ĐẶT VẤN ĐỀ Tuổi vị thành niên là một giai đoạn quan trọng dễ gặp những yếu tố tác động đến các vấn đề sức khỏe trong đó có yếu tố dinh dưỡng do nhu cầu để đáp ứng sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể giai đoạn này. Trong những vấn đề của dinh dưỡng thì tình trạng thiếu hụt đa vi chất dinh dưỡng vì nhiều lý do vẫn đang còn phổ biến trên toàn thế giới. Tình trạng thiếu hụt này thường xảy ra từ khi còn nhỏ và kéo dài đến lúc trưởng thành nếu không được can thiệp và sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển về thể chất và nhận thức. Những thiếu hụt này có thể gây ra những hậu quả lâu dài như suy giảm phát triển hành vi và não bộ, chậm trưởng thành giới tính, mất cơ hội tăng trưởng chiều cao cuối cùng và loãng xương ở thanh thiếu niên. Ngay cả khi thiếu hụt vi chất dinh dưỡng từ nhẹ đến trung bình cũng có thể dẫn đến suy giảm phát triển trí tuệ và tâm lý, tăng trưởng thể chất kém, làm tăng tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn ở trẻ vị thành niên, làm giảm năng suất làm việc, gia tăng các bệnh mạn tính không lây ở tuổi trưởng thành. Vì vậy, nghiên cứu tình trạng vi chất dinh dưỡng trong thời kỳ vị thành niên đã trở thành một lĩnh vực quan trọng cần được quan tâm [1, 2]. Ở giai đoạn này, sự tăng trưởng cũng như phát triển cơ bắp một cách nhanh chóng cùng với tăng thể tích máu cũng làm cho nhu cầu về sắt tăng lên đáng kể, do đó việc đáp ứng các nhu cầu về sắt của vị thành niên là vô cùng quan trọng [3]. Một chế độ ăn uống thiếu khoa học, không lành mạnh và hiểu biết không đầy đủ về dinh dưỡng là nguyên nhân chính gây ra thiếu vi chất dinh dưỡng cũng như thiếu máu ở nữ vị thành niên [4]. Thiếu vi chất dinh dưỡng và suy dinh dưỡng thấp còi là nguyên nhân chính dẫn đến chiều cao thấp ở thanh niên nước ta. Thiếu vi chất dinh dưỡng còn ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tới sự phát triển thể lực, tầm vóc, trí tuệ, cản trở sự tăng trưởng và phát triển toàn diện của trẻ em và khả năng sinh sản cũng như năng suất lao động khi trưởng thành [5]. Theo một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở nữ vị thành niên một số nước đang phát triển vẫn còn cao: Ấn Độ 45%, Indonesia 26%, Brazil 20%, Jamaica 25% và tỷ lệ này thấp hơn ở một số nước phát triển: ở Mỹ 16%, ở Thụy Sĩ 14,5%, ở các nước châu Âu khác như Tây Ban Nha, Thụy Điển và Anh là khoảng 4,0% [3]. Ngoài thiếu máu thiếu sắt, tỷ lệ thiếu các vi chất khác ở nữ vị thành niên như kẽm, iod, vitamin A, D, B1, B9 cũng khá phổ biến. Thiếu vitamin A ảnh hưởng tiêu cực đến các quá trình quan trọng của cơ thể con người trong suốt vòng đời như: chậm sự tăng trưởng, suy giảm hệ thống miễn dịch, làm thiếu máu càng trầm trọng hơn và là nguyên nhân hàng đầu gây suy giảm thị lực [6]. Ở Việt Nam, tỷ lệ thiếu máu, thiếu vi chất dinh dưỡng vẫn là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng (YNSKCĐ). Tỷ lệ trẻ em 15 - 19 tuổi bị thiếu máu là 28%. Tỷ lệ thiếu folate là 2,7%, thiếu folate giới hạn là 25,1%. Tỷ lệ thiếu kẽm ở phụ nữ tuổi sinh đẻ là 63,6%, cao ở mức YNSKCĐ [7]. Cuộc điều tra toàn quốc năm 2015, tỷ lệ thiếu máu phổ biến ở tất cả các vùng trong cả nước, tỷ lệ thiếu máu cao ở cả phụ nữ không có thai (25,5%), phụ nữ có thai (32,8%) và trẻ em (27,8%) [8]. Đặc biệt, kết quả điều tra từ các nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng cũng đã chỉ ra rằng thực trạng dinh dưỡng và sức khỏe ở vùng miền núi là đáng lo ngại với tỷ lệ suy dinh dưỡng và thiếu vi chất luôn cao hơn nhiều so với ở nông thôn và thành thị. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy hiệu quả bổ sung vi chất dinh dưỡng không chỉ cải thiện tình trạng dinh dưỡng cũng như tình trạng thiếu vi chất, cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt khi bổ sung sắt đơn lẻ hoặc kết hợp với các vi chất khác làm tăng nồng độ hemoglobin trong máu hoặc cải thiện các chỉ số sinh hóa trong huyết thanh về vi chất được bổ sung, mà còn cải thiện tình trạng nhận thức, gia tăng phát triển về thể lực của trẻ em và trẻ vị thành niên. Bổ sung sắt/acid folic gián đoạn được khuyến cáo như là một can thiệp y tế cộng đồng cho phụ nữ tuổi sinh đẻ ở những vùng có tỷ lệ thiếu máu cao với mục đích cải thiện nồng độ hemoglobin, cải thiện tình trạng sắt và giảm nguy cơ thiếu máu [9]. Việc bổ sung sắt ở trẻ cải thiện sự phát triển thần kinh, thể lực và bổ sung sắt dự phòng cũng có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của vận động [10]. Thiếu vi chất dinh dưỡng thường không xảy ra riêng lẻ, do vậy ngoài bổ sung sắt để phòng chống thiếu máu thiếu sắt, bổ sung kết hợp đa vi chất dinh dưỡng ở vị thành niên giúp cải thiện tình trạng vi chất dinh dưỡng, tăng cường khả năng vận động thể lực và sức bền thể lực. Đối với sự tăng trưởng, chức năng nhận thức, vận động và bệnh tật, dường như việc cung cấp đủ khẩu phần vi chất dinh dưỡng đặc biệt cho những nhóm trẻ dễ bị tổn thương và thiếu hụt nhất có thể tạo ra sự khác biệt [2, 11]. Các nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng và can thiệp dinh dưỡng trên đối tượng nữ vị thành niên rất đa dạng về độ tuổi. Càng thêm nhiều nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng cũng như can thiệp dinh dưỡng đặc hiệu cho đối tượng nữ vị thành niên để cung cấp thêm bằng chứng khoa học giúp càng đưa ra các giải pháp hữu hiệu trong phòng chống suy dinh dưỡng, béo phì cũng như thiếu vi chất dinh dưỡng ở nữ vị thành niên trên thế giới, đặc biệt là các nước có thu nhập trung bình và thu nhập thấp [12]. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu tiến hành đề tài: “Hiệu quả bổ sung đa vi chất đến tình trạng dinh dưỡng, thị lực và thể lực của nữ vị thành niên 15 - 17 tuổi miền núi Thanh Hóa” nhằm đánh giá hiệu quả can thiệp bổ sung đa vi chất trên đối tượng nữ vị thành niên và đưa ra những khuyến nghị can thiệp bổ sung đa vi chất để phòng, chống tình trạng thiếu máu, thiếu vi chất dinh dưỡng ở đối tượng nữ vị thành niên. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI 1. Mô tả tình trạng dinh dưỡng, thị lực và thể lực của nữ vị thành niên 15 – 17 tuổi miền núi Thanh Hóa. 2. Đánh giá hiệu quả bổ sung đa vi chất hàng tuần đến cải thiện nhân trắc, thị lực và thể lực của nữ vị thành niên 15 – 17 tuổi miền núi Thanh Hóa sau 9 tháng can thiệp. 3. Đánh giá hiệu quả bổ sung đa vi chất hàng tuần đến cải thiện nồng độ hemoglobin và vi chất của nữ vị thành niên 15 – 17 tuổi miền núi Thanh Hóa sau 9 tháng can thiệp.
TỔNG QUAN
Một số khái niệm liên quan
Vị thành niên là giai đoạn quan trọng trong cuộc đời, kéo dài từ 10 đến 19 tuổi, đánh dấu sự chuyển tiếp giữa thời thơ ấu và tuổi trưởng thành Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), đây là lứa tuổi cần được chú trọng để phát triển toàn diện.
(1998) xếp vào nhóm tuổi vị thành niên và được phân định thành 3 giai đoạn (hoặc 3 nhóm): Vị thành niên sớm: từ 10 - 14 tuổi; Vị thành niên trung bình: từ 15 - 17 tuổi;
Vị thành niên muộn, từ 18 đến 19 tuổi, là giai đoạn phát triển quan trọng về thể chất, nhận thức và tâm lý xã hội Đây là thời điểm then chốt để xây dựng nền tảng cho sức khỏe tốt trong tương lai Hiện nay, có khoảng 1,2 tỷ vị thành niên trên toàn cầu, chiếm 1/6 dân số thế giới, tạo nên nhóm dân số lớn nhất từ trước đến nay.
Theo Tổng cục Dân số, Việt Nam có khoảng 17 triệu trẻ em trong độ tuổi 10 - 19, chiếm khoảng 17% tổng dân số 98,2 triệu người vào năm 2021 Trong đó, số trẻ em từ 15 - 17 tuổi ước tính khoảng 6 triệu.
Tuổi vị thành niên là giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng, với khối lượng xương tăng lên 45% và chiều cao cũng gia tăng đáng kể trong thời kỳ này.
Trong giai đoạn phát triển, cơ thể tích lũy khoảng 15 - 25% tổng chiều cao khi trưởng thành, với tổng khối lượng xương có thể đạt đến 37% ở độ tuổi này Do đó, nhu cầu dinh dưỡng ở lứa tuổi thanh thiếu niên là rất lớn Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đầu tư vào sức khỏe vị thành niên mang lại lợi ích gấp ba lần, bao gồm: sức khỏe trong thời kỳ thanh thiếu niên, sức khỏe trong giai đoạn trưởng thành sau này thông qua việc ngăn ngừa các yếu tố nguy cơ bệnh mạn tính, và sức khỏe của thế hệ tương lai với những đứa trẻ khỏe mạnh được sinh ra từ những người phụ nữ khỏe mạnh.
Thị lực đóng vai trò quan trọng trong chức năng thị giác, bao gồm khả năng phân biệt ánh sáng và không gian Trong lâm sàng, thị lực được hiểu là lực phân giải tối thiểu, tức là khả năng của mắt phân biệt hai điểm riêng biệt khi chúng ở rất gần nhau.
Khám thị lực là một yếu tố thiết yếu trong nhãn khoa, giúp đánh giá chức năng của tế bào nón tại vùng hoàng điểm của võng mạc Việc đánh giá thị lực cần bao gồm cả thị lực xa và gần, vì chúng thường tương đương nhau Tuy nhiên, một số tình trạng như lão thị, viễn thị không được chỉnh kính, hoặc bệnh đục thể thủy tinh có thể làm giảm thị lực gần mà không ảnh hưởng đến thị lực xa Độ tương phản, được tạo ra bởi sự khác biệt về độ sáng giữa hai bề mặt, đóng vai trò quan trọng trong thị giác, ảnh hưởng đến khả năng phân biệt kích thích trong quá trình nhận thức hình ảnh Độ tương phản giúp làm rõ hình ảnh trên võng mạc, với tỷ lệ tương phản là tỷ số giữa độ sáng của màu sáng nhất và màu tối nhất.
Thị lực tương phản là khả năng phân biệt vật thể trên nền của nó, được tính bằng nghịch đảo của ngưỡng tương phản Người có ngưỡng tương phản thấp sẽ có thị lực tương phản cao và ngược lại Thị lực tương phản phát sinh từ sự chênh lệch độ chiếu sáng, trong đó vùng võng mạc được chiếu sáng mạnh có ảnh hưởng tích cực đến vùng chiếu sáng yếu hơn, hoặc ngược lại Sự chênh lệch độ sáng trên võng mạc có thể xảy ra đồng thời (đồng tương phản) hoặc theo thứ tự (tiếp tương phản).
