh doanh đến phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Nguồn: Tác giả đề xuất
Các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh, do 13 loại quy định về điều kiện kinh doanh khác nhau tạo ra Những quy định này có thể gây khó khăn và cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
(1) Điều kiện kinh doanh không rõ ràng, không cụ thể
(2) Giấy phép kinh doanh có thời hạn hiệu lực ngắn và phải xin cấp lại sau khi hết hạn
(3) Phải thực hiện thủ tục xin cấp giấy xác nhận đủ điều kiện
(4) Quy định pháp luật thường xuyên thay đổi
(5) Áp đặt phương thức kinh doanh cứng nhắc; áp đặt hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh, tiêu chuẩn kỹ thuật bố trí nhà xưởng,…
(6) Yêu cầu phải có năng lực sản xuất tối thiểu, diện tích tối thiểu, số lượng máy móc tối thiểu,
(7) Yêu cầu về năng lực tài chính, vốn, bảo hiểm,…
(8) Phải được chấp thuận của cơ quan nhà nước để cung cấp dịch vụ (phê duyệt giáo trình, đăng ký vào danh sách được cung cấp dịch vụ,…)
(9) Phải sử dụng dịch của cơ quan nhà nước (đào tạo, tập huấn, thi tuyển,… do cơ quan nhà nước tổ chức)
(10) Yêu cầu phù hợp với quy hoạch
(11) Yêu cầu sở hữu thiết bị, máy móc sản xuất,…
(12) Yêu cầu nhân lực: số lượng tối thiểu, bằng cấp, kinh nghiệm làm việc
(13) Phải tổ chức dưới hình thức pháp lý nhất định như công ty, công ty hợp danh
Bảng 1: Các loại điều kiện kinh doanh có nguy cơ gây tác động bất lợi đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Tăng chi động bất STT
Loại điều kiện kinh doanh
Rủi ro cạnh sáng tạo, phí lợi đến tranh chuỗi
1 Điều kiện kinh doanh không rõ ràng, không cụ thể
Giấy phép kinh doanh có thời
2 hạn hiệu lực ngắn và phải xin cấp lại sau khi hết hạn
3 Phải thực hiện thủ tục xin cấp giấy xác nhận đủ điều kiện
4 Quy định pháp luật thường xuyên thay đổi Áp đặt phương thức kinh doanh cứng nhắc; áp đặt hệ
5 thống tổ chức sản xuất kinh doanh, tiêu chuẩn kỹ thuật bố trí nhà xưởng,…
Yêu cầu phải có năng lực sản
6 xuất tối thiểu, diện tích tối thiểu
Yêu cầu về năng lực tài chính,
Phải được chấp thuận của cơ quan nhà nước để cung cấp
8 dịch vụ (phê duyệt giáo trình, đăng ký vào danh sách được cung cấp dịch vụ,…)
Phải sử dụng dịch của cơ quan
9 nhà nước (đào tạo, tập huấn,
thi tuyển,… do cơ quan nhà nước tổ chức)
10 Yêu cầu phù hợp với quy hoạch
11 Yêu cầu sở hữu thiết bị, máy móc sản xuất,…
Yêu cầu nhân lực: số lượng tối
12 thiểu, bằng cấp, kinh nghiệm làm việc
Phải tổ chức dưới hình thức
Nguồn: Tác giả tổng hợp a) Điều kiện kinh doanh không rõ ràng, không cụ thể
Khi xem xét các điều kiện kinh doanh, chúng ta nhận thấy sự không rõ ràng trong quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện, thể hiện qua hai điểm chính: thứ nhất, định nghĩa về ngành nghề kinh doanh có điều kiện chưa rõ ràng; thứ hai, các điều kiện kinh doanh cụ thể cũng không được xác định một cách rõ ràng.
Việc quy định ngành nghề kinh doanh có điều kiện hiện nay gặp nhiều khó khăn do thiếu tiêu chí và cách thức rõ ràng, dẫn đến sự khác biệt giữa các lĩnh vực Các văn bản pháp lý thường không cung cấp giải thích cụ thể, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc hiểu và tuân thủ quy định Điều này tạo ra rủi ro lớn cho doanh nghiệp khi không rõ liệu hoạt động của họ có thuộc loại kinh doanh có điều kiện hay không Thêm vào đó, giấy phép kinh doanh thường có thời hạn ngắn, yêu cầu doanh nghiệp phải xin phép lại sau khi hết hạn, gây thêm áp lực cho hoạt động kinh doanh.
Các điều kiện kinh doanh thường được thể hiện qua Giấy phép kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh với thời hạn tối đa 5 năm Sau khi hết hạn, doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục xin cấp lại giấy phép, gây ra rủi ro lớn và tâm lý ngần ngại trong đầu tư dài hạn Trong một số trường hợp, doanh nghiệp có thể phải tạm dừng hoạt động khi giấy phép hết hạn dù vẫn đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh, dẫn đến thiệt hại không đáng có do yêu cầu không hợp lý từ quy định Hơn nữa, việc thay đổi thường xuyên của quy định pháp luật càng làm gia tăng khó khăn cho doanh nghiệp.
Nghị định 19/2016/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh khí hóa lỏng đã thay thế Nghị định 107/2009/NĐ-CP và sửa đổi một số quy định liên quan đến quản lý kinh doanh khí dầu mỏ hóa lỏng Nghị định này có hiệu lực từ 15/5/2016, yêu cầu thương nhân kinh doanh khí gas phải sở hữu tối thiểu 3.930.000 lít LPG, tương đương 150.000 chai LPG loại 12 kg, thay vì 300.000 chai như trước Sự thay đổi này đã gây áp lực lớn lên doanh nghiệp, buộc nhiều công ty phải giải thể hoặc ngừng hoạt động, đồng thời yêu cầu đầu tư thêm để tuân thủ quy định mới, thay vì nâng cao năng lực kinh doanh Ngoài ra, nghị định cũng áp đặt phương thức kinh doanh cứng nhắc và yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật trong tổ chức sản xuất.
Ngành nghề kinh doanh có điều kiện thường áp đặt phương thức hoạt động cứng nhắc, như trong lĩnh vực kinh doanh khí hóa lỏng và rượu, hay các quy định về vận tải với năm loại hình vận tải khác nhau Việc một doanh nghiệp sáng tạo hình thức kinh doanh mới có thể dẫn đến vi phạm pháp luật nếu không phù hợp với quy định hiện hành, như trường hợp của Dcar, Uber, và Grab, mặc dù được người tiêu dùng ưa chuộng Ngoài ra, các yêu cầu về năng lực sản xuất tối thiểu, diện tích tối thiểu và số lượng máy móc tối thiểu cũng là những quy định quan trọng trong ngành nghề này.
Các loại điều kiện kinh doanh thường yêu cầu tối thiểu về năng lực sản xuất, bao gồm số lượng và công suất máy móc, diện tích và bố trí nhà xưởng Bên cạnh đó, yêu cầu về năng lực tài chính, vốn và bảo hiểm cũng rất phổ biến.
Điều kiện kinh doanh thường bao gồm yêu cầu về mức vốn tối thiểu, bảo hiểm, và năng lực tài chính Doanh nghiệp cần được cơ quan nhà nước chấp thuận để cung cấp dịch vụ, bao gồm việc phê duyệt giáo trình và đăng ký vào danh sách cung cấp dịch vụ Các điều kiện này thường yêu cầu doanh nghiệp phải có văn bản đề án hoặc phương án kinh doanh để được phê duyệt, cùng với chương trình dạy học phải được cơ quan nhà nước xác nhận.
Để thành lập trường trung học cơ sở, doanh nghiệp cần có đề án phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và mạng lưới giáo dục được phê duyệt Đề án này phải xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình và nội dung giáo dục, cùng với các yếu tố như đất đai, cơ sở vật chất, thiết bị, địa điểm xây dựng, tổ chức bộ máy, nguồn lực và tài chính Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải sử dụng dịch vụ của cơ quan nhà nước trong các hoạt động đào tạo, tập huấn và thi tuyển.
Điều kiện kinh doanh này yêu cầu nhân viên phải tham gia đào tạo và tập huấn tại các lớp do nhà nước tổ chức, đồng thời phải trả phí Điều này không chỉ tạo ra sự độc quyền cho nhà nước, mà còn cản trở sự gia nhập thị trường và cạnh tranh, đồng thời hạn chế cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp Việc yêu cầu này cần phải phù hợp với quy hoạch hiện hành.