Sắc giác là chức năng thị giác giúp con người nhận biết các bước sóng ánh sáng trong quang phổ, cho phép phân biệt màu sắc nhờ sự tương tác của hàng tỷ tế bào thần kinh trên vỏ não Quá trình này bắt đầu khi ánh sáng tác động lên võng mạc, sau đó được mã hóa và truyền lên vỏ não để phân tích và tái cấu trúc màu sắc Rối loạn sắc giác, hay còn gọi là mù màu, là tình trạng không thể phân biệt một số màu sắc, với mắt bình thường có khả năng nhận biết bảy màu sắc cơ bản Rối loạn sắc giác được chia thành hai mức độ: khuyết sắc (không phân biệt được một số màu) và mù màu (không phân biệt được các màu) Khuyết sắc có thể bao gồm việc không phân biệt được giữa màu lục và màu đỏ, hoặc giữa màu xanh da trời và màu vàng.
Tố chất thể lực của con người là sự tổng hòa các phẩm chất cơ thể, thể hiện trong các hoạt động sống, lao động, học tập và thể dục thể thao Khả năng vận động là biểu hiện bên ngoài của tố chất thể lực, trong khi thể dục thể thao là phương tiện cải thiện khả năng này thông qua các bài tập Các yếu tố như trạng thái chức năng của hệ thần kinh, chất lượng cơ quan vận động và chức năng cung cấp năng lượng ảnh hưởng mạnh mẽ đến tố chất thể lực Hoạt động thể lực giúp phát triển nhiều khía cạnh của năng lực vận động, được gọi là tố chất vận động Sự thay đổi của các tố chất thể lực diễn ra theo sự phát triển hình thái và chức năng, và có sự khác biệt theo lứa tuổi, giới tính, cũng như tính chu kỳ và giai đoạn Trong quá trình trưởng thành, sự phát triển của các tố chất thể lực không đồng bộ, mỗi tố chất phát triển với nhịp độ riêng và ở từng giai đoạn khác nhau, bao gồm sức mạnh, sức nhanh, sức bền, độ mềm dẻo và sự khéo léo.
Sức mạnh là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài thông qua nỗ lực của cơ bắp, có thể hoạt động trong ba chế độ: tĩnh, khắc phục và nhượng bộ Trong mọi hoạt động của con người, cơ bắp luôn tham gia sinh ra lực, từ đó phân biệt các loại sức mạnh Trong thể thao, sức mạnh liên quan chặt chẽ đến các tố chất thể lực khác như sức nhanh và sức bền Sức bền là khả năng duy trì hoạt động với cường độ nhất định trong thời gian dài, giúp người tập luyện đạt được tốc độ, lực và nhịp độ ổn định Nó cũng đảm bảo chất lượng động tác và khả năng thực hiện các hành vi động tác phức tạp, vượt qua khối lượng vận động lớn trong quá trình tập luyện chuyên môn.
Vai trò của vi chất dinh dưỡng
1.2.1 Vai trò của vi chất dinh dưỡng đối với thiếu máu và sự phát triển cơ thể của nữ vị thành niên
Vi chất dinh dưỡng (VCDD) bao gồm các vitamin và khoáng chất thiết yếu cho sự trao đổi chất, tăng trưởng và phát triển thể lực, mặc dù cơ thể chỉ cần một lượng nhỏ Thiếu hụt VCDD có thể gây ra những tác động nghiêm trọng đến sức khỏe Có ít nhất 30 loại VCDD cần thiết mà cơ thể không tự sản xuất, bao gồm các vitamin (A, B, C, D, E, K) và khoáng chất (canxi, sắt, kẽm, iốt, đồng, mangan, magiê, selen) VCDD đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc mô, hệ thống enzyme, cân bằng nội môi, chức năng tế bào và dẫn truyền thần kinh, đồng thời tham gia vào các hoạt động như hô hấp, chuyển hóa, bài tiết, hệ miễn dịch và phục hồi tế bào, mô tổn thương, cũng như là thành phần chính để sản xuất hormone và chất nội tiết.
Sắt là một khoáng chất quan trọng, đóng vai trò thiết yếu trong cấu trúc của hemoglobin, myoglobin, enzyme và cytochrome, giúp vận chuyển oxy và hỗ trợ quá trình hô hấp tế bào Khoảng 65% lượng sắt trong cơ thể được lưu trữ trong các protein này, cho thấy tầm quan trọng của sắt đối với sức khỏe và chức năng sinh lý.
Hemoglobin (Hb) chứa 4% sắt trong myoglobin và 0,1% gắn với transferrin trong huyết tương Khoảng 15 đến 30% sắt được dự trữ trong hệ thống liên võng nội mô và các tế bào nhu mô của gan dưới dạng ferritin Sắt, kết hợp với protein, tạo thành huyết sắc tố, đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển oxy.
Sắt đóng vai trò quan trọng trong quá trình biệt hóa hồng cầu từ tế bào non trong tủy xương Khi hồng cầu chết, sắt sẽ được lưu trữ dưới dạng ferritin và hemosiderin tại gan và lách, sau đó được chuyển đến tủy xương để sản xuất hồng cầu mới.
Sắt là yếu tố thiết yếu cho chức năng hệ thần kinh, giúp tổng hợp chất dẫn truyền thần kinh, chuyển hóa và tăng cường hệ miễn dịch, đồng thời bảo vệ xương Thiếu sắt trong giai đoạn học đường và vị thành niên có thể làm giảm lượng sắt dự trữ trong não, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tế bào thần kinh Thiếu máu do thiếu sắt khiến trẻ em trở nên chậm chạp, kém phát triển về tinh thần vận động, chậm nhận thức, giảm trí nhớ và khả năng tập trung, từ đó ảnh hưởng đến chức năng nhận thức, khả năng học tập và phát triển thể lực Hơn nữa, tình trạng thiếu máu còn dẫn đến sự phát triển thể chất chậm lại, giảm khả năng miễn dịch, dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn, và khi trưởng thành, khả năng làm việc cũng bị hạn chế, làm giảm năng suất lao động, ngay cả khi cơ thể chưa biểu hiện rõ triệu chứng thiếu máu.