Thống kê cho thấy rằng các điều kiện kinh doanh thường yêu cầu phải phù hợp với quy hoạch, điều này vẫn rất phổ biến Ngoài ra, một trong những yêu cầu quan trọng là sở hữu thiết bị và máy móc sản xuất cần thiết Cuối cùng, các doanh nghiệp phải được tổ chức dưới hình thức pháp lý nhất định, như công ty hoặc công ty hợp danh, để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
CẢI CÁCH CÁC QUY ĐỊNH ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
1 Phương án rà soát, cắt giảm của các Bộ
Cải cách quy định về điều kiện kinh doanh nhằm thúc đẩy cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ trong những năm qua Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 83/NQ-CP và Nghị quyết số 98/NQ-CP, yêu cầu các Bộ tiếp tục rà soát và đánh giá để đề xuất bãi bỏ từ 1/3 đến 1/2 số điều kiện kinh doanh hiện hành, nhằm giảm bớt rào cản cho hoạt động đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp.
Thực hiện nhiệm vụ rà soát, cắt giảm điều kiện kinh doanh, một số Bộ đã nhanh chóng triển khai các hành động cụ thể Cụ thể:
Bộ Công Thương đã tiên phong trong việc rà soát và cắt giảm điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực quản lý nhà nước của mình Vào ngày 20/9/2017, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ký Quyết định số 3610a/QĐ-BCT, phác thảo phương án cắt giảm và đơn giản hóa các điều kiện đầu tư, kinh doanh giai đoạn 2017 – 2018 Tiếp theo, vào ngày 15/1/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2018/NĐ-CP để sửa đổi một số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh Kết quả là khoảng 50% điều kiện kinh doanh đã được cắt bỏ hoặc sửa đổi theo hướng minh bạch và đơn giản hơn, trong đó có khoảng 22% điều kiện kinh doanh bị bãi bỏ hoàn toàn.
Ngân hàng Nhà nước khuyến nghị giữ nguyên các điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, nhằm phù hợp với đặc thù của các tổ chức tín dụng và tính rủi ro cao của hoạt động ngân hàng so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Bộ Xây dựng đã có những nỗ lực cải cách đáng kể nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và điều kiện kinh doanh Cụ thể, Bộ đã thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong các quy trình liên quan.
- đề xuất bãi bỏ 05 ngành, nghề không thuộc Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện của Luật số 03/2016/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục
Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo Luật Đầu tư được quy định bởi các Nghị định do Bộ Xây dựng chủ trì soạn thảo Điều này nhằm đảm bảo rằng các lĩnh vực đầu tư trong ngành xây dựng đều tuân thủ các tiêu chuẩn và quy định pháp lý cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và phát triển bền vững trong lĩnh vực này.
Đề xuất bãi bỏ 06 ngành, nghề thuộc Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo Luật số 03/2016/QH14 không đáp ứng tiêu chí tại Điều 7 của Luật Đầu tư Tuy nhiên, Bộ Tư pháp trong Báo cáo thẩm định hồ sơ đề nghị xây dựng Luật số 360/BC-BTP ngày 29/11/2017 đã kiến nghị giữ lại những ngành, nghề này.
1 Nghị quyết số 83/NQ-CP ngày 31/8/2017 về phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 8 năm
Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 3/10/2017 đã ban hành chương trình hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 Nghị quyết này từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII nhấn mạnh vai trò quan trọng của phát triển kinh tế tư nhân, coi đây là động lực chính cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
02 ngành nghề 3 Do vậy, tiếp thu ý kiến thẩm định, Bộ Xây dựng đã đề xuất bãi bỏ
04 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và thay bằng hình thức quản lý khác
- đề xuất bãi bỏ 89 điều kiện (41,3%); đơn giản hóa 94 (43,7%); giữ nguyên
32 điều kiện (15%) tổng số 215 điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng
Các đề xuất bãi bỏ sẽ được đưa vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các điều của Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, và Luật Quy hoạch đô thị, liên quan đến các ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện Dự thảo Nghị định sửa đổi cũng đã hoàn thành việc lấy ý kiến và trình thẩm định, dự kiến sẽ được Chính phủ ban hành vào tháng 1/2018.
(4) Tiếp theo là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Theo kế hoạch của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự kiến sẽ bãi bỏ và sửa đổi 118 trong tổng số 345 điều kiện kinh doanh thuộc 33 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chiếm 34,2% tổng số Cụ thể, trong số này sẽ có 65 điều kiện bị bãi bỏ và 53 điều kiện được sửa đổi.
Bộ Tài chính đã tiến hành rà soát các văn bản quy định về điều kiện kinh doanh mà Bộ quản lý và đưa ra những đề xuất cụ thể nhằm cải thiện tình hình.
- bỏ các điều kiện kinh doanh dịch vụ đòi nợ không cần thiết tại Nghị định số 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh đòi nợ
Nghị định số 69/2016/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ mua bán nợ sẽ được điều chỉnh bằng cách bỏ toàn bộ điều kiện kinh doanh hiện có Nghị định này, do Ngân hàng Nhà nước chủ trì soạn thảo, đã giao Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực mua bán nợ Mục tiêu cuối cùng là đề xuất loại bỏ ngành nghề này khỏi Danh mục ngành nghề đầu tư và kinh doanh có điều kiện.
3 Gồm: Kinh doanh dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư; và Kinh doanh sản phẩm amiăng trắng thuộc nhóm Serpentine
Bộ Xây dựng đã đề xuất xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến xây dựng, nhà ở, kinh doanh bất động sản và quy hoạch đô thị, trình Chính phủ trong Tờ trình số 64/TTr-BXD vào ngày 30/11/2017 Chính phủ đã thông qua chính sách này tại Nghị quyết số 131/NQ-CP vào ngày 6/12/2017.
Bộ Xây dựng có văn bản số 3045/BXD-PC gửi Bộ Tư pháp để lập đề nghị điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018
Bộ Tài chính vẫn chưa thực hiện thống kê đầy đủ về tổng số điều kiện kinh doanh mà mình quản lý, bao gồm số điều kiện bị bãi bỏ, số điều kiện cần sửa đổi và phương án cụ thể cho những sửa đổi này.
(6) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã thực hiện rà soát và đề xuất phương án bãi bỏ, cắt giảm điều kiện kinh doanh như sau:
Sửa đổi và cắt giảm điều kiện kinh doanh trong một số ngành nghề nhằm phù hợp với các quy định trong dự thảo Luật và Nghị định đang trình Quốc hội, Chính phủ, bao gồm: kinh doanh thể thao của doanh nghiệp và câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp; dịch vụ đại diện quyền sở hữu trí tuệ và giám định quyền sở hữu trí tuệ; dịch vụ lữ hành; và dịch vụ lưu trú.
Đề xuất cắt bỏ ba ngành nghề khỏi Danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện bao gồm: dịch vụ sản xuất phim, dịch vụ giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến công chúng, và kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sản phẩm sân khấu.
RÀ SOÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CHUYÊN NGÀNH ĐỐI VỚI HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU
Các văn bản quy định mới và đang xây dựng liên quan đến quản lý chuyên ngành 27 1 Các văn bản quy định mới
1 Các văn bản quy định mới
1) Luật Quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14 ngày 12/6/2017, có hiệu lực từ ngày 1/1/2018, trong đó có một số quy định liên quan đến QLCN đối với hàng hoá XNK - XNK (các điều 61 – 65), sẽ là một cản trở cho việc tháo gỡ những vướng mắc, bất hợp lý hiện nay, đặc biệt là khoản 4 điều 61 quy đinh các sản phẩm thực phẩm chưa có quy chuẩn kỹ thuật (QCVN) phải công bố phù hợp quy định An toàn thực phẩm (ATTP) – một quy định trái luật ATTP, gây nhiều khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, đang được Chính Phủ chỉ đạo sửa đổi
2) Luật Thuỷ sản số 18/2017/QH14 ngày 21/11/2017 thay thế Luật Thuỷ sản sô 17/2003/QH11, có hiệu lực thi hành 1/1/2019
Luật quy định về xuất nhập khẩu thủy sản, giống thủy sản và thức ăn thủy sản, đặc biệt tại các điều 36 và 37, yêu cầu thức ăn chăn nuôi thủy sản nhập khẩu phải công bố hợp chuẩn, hợp quy và kiểm tra chất lượng "khi nhập khẩu" Tuy nhiên, quy định này có thể gây ra vướng mắc trong quá trình thực hiện, tương tự như các vấn đề phát sinh từ Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (Luật CLSPHH).