Nghiên cứu trên động vật và con người đã chỉ ra rằng thiếu sắt có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển, nhận thức, hành vi và sinh lý thần kinh Thiếu sắt ảnh hưởng đến trao đổi chất của não, chức năng dẫn truyền thần kinh và hình thành myelin Bổ sung sắt cho trẻ em không chỉ cải thiện sự phát triển thần kinh mà còn nâng cao thể lực, đồng thời việc bổ sung sắt dự phòng cho trẻ được nuôi dưỡng tốt cũng mang lại lợi ích tích cực cho sự phát triển vận động.
Kẽm là khoáng chất thiết yếu cho chức năng tăng trưởng, miễn dịch và sinh sản, đóng vai trò quan trọng trong việc tổng hợp protein và chuyển hóa glucid, giúp cơ thể tạo ra năng lượng và hình thành các tổ chức Nó không chỉ thúc đẩy sự tăng trưởng và phân chia tế bào mà còn tăng cường cảm giác ngon miệng Kẽm cũng hỗ trợ hệ thống miễn dịch, bảo vệ cơ thể khỏi bệnh tật và giúp vết thương mau lành Thiếu kẽm, trẻ em có thể gặp tình trạng biếng ăn, thấp còi, chậm lớn và dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn.
Kẽm huyết thanh thấp là yếu tố nguy cơ độc lập gây thiếu máu ở trẻ em, cần xem xét sự thiếu hụt nhiều vi chất dinh dưỡng khác ngoài sắt như kẽm, selen, và vitamin D Kẽm đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và chức năng sinh dục ở tuổi vị thành niên, đặc biệt là ở nữ giới do nhu cầu kẽm tăng cao trong giai đoạn dậy thì Thiếu kẽm có thể dẫn đến nhiều rối loạn như suy giảm tăng trưởng, yếu tố miễn dịch, viêm da, tiêu chảy, và chậm trưởng thành xương Đồng cũng cần thiết cho sự phát triển toàn diện, giúp duy trì sức khỏe tim mạch, chức năng phổi, và chuyển hóa sắt Thiếu đồng có thể gây ra các vấn đề về mô liên kết, rối loạn chức năng thần kinh trung ương và miễn dịch, đồng thời có mối liên hệ chặt chẽ với sắt trong trường hợp thiếu máu dinh dưỡng.
Selen đóng vai trò quan trọng trong cơ thể, chủ yếu là hoạt động chống oxy hóa, giúp bảo vệ tế bào khỏi các gốc tự do Ngoài ra, selen còn cần thiết cho việc kiểm soát chức năng tuyến giáp và giảm thiểu các rối loạn miễn dịch Nó tăng cường số lượng bạch cầu trong máu, từ đó hỗ trợ cơ thể chống lại nhiễm khuẩn và bệnh tật Thêm vào đó, selen cũng có vai trò trong việc phòng ngừa thiếu máu.
Vitamin A đóng vai trò quan trọng trong cơ thể, bao gồm hỗ trợ thị lực, biệt hóa tế bào, chức năng miễn dịch, sinh sản, và sự phát triển của cơ quan và xương Nó giúp duy trì sức khỏe cho da và niêm mạc, ngăn ngừa nhiễm khuẩn Trong cơ thể, vitamin A tồn tại chủ yếu dưới ba dạng: retinol, retinal và acid retinoic, trong đó retinol và retinal cần thiết cho thị giác, sinh sản, và chức năng miễn dịch Acid retinoic hỗ trợ phát triển, phân bào, và tổng hợp protein, cũng như trưởng thành của tế bào và hồng cầu Ngoài ra, vitamin A còn giúp tăng nồng độ hemoglobin (Hb) trong máu khi kết hợp với vitamin C, E và B9.
Thiếu vitamin A gây giảm sút thị lực, khô mắt, và là nguyên nhân chính dẫn đến mù lòa Nó cũng làm chậm phát triển thể lực, giảm khả năng miễn dịch và tăng nguy cơ tử vong Khi thiếu vitamin A, các quá trình quan trọng như phát triển tế bào, thị lực, tăng trưởng và trao đổi chất không diễn ra bình thường và thiếu hỗ trợ cần thiết.
Thiếu vitamin A có thể gây rối loạn chuyển hóa sắt, dẫn đến giảm hàm lượng hemoglobin trong cơ thể Nghiên cứu cho thấy việc bổ sung vitamin A, đặc biệt khi kết hợp với kẽm và sắt, giúp giảm tỷ lệ thiếu máu trong cộng đồng Vitamin A không chỉ hỗ trợ hấp thụ và chuyển hóa sắt để ngăn ngừa thiếu máu mà còn đóng vai trò quan trọng trong các phản ứng miễn dịch của niêm mạc, điều chỉnh chức năng của các tế bào T điều hòa.
Vitamin B1, B2, B3 và B8 là những thành phần thiết yếu của các enzym oxydase, đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất liên quan đến carbohydrate, axit amin và lipid Chúng cũng giúp chuyển đổi axit folic và vitamin B6 thành dạng coenzyme hoạt động, ảnh hưởng đến việc hấp thụ, lưu trữ và sử dụng sắt trong cơ thể Thiếu hụt các vitamin này có thể dẫn đến nhiều bất thường lâm sàng như rối loạn thần kinh, tim mạch, chuyển hóa năng lượng, tiêu hóa, tăng sinh tế bào, thiếu máu, cũng như gây tổn thương cho da, niêm mạc, cơ quan thị giác, mệt mỏi và giảm khả năng làm việc.