3) Nghị định NĐ 39/2017/NĐ – CP về Quản lý thức ăn chăn nuôi, thuỷ sản thay thế NĐ 08/2010/NĐ-CP, có hiệu lực từ 20/5/2017:
Nghị định mới quy định chi tiết các chỉ tiêu chất lượng và phương pháp thử nghiệm khi công bố sản phẩm cho các loại thức ăn chăn nuôi chưa có Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) So với các quy định trước đây, nghị định này nhằm đảm bảo tính minh bạch và an toàn cho sản phẩm thức ăn chăn nuôi trên thị trường.
Nghị định 38/2012/NĐ-CP về an toàn thực phẩm (ATTP) đã cải thiện tính minh bạch so với quy định trước đó, nhưng vẫn gặp khó khăn do thiếu chỉ tiêu cụ thể và cơ quan kiểm tra Điều 9 yêu cầu cơ sở nhập khẩu phải có kho bảo quản đạt tiêu chuẩn, nhưng không xác định cơ quan nào kiểm tra, dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp Điều 13 quy định việc xin Giấy phép nhập khẩu cho thức ăn chăn nuôi chưa được công nhận, không phù hợp với cải cách thủ tục hành chính, cần sửa đổi để chỉ quy định khối lượng tối đa nhập khẩu Điều 16 yêu cầu kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi và thủy sản nhập khẩu, nhưng không yêu cầu công bố hợp chuẩn, hợp quy, điều này có thể giúp giảm bớt thủ tục phức tạp cho doanh nghiệp Việc áp dụng quy định này cho hàng hóa nhập khẩu sẽ giảm thiểu thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
4) Nghị định 43/2017/NĐ-CP về nhãn hàng hoá, thay thế NĐ 89/2006/NĐ-
CP có hiệu lực từ ngày 1/6/2017 và đến nay chưa ghi nhận vướng mắc lớn nào, ngoại trừ vấn đề thực thi Theo quy định tại Phụ lục 1 của Nghị định 43/2017/NĐ-CP, việc thực hiện các quy định này cần được chú trọng để đảm bảo hiệu quả.
Trên nhãn hàng thực phẩm, việc ghi rõ "thông tin cảnh báo" là yêu cầu bắt buộc Nếu thiếu thông tin này, lực lượng quản lý thị trường sẽ xử phạt và cấm lưu thông hàng hóa Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xác định thông tin cảnh báo phù hợp, đặc biệt với những mặt hàng như thịt sống, dẫn đến bức xúc trong cộng đồng doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm.
5) Nghị định 54/2017/NĐ- CP về Quản lý Dược Theo đánh giá của HQ Hải
Phòng, còn rất nhiều vướng mắc trong các quy định liên quan đến XNK, nhất là tại các điều, khoản chuyển tiếp
6) Nghị định 55/2017/NĐ – CP về cá tra, thay thế NĐ 36/2014/NĐ- CP, có hiệu lực từ 1/7/2017 NĐ này đã giải quyết 3 vướng mắc chính liên quan đến XK quy định tại NĐ 36, là: đăng ký hợp đồng XK, tỷ lệ độ ẩm, tỷ lệ mạ băng
7) Nghị định 90/2017/NĐ – CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thú y
8) Nghị định 105/2017/NĐ – CP về quản lý rượu, thay thế NĐ 94/2012/NĐ-
CP, có hiệu lực từ ngày 1/11/2017, đã được các doanh nghiệp nhập khẩu phản ánh rằng vẫn còn nhiều vướng mắc và bất hợp lý chưa được giải quyết, đặc biệt là trong việc xử lý cùng một loại rượu.
Theo Điều 13 Nghị định 94/2012/NĐ-CP, rượu được xác định là sản phẩm cần phải công bố hợp quy Tuy nhiên, hiện tại có những vướng mắc mới phát sinh liên quan đến quy định này, cụ thể là tại Điều 5.
Nghị định 105/2017/NĐ-CP đã bổ sung quy định gây tranh cãi về việc công bố và đăng ký bản công bố phù hợp với quy định an toàn thực phẩm (ATTP) cho các loại rượu chưa có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) Chính phủ đã yêu cầu dỡ bỏ quy định này do những lo ngại về tính khả thi và ảnh hưởng đến ngành sản xuất rượu.
9) Nghị định 108/2017/NĐ-CP ngày 20/9/2017 về Quản lý phân bón có hiệu lực thi hành từ ngày ban hành (20/9/2017), thay thế NĐ 202/2013/NĐ-CP:
Nghị định mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu phân bón bằng cách thống nhất quản lý dưới một Bộ duy nhất là Bộ NNPTNT, thay vì hai Bộ như trước Tất cả thủ tục hành chính và mẫu biểu đều được ban hành kèm theo nghị định, và không cần xin Giấy phép nhập khẩu cho phân bón đã được công nhận lưu hành tại Việt Nam Thủ tục công nhận lưu hành chỉ áp dụng cho lô hàng đầu tiên nhập khẩu vào Việt Nam Các tổ chức và cá nhân trong nước hoặc nước ngoài có đại diện tại Việt Nam có thể đăng ký công nhận phân bón lưu hành Trong thời gian chờ kết quả kiểm tra chất lượng, hàng hóa có thể được đưa về kho doanh nghiệp để bảo quản.
Tuy nhiên, lại có một số quy định chưa hợp lý hoặc kém thuận lợi hơn trước, như:
Theo quy định mới, công bố hợp quy (điều 29) và kiểm tra chất lượng (điều 30) sẽ được tách riêng thành hai công đoạn khác nhau Điều này khác với Nghị định 202/2013/NĐ-CP, nơi việc kiểm tra chất lượng được thực hiện đồng thời với công bố hợp quy, tạo thành một công đoạn duy nhất.
Quy định về "đóng gói" trong sản xuất phân bón yêu cầu doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện theo điều 20 và được Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất (khoản 2 điều 24) Cơ quan hải quan hiểu rằng quy định này cũng áp dụng cho phân bón nhập khẩu dạng rời, khi được đóng bao tại cảng trong quá trình dỡ hàng từ tàu Hình thức này, phổ biến trong vận chuyển hàng rời, đã gây ách tắc trong thông quan hàng hóa do việc đóng gói không được thực hiện bởi doanh nghiệp đáp ứng quy định.
Doanh nghiệp có Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất phân bón cần lưu ý rằng, mặc dù cơ quan Hải quan hiểu đúng về câu chữ, nhưng cách hiểu này có phần máy móc về bản chất công việc Các chuyên gia đã phản ánh vấn đề này và kiến nghị lên Tổng cục Hải quan Sau đó, Tổng cục Hải quan đã có trao đổi và thống nhất với Cục Bảo vệ thực vật, hai bên đã ban hành văn bản hướng dẫn, trong đó không coi hoạt động đóng gói tại cảng là sản xuất phân bón.
Quy định về việc xin Giấy phép nhập khẩu phân bón chưa được công nhận lưu hành tại Việt Nam có thể không hợp lý, do phát sinh thủ tục xin và cấp phép trong vòng 7 ngày làm việc Trong 8 trường hợp quy định, 5 trường hợp thường chỉ nhập khẩu với khối lượng nhỏ, như khảo nghiệm, sân thể thao, hàng mẫu, quà tặng, và phục vụ nghiên cứu khoa học, vì vậy chỉ cần quy định khối lượng tối đa để cơ quan Hải quan giải quyết mà không cần cấp Giấy phép Đối với một trường hợp đã có cơ chế quản lý chặt chẽ (nhập khẩu để sản xuất phân bón xuất khẩu), cũng không cần cấp Giấy phép, chỉ còn lại 2 trường hợp thực sự cần thiết phải có giấy phép.