Vitamin B6 là một đồng yếu tố quan trọng trong các phản ứng trao đổi chất liên quan đến carbohydrate, protein và lipid Nó không chỉ tham gia vào tổng hợp hem của hồng cầu mà còn hỗ trợ hoạt động của các hormon steroid, duy trì lượng đường trong máu ổn định, bảo vệ sức khỏe tim mạch, tăng cường hệ miễn dịch và duy trì chức năng não Thiếu vitamin B6 có thể dẫn đến các rối loạn chuyển hóa protein, gây ra chậm phát triển, rối loạn thần kinh, co giật, thiếu máu, giảm khả năng tạo kháng thể và tổn thương da.
Folate là một loại vitamin quan trọng, đóng vai trò thiết yếu trong việc hình thành nhân hem của hemoglobin và hỗ trợ phát triển, phân chia tế bào Đây là thành phần trung tâm trong quá trình tạo hồng cầu, cùng với sắt và vitamin B12 Thiếu folate có thể dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, từ thiếu máu nguyên bào khổng lồ đến sự chậm phát triển, kéo dài quá trình phân chia tế bào, đình trệ sự trưởng thành của tế bào phôi và các khuyết tật bẩm sinh như khuyết tật ống thần kinh Đặc biệt, thiếu folate trong thai kỳ có liên quan đến nguy cơ sinh con nhẹ cân, sinh non và thai nhi chậm phát triển.
Tình trạng dinh dưỡng của nữ vị thành niên
1.3.1 Tình trạng dinh dưỡng của nữ vị thành niên trên thế giới
Tuổi vị thành niên là giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của con người, đánh dấu sự chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, đặc biệt ở nữ giới Thời kỳ này không chỉ chứng kiến những thay đổi sinh học mà còn cả sự phát triển tâm lý, tình cảm và văn hóa xã hội Hiện nay, nhiều quốc gia có thu nhập thấp và trung bình đang phải đối mặt với vấn đề dinh dưỡng kép, khi tỷ lệ béo phì gia tăng song song với tình trạng suy dinh dưỡng và thấp còi vẫn còn cao, cùng với sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng khác.
Suy dinh dưỡng ở tuổi vị thành niên là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng tại các quốc gia Đông Nam Á và Châu Phi Tại Châu Phi, khoảng 22% trẻ em trong độ tuổi học đường bị thấp còi và 36% gầy còm, trong khi đó, tại Đông Nam Á, tỷ lệ này lần lượt là 29% và 34%.
Một nghiên cứu cắt ngang tại Dibrugarh, Assam, Ấn Độ, đã khảo sát 300 nữ vị thành niên từ 15–19 tuổi trong giai đoạn từ tháng 6 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015, cho thấy tỷ lệ gầy và thấp còi lần lượt là 39,4% và 33% Tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm theo độ tuổi, trong khi tỷ lệ gầy giảm khi điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ học vấn tăng lên Tương tự, tại một số vùng nông thôn Nigeria, tỷ lệ trẻ em tuổi học đường bị suy dinh dưỡng là 36%, với 44% thiếu cân, 37% thấp còi và 19,3% gầy còm.
Theo khảo sát sức khỏe và dân số học tại Colombia, trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi đang phải đối mặt với gánh nặng kép do sự chênh lệch kinh tế xã hội Cụ thể, những trẻ sống trong các hộ gia đình nghèo nhất có nguy cơ bị thấp còi cao gấp năm lần so với những trẻ trong hộ giàu nhất, trong khi nguy cơ thừa cân ở nhóm hộ giàu cao gấp 1,3-2,8 lần.
Tại Peru, trẻ em và thanh thiếu niên bản địa Amazon đang đối mặt với tình trạng sức khỏe nghiêm trọng, với tỷ lệ thiếu máu đạt 51,0%, thấp còi 50% và thiếu cân 20,0% Thiếu máu chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em từ 0 đến 5 tuổi, trong khi tình trạng thấp còi phổ biến hơn ở nhóm tuổi từ 12 đến 17.
Một nghiên cứu tại Kampala, Uganda, đã khảo sát nữ vị thành niên từ 10–19 tuổi, cho thấy 18,6% trong số họ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi, trong khi cũng có 18,6% bị thừa cân hoặc béo phì Nghiên cứu dựa trên đánh giá chiều cao, cân nặng, thành phần cơ thể và chế độ ăn uống thông qua bảng hỏi tần suất thức ăn, tính điểm đa dạng chế độ ăn và khẩu phần 24 giờ Kết quả cho thấy các nữ vị thành niên này có nguy cơ không hấp thụ đủ vitamin và khoáng chất thiết yếu, đặc biệt là vitamin A, B12, C, D, E, canxi và axit béo thiết yếu.
Nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em và thanh thiếu niên từ 7-18 tuổi ở 31 tỉnh Trung Quốc trong giai đoạn 2005-2014 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng đã giảm, nhưng vẫn còn cao Cụ thể, từ năm 1995 đến 2014, tỷ lệ trẻ thấp còi giảm từ 8,1% xuống 2,4%, và tỷ lệ gầy còm giảm từ 7,5% xuống 4,1% Ngược lại, tỷ lệ thừa cân và béo phì tăng đáng kể từ 5,3% lên 20,5% Đặc biệt, vào năm 2014, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và thanh thiếu niên dân tộc thiểu số Hán trong độ tuổi này là 10,0%.
Một nghiên cứu về dân tộc Wa ở Vân Nam, Trung Quốc đã chỉ ra rằng tỷ lệ chậm phát triển ở trẻ gái từ 7-18 tuổi lần lượt vào các năm 2005, 2010 và 2014 là 42,03%, 47,41% và 33,06% Tỷ lệ gầy còm trong cùng thời gian là 0,91%, 0,68% và 0,83%, trong khi tỷ lệ suy dinh dưỡng là 46,13%, 49,77% và 35,56%.
Tỷ lệ thấp còi và gầy còm của trẻ em và thanh thiếu niên Tây Tạng trong độ tuổi 7-18 đã giảm dần từ năm 1995 đến 2010 Cụ thể, tỷ lệ thấp còi ở bé trai và bé gái trong giai đoạn dậy thì sớm cao hơn so với dậy thì muộn, với tỷ lệ lần lượt là 36,1% và 23,1% vào năm 1995, giảm xuống còn 18,7% và 18,5% vào năm 2010 Đặc biệt, tỷ lệ thấp còi ở trẻ gái 7-11 tuổi đạt 53,1%, trong khi trẻ gái từ 12-18 tuổi là 46,9%.