Tình hình xử lý các khó khăn, vướng mắc
1 Khó khăn, vướng mắc cũ
Nhiều khó khăn, vướng mắc cũ chưa được tháo gỡ, mặc dù đã được Chính Phủ chỉ đạo tại các NQ 19 của Chính Phủ:
1.1 Phạm vi KTCN rộng , đặc biệt là việc mở rộng danh mục hàng hoá phải
KTCN tại Thông tư của một số Bộ, ví dụ:
- “Sản phẩm động vật” quy định tại Luật Thú y được mở rộng tại Phụ lục I
Thông tư 25/2016/TT-BNNPTNT của Bộ NNPTNT mở rộng kiểm dịch động vật đối với nhiều loại sản phẩm như “sản phẩm từ sữa”, “sản phẩm từ trứng” và “thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản chứa thành phần có nguồn gốc từ động vật” Điều này dẫn đến việc kiểm dịch quá mức cần thiết, đặc biệt là đối với các sản phẩm chế biến, bao gói sẵn Theo Luật An toàn thực phẩm, chỉ thực phẩm tươi sống mới yêu cầu có chứng nhận vệ sinh thú y (Điều 11).
Thủ tục kiểm dịch động vật hiện nay gặp nhiều khó khăn và phức tạp, bao gồm hai giai đoạn tại hai cơ quan của Cục Thú y Giai đoạn đầu là đăng ký kiểm dịch tại Cục Thú y ở Hà Nội, thường mất thời gian thực tế lâu hơn 5 ngày quy định, và có thể kéo dài mà không thông báo lý do Giai đoạn thứ hai là khai báo và kiểm dịch tại cơ quan thú y vùng, không có thời gian hoàn thành cụ thể So với quy định về kiểm dịch thực vật theo Thông tư 33/2014/TT-BNNPTNT, thủ tục kiểm dịch động vật phức tạp hơn nhiều, vì kiểm dịch thực vật chỉ cần thực hiện tại một cơ quan kiểm dịch thực vật vùng và hoàn thành trong vòng 24 giờ.
Doanh nghiệp phản ánh rằng việc chậm cấp văn bản đồng ý kiểm dịch là do Cục Thú y chỉ có một nhân viên phụ trách xử lý quá nhiều hồ sơ từ các doanh nghiệp trên toàn quốc Mặc dù đây là vấn đề nội bộ của Cục Thú y, nhưng doanh nghiệp lại là bên phải chịu hậu quả từ sự chậm trễ và cửa quyền này.
Luật CLSPHH quy định rằng danh mục hàng hóa thuộc phạm vi quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ bao gồm bốn nhóm chính: an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, thiết bị đo lường và hàng hóa khác, ngoại trừ những mặt hàng đã được phân công cho các bộ, ngành khác Theo Quyết định 1711/QĐ-BKHCN ngày 27/5/2015, Bộ KHCN đã ban hành danh mục hàng hóa nhập khẩu phải kiểm tra chất lượng, trong đó quy định rõ các yêu cầu đối với từng nhóm hàng hóa này.
29 nhóm mặt hàng, tất cả thuộc nhóm “hàng hoá khác”, không có mặt hàng nào thuộc 3 nhóm mà luật quy định cụ thể đã trích dẫn ở trên
1.2 Nội dung quản lý, kiểm tra không rõ : Yêu cầu công bố ATTP đối với cả những sản phẩm không có QCVN
1.3 Kiểm tra chồng chéo giữa các Bộ (Bộ Công thương, NNPTNT, Y tế,
Mặt hàng thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi phải trải qua nhiều bước kiểm tra từ các bộ phận khác nhau thuộc Bộ NNPTNT Cụ thể, nếu sản phẩm có nguồn gốc thực vật, nó sẽ được kiểm tra tại cơ quan kiểm dịch thực vật và Cục chăn nuôi Đối với nguồn gốc động vật, kiểm tra sẽ diễn ra tại cơ quan thú y và Cục chăn nuôi Trong trường hợp sản phẩm có nguồn gốc thủy sản, kiểm tra chất lượng sẽ được thực hiện tại cơ quan thú y và Tổng cục thủy sản.
Chỉ 1 chiếc điều khiển cần trục xe nâng (1,2kg) phải làm thủ tục 8 lần tại nhiều bộ phận khác nhau của 2 Bộ Công thương và Bộ Thông tin và Truyền thông
Nhiều doanh nghiệp phản ánh rằng việc thực hiện thủ tục kiểm tra chất lượng tại Cục Chăn nuôi gặp phải nhiều phức tạp, bên cạnh các cơ quan và đơn vị quản lý đã được biết đến.
Bộ NNPTNT đối mặt với nhiều khó khăn và phức tạp trong quy trình cấp giấy chứng nhận chất lượng hàng hóa, gây tốn thời gian và chi phí cho doanh nghiệp Theo phản ánh từ các doanh nghiệp, chỉ có một cán bộ phụ trách toàn bộ công việc này, dẫn đến việc xử lý hồ sơ phụ thuộc hoàn toàn vào cá nhân đó, tương tự như tình trạng tại Cục Thú y.
1.4 Thời gian KTCN dài Đánh giá chung về thời gian KTCN, các đơn vị HQ đều cho rằng thời gian tuy vẫn còn dài, nhưng có giảm so với trước Tại cảng Phú Mỹ, với đặc điểm cơ cấu chủng loại hàng NK chủ yếu là nguyên liêu SX thức ăn chăn nuôi, phân bón,
Thời gian kiểm dịch và kiểm tra chất lượng (KTCN) hàng hóa tại NK lô lớn dạng rời đã giảm 39% so với năm 2017, nhưng vẫn kéo dài từ 15 đến 16 ngày Tại cảng Cái Lân, thời gian KTCN khoảng 11 ngày, tương tự như cảng Phú Mỹ Đối với thức ăn chăn nuôi, thời gian kiểm tra chất lượng tại Cục Chăn nuôi thuộc Bộ NNPTNT là 14 ngày, trong khi Tổng cục Thủy sản cùng bộ này mất tới 3 tuần Thời gian đăng ký dãn nhãn năng lượng tại Tổng cục Năng lượng Bộ Công Thương thường kéo dài khoảng 3 tuần.
Theo Cơ quan Thú y Vùng 6 tại TP HCM, việc kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi có thể được thực hiện nếu được Bộ giao nhiệm vụ Nếu Bộ giao cho Cơ quan Thú y thực hiện kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi, thì công tác kiểm tra này sẽ chỉ tập trung tại một cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
1.5 Chi phí KTCN quá lớn , đặc biệt là phí kiểm tra hiệu suất năng lượng và phí kiểm tra chất lượng Thức ăn chăn nuôi NK: Để được NK lô hàng tủ lạnh DN phải thực hiện 3 loại kiểm tra: Kiểm tra tương thích điện từ chi phí 16 triệu, kiểm tra hiệu suất năng lượng chi phí 16 triệu, kiểm tra chất lượng chi phi phí 6 triệu Trường hợp kiểm tra có phá huỷ thì mất cả
Mua một chiếc tủ lạnh trị giá hàng chục triệu đồng, người nhập khẩu phải thực hiện đầy đủ thủ tục và nộp chi phí như quy định Ngoài ra, còn có các khoản phí không chính thức để được xử lý nhanh chóng và kiểm tra không phá hủy, có thể lên đến từ 1 đến vài triệu đồng Tổng chi phí để hoàn tất các thủ tục này có thể rất cao.
KTCN đối với một loại tủ lạnh khoảng 70 triệu đồng DN tính toán nếu 1 lô hàng
NK chỉ gồm vài chiếc thì coi như hết lãi, thậm chí lỗ
Lô hàng gồm 6 máy xay thịt cần thực hiện thủ tục công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm tại Bộ Y tế Doanh nghiệp phải tiến hành thử nghiệm tại đơn vị được Bộ Y tế chỉ định với mức phí là 22.900.000 đồng.
Tổng chi phí kiểm tra chất lượng nhập khẩu cho lô hàng 28.500 tấn khô dầu đậu tương qua cảng Cái Lân (Quảng Ninh) của 29 doanh nghiệp đạt khoảng 157 triệu đồng, bao gồm phí kiểm tra chất lượng khoảng 123 triệu đồng và phí kiểm dịch thực vật khoảng 34 triệu đồng.
Phí kiểm tra chất lượng Thức ăn chăn nuôi tại Tổng cục thuỷ sản khoảng 40 – 50 triệu đồng cho lô hàng 60 – 70 tấn