Nghiên cứu cắt ngang về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em và thanh thiếu niên tại một thị trấn ở vùng bán sơn địa Đông Bắc Brazil cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng cao nhất ở nhóm học sinh trên 15 tuổi với 20,7%, tiếp theo là nhóm từ 10 đến 15 tuổi với 11,1% Đặc biệt, trong nhóm thanh thiếu niên từ 15-19 tuổi, tỷ lệ thấp còi đạt 20,7%, trong khi tỷ lệ thừa cân và béo phì lên tới 34,5%.
Năm 2017, tại vùng nông thôn Ai Cập, tỷ lệ trẻ em từ 6-17 tuổi bị thấp còi, nhẹ cân và gầy còm lần lượt là 34,2%, 3,4% và 0,9% Một khảo sát ở Ethiopia năm 2016 cho thấy trong số 2.733 thanh thiếu niên từ 15-19 tuổi, có 410 trường hợp bị suy dinh dưỡng thể thấp còi, chiếm 15%, trong đó 353 trường hợp (12,9%) là thấp còi trung bình và 57 trường hợp (2,2%) là thấp còi nặng Tại Ả Rập Xê Út, tình trạng nhẹ cân cũng phổ biến, với 18% nam giới và 12,4% nữ giới trong số 12.463 thanh thiếu niên tham gia khảo sát bị thiếu cân, tổng cộng chiếm 14,9% số vị thành niên.
Béo phì đang trở thành vấn đề phổ biến ở trẻ em và thanh thiếu niên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe trong tương lai Sự kết hợp giữa lối sống ít vận động và chế độ ăn uống dư thừa năng lượng đã làm gia tăng tỷ lệ béo phì Trong hai thập kỷ qua, số lượng trẻ em và thanh thiếu niên thừa cân đã tăng đáng kể trên toàn cầu, đặc biệt là ở Brazil, nơi có sự gia tăng rõ rệt giữa năm 1975 và 2010 trong nhóm tuổi này.
Từ 10 đến 19 tuổi, tỷ lệ thừa cân ở trẻ em trai tăng từ 3,7% đến 21,7% và ở trẻ em gái từ 7,6% đến 19% Dữ liệu từ Viện Địa lý và thống kê Brazil năm 2010 cho thấy 34,8% trẻ em trai và 32% trẻ em gái bị thừa cân, trong khi tỷ lệ béo phì là 16,6% ở trẻ em trai và 11,8% ở trẻ em gái Nam vị thành niên có tỷ lệ thừa cân và béo phì cao hơn (28,4%) so với nữ vị thành niên (17,1%) Nghiên cứu năm 2015 về tình trạng dinh dưỡng của thanh thiếu niên Brazil chỉ ra rằng tỷ lệ thừa cân là 32,3% và tỷ lệ béo phì là 12,9%.
1.3.2 Tình trạng dinh dưỡng của nữ vị thành niên ở Việt Nam
Nghiên cứu của Trần Thị Lụa cho thấy tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của nữ vị thành niên, đặc biệt là ở vùng nông thôn và miền núi, đang gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng Cụ thể, học sinh nữ tại Hà Nội có cân nặng và chiều cao trung bình cao hơn so với các bạn cùng tuổi ở Bắc Ninh, với tỷ lệ học sinh gầy còm ở thành phố chỉ là 5,9%, trong khi ở nông thôn lên tới 15,4% Tỷ lệ thấp còi ở thành phố là 14,2%, trong khi ở nông thôn là 39%, và tỷ lệ thừa cân ở thành phố là 5,1%, còn ở nông thôn chỉ là 0,1%.
Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện vào tháng 12/2007 trên học sinh từ 11-17 tuổi tại Thái Nguyên đã chỉ ra rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở nữ giới từ 15-17 tuổi vẫn còn cao Cụ thể, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở nữ vị thành niên 15 và 16 tuổi đáng chú ý.
17 tuổi tương ứng là 26,0%, 29,7% và 25,8% Tỷ lệ zscore < -2SD của nữ vị thành niên 15, 16, 17 tuổi tương ứng là 9,6%, 5,7% và 3,3% [65]
Tình hình thiếu máu, thiếu vi chất dinh dưỡng của nữ vị thành niên
1.4.1 Tình hình thiếu máu, thiếu vi chất dinh dưỡng của nữ vị thành niên trên thế giới
Trên toàn cầu, 20 quốc gia có tỷ lệ thấp còi và thiếu máu do thiếu vi chất dinh dưỡng cao nhất, trong đó 18 quốc gia nằm ở khu vực châu Phi cận Sahara, cùng với Ấn Độ và một quốc gia khác.
Afghanistan, nằm ở châu Á, có tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn so với các nước Nam Á và Đông Nam Á, nhưng vẫn ở mức độ nghiêm trọng Trong khi đó, các nước Nam Mỹ ghi nhận mức độ mắc bệnh từ nhẹ đến trung bình, và phần lớn các nước châu Âu có tỷ lệ thấp Đặc biệt, trẻ nhỏ và phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại các quốc gia thu nhập thấp là những đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất.
Trên toàn cầu, tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là ở châu Phi cận Sahara và nhiều quốc gia ở Nam-Trung/Đông Nam Á, trong khi hầu hết các nước Nam Mỹ chỉ gặp phải mức độ thiếu từ nhẹ đến trung bình Đáng chú ý, tỷ lệ thiếu sắt ở trẻ em trong độ tuổi đi học không phản ánh đúng mức độ thiếu vi chất dinh dưỡng nói chung; ví dụ, Cộng hòa Dân chủ Congo và Liberia có tỷ lệ thiếu vi chất dinh dưỡng cao nhưng tỷ lệ thiếu sắt lại thấp, chỉ 1,5% và 3,5% Ngược lại, Latvia, Liên Bang Nga, Estonia và Malaysia mặc dù có tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng nhẹ nhưng lại có tỷ lệ thiếu sắt cao, lần lượt là 76,8%, 58,6%, 67,0% và 48,2%.
Thiếu máu thiếu sắt hiện vẫn là một vấn đề nghiêm trọng trên toàn cầu, đặc biệt ở độ tuổi vị thành niên khi nhu cầu sắt tăng lên từ 0,7 - 0,9 mg/ngày ở tiền vị thành niên lên đến 2,2 mg/ngày Sự gia tăng này là do sự phát triển trong giai đoạn dậy thì, bao gồm tăng tổng lượng máu và khối cơ, cùng với việc bắt đầu có kinh nguyệt ở nữ giới Nhu cầu sắt ở nữ giới tiếp tục cao sau khi có kinh do mất máu, với mức tăng trung bình khoảng 20 mg/tháng, có thể lên tới 58 mg/tháng tùy theo từng cá nhân Ở các nước đang phát triển, tình trạng nhiễm ký sinh trùng và bệnh truyền nhiễm gia tăng cũng làm tăng nhu cầu sắt Chế độ ăn uống kém trong thời thơ ấu và việc bắt đầu có kinh nguyệt sớm có thể dẫn đến cạn kiệt dự trữ sắt Nhiều thanh thiếu niên, đặc biệt là nữ giới, chỉ tiêu thụ từ 10 - 11 mg sắt/ngày, dẫn đến chỉ khoảng 1 mg sắt được hấp thu Tình trạng này trở nên nghiêm trọng hơn khi thanh thiếu niên thường xuyên tiếp xúc với nhiễm khuẩn, làm việc nặng, tăng cường hoạt động thể chất, hoặc mang thai sớm Thiếu hụt sắt xảy ra khi lượng sắt tiêu thụ không đủ đáp ứng nhu cầu, do chế độ ăn uống đơn điệu, hấp thu kém hoặc mất sinh lý liên quan đến xuất huyết và bệnh lý.
Thiếu máu, chủ yếu do thiếu sắt, cũng có thể xuất phát từ sự thiếu hụt folate, vitamin B12 và protein Tình trạng này rất phổ biến và nghiêm trọng ở trẻ em dưới 8 tuổi và thanh thiếu niên trên 15 tuổi tại các nước vùng hạ Sahara Châu Phi, nơi nhu cầu sắt cao nhất Nữ vị thành niên, đặc biệt ở Tây Phi, Trung Phi và Nam Á, thường kết hôn và mang thai ở độ tuổi sớm, làm tăng nguy cơ tử vong và biến chứng trong thai kỳ Tỷ lệ thiếu máu ở nữ thanh niên từ 15-19 tuổi tại một số quốc gia rất cao, với tỷ lệ thiếu máu ở vùng nông thôn Nigeria lên tới 38,6%.
Tỷ lệ thiếu sắt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi tác, giới tính, tình trạng sinh lý và bệnh lý, cũng như môi trường và điều kiện kinh tế xã hội ở từng khu vực Đặc biệt, trẻ em ở lứa tuổi tiền học đường và phụ nữ mang thai tại các nước nghèo và đang phát triển là những nhóm có nguy cơ cao, với ít nhất 30% bị ảnh hưởng bởi tình trạng này.
40 % phụ nữ và trẻ em ở các nước công nghiệp phát triển bị thiếu sắt [79].
Thiếu máu thiếu sắt thường gặp ở trẻ em gái trong độ tuổi dậy thì và thanh thiếu niên, đặc biệt khi bắt đầu có kinh nguyệt Việc bổ sung chất sắt là cần thiết để bù đắp cho sự mất sắt tự nhiên trong giai đoạn này Nếu nhu cầu sắt theo trọng lượng cơ thể không được đáp ứng, trẻ gái sẽ dễ mắc phải tình trạng thiếu máu thiếu sắt.
Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt cao nhất chủ yếu xuất hiện ở các nước đang phát triển, với Nepal đạt 68,8%, Pakistan 65%, Ấn Độ 53%, Sri Lanka 52,3%, Kazakhstan 50,1%, Indonesia 45%, Trung Quốc 37,9%, Marocco 35% và Philippines 31,8% Trong khi đó, Hàn Quốc có tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt thấp hơn, chỉ khoảng 15% Tại Tây Nam Ethiopia, tỷ lệ thiếu máu là 43,7%, trong đó tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em trong độ tuổi đi học là 37,4%.
Một đánh giá có hệ thống đã được thực hiện để xem xét tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (≥15-49 tuổi) ở Ethiopia, Kenya, Nigeria và Nam Phi từ năm 2005 đến 2015 Kết quả cho thấy tỷ lệ thiếu máu dao động từ 18-51%, thiếu sắt từ 9-18%, và tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt là 10% Ngoài ra, tỷ lệ thiếu hụt vitamin A, iốt, kẽm và folate lần lượt dao động từ 4-22%, 22-55%, 34% và 46%.
Theo báo cáo khảo sát sức khỏe và nhân khẩu học Ai Cập năm 2014, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em gái từ 5 đến 19 tuổi đạt 21%, với tỷ lệ cao nhất ở độ tuổi 12-14 là 25% và thấp nhất ở độ tuổi 10-11 là 14% Ngoài ra, nghiên cứu của Mousa S và cộng sự năm 2016 cho thấy trong số 912 nữ thanh thiếu niên tại 5 làng vùng cao, tỷ lệ thiếu máu đạt 39,9%, trong đó 30,2% mắc thiếu máu thiếu sắt và 11,4% thiếu sắt nhưng không có thiếu máu.
Tại Kenitra, vùng Tây Bắc Ma rốc, nghiên cứu của Achouri I và cộng sự (2015) cho thấy tỉ lệ thiếu máu ở học sinh từ 6 đến 15 tuổi là 16,2% Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trình độ học vấn của người mẹ có mối liên hệ thống kê đáng kể với tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em.
Thiếu máu thiếu sắt là một vấn đề dinh dưỡng phổ biến ở Iran, đặc biệt ở phụ nữ và trẻ em gái, với tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở nữ vị thành niên đạt 14-18% và thiếu dự trữ sắt 31% Mặc dù Bộ Y tế Iran đã triển khai chương trình bổ sung sắt miễn phí cho trẻ sơ sinh và trẻ em gái, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt vẫn còn cao, ước tính 13,9% cho trẻ dưới 18 tuổi và 26,9% cho toàn bộ trẻ em Đặc biệt, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở nữ dưới 18 tuổi là 8,5% Tại Bangladesh, tỷ lệ thiếu máu ở nữ vị thành niên cũng rất cao, dao động từ 20-43% tùy thuộc vào khu vực, với 43% ở nữ vị thành niên nông thôn và 20-40% ở thành thị.
18 tuổi) nông thôn Bangladesh cho thấy 28% nữ vị thành niên đã cạn kiệt, 25% bị thiếu axit folic, 89% thiếu vitamin B2 và 7% bị thiếu vitamin B12 [90].
Thiếu máu là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng tại Ấn Độ, đặc biệt ảnh hưởng đến trẻ em và thanh thiếu niên Một nghiên cứu năm 2020 đã chỉ ra rằng trong số 2740 thanh thiếu niên, có 861 (31,4%) bị thiếu máu do các nguyên nhân khác nhau, 703 (25,6%) do thiếu folate hoặc vitamin B12, và 584 (21,3%) do thiếu sắt Nghiên cứu này nhấn mạnh sự cần thiết phải hiểu rõ các nguyên nhân gây thiếu máu để có biện pháp can thiệp hiệu quả.
498 (18,2%) thiếu máu lưỡng hình và 94 (3,4%) bị thiếu máu do viêm [91].
Tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần ăn kém ở nữ vị thành niên Mozambique đang trở thành vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng Một nghiên cứu cắt ngang năm 2010 trên 551 nữ vị thành niên từ 14 đến 19 tuổi tại Trung Mozambique cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở những bé gái không mang thai lên tới 42,4% Ngoài ra, các chỉ số vi chất dinh dưỡng cũng đáng lo ngại: 27,4% có ferritin huyết thanh thấp, 32,7% thiếu kẽm huyết thanh, 14,7% có retinol huyết tương thấp và 4,1% thiếu folate huyết thanh Tình trạng này đặc biệt đáng báo động khi mà việc làm mẹ ở tuổi vị thành niên đang phổ biến trong khu vực.
Thiếu vitamin và khoáng chất dinh dưỡng (VCDD) đã trở thành một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng ở Trung Đông, đặc biệt tại các quốc gia như Afghanistan, Libya, Somalia, Sudan và Syria, nơi có tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và bà mẹ cao Những VCDD thường gặp phải thiếu hụt bao gồm i-ốt, sắt, kẽm, vitamin A, vitamin D và folate Tỷ lệ thiếu máu ở khu vực này được ghi nhận ở hầu hết các nhóm tuổi, đặc biệt là ở trẻ em, thanh thiếu niên và phụ nữ Ai Cập, với tỷ lệ lên tới 47% Tại Ả Rập Xê Út, tỷ lệ thiếu máu ở thanh niên từ 15–21 tuổi dao động từ 16% đến 34% với mức Hb dưới 12 g/dL Đáng chú ý, tỷ lệ thiếu vitamin D cao nhất được quan sát thấy ở trẻ em và thanh thiếu niên tại Lebanon, UAE và Ả Rập Xê Út, với tỷ lệ từ 45% đến 62%.
Các nghiên cứu can thiệp đánh giá hiệu quả bổ sung đa vi chất đến cải thiện tình trạng dinh dưỡng, thiếu máu, thiếu vi chất dinh dưỡng, thị lực và thể lực của nữ vị thành niên
1.5.1 Các nghiên cứu can thiệp đánh giá hiệu quả bổ sung đa vi chất trên thế giới
Vi chất dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa và duy trì chức năng mô Tuy nhiên, chế độ ăn hàng ngày và một số bệnh lý có thể dẫn đến thiếu hụt vi chất nghiêm trọng, làm suy giảm quá trình trao đổi chất Do đó, việc bổ sung đủ vi chất cho cơ thể là cần thiết, đặc biệt là đối với những người đang gặp tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng và có nguy cơ biến chứng.
Ngày nay, nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng việc bổ sung viên đa vi chất mang lại lợi ích vượt trội so với việc sử dụng các vi chất đơn lẻ cho nhiều đối tượng khác nhau Việc này không chỉ giúp cải thiện sức khỏe tổng thể mà còn tối ưu hóa hiệu quả hấp thụ dinh dưỡng.
Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị bổ sung sắt cho phụ nữ mang thai, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, vị thành niên, trẻ em và những người mới khỏi bệnh Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc can thiệp bằng cách bổ sung sắt, đơn lẻ hoặc kết hợp với các vi chất khác, có hiệu quả trong việc cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt, giúp tăng nồng độ hemoglobin trong máu và cải thiện các chỉ số sinh hóa vi chất trong huyết thanh.
Việc bổ sung vi chất như sắt, kẽm và vitamin A hiện nay rất quan trọng Tăng cường đa vi chất, đặc biệt là kẽm và sắt, không chỉ hỗ trợ sự phát triển mà còn giảm nguy cơ tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn phổ biến như tiêu chảy cấp và nhiễm khuẩn hô hấp.
Bổ sung sắt và acid folic trước khi mang thai là chiến lược quan trọng cho phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt là những người sống ở khu vực nghèo và không xác định được nguyên nhân thiếu máu Hành động này giúp giảm nguy cơ thiếu máu ngay từ giai đoạn đầu của thai kỳ.
Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược đã được thực hiện để đánh giá tác dụng của việc bổ sung đa vi chất dinh dưỡng và điều trị đa giun sán sau 8 tháng đối với nồng độ hemoglobin, sử dụng trường học như một hệ thống cung cấp dịch vụ y tế.
Nghiên cứu trên 977 trẻ em từ 9 đến 18 tuổi tại 19 trường học ở Quận Bondo, miền tây Kenya cho thấy rằng việc bổ sung viên đa vi chất dinh dưỡng kết hợp với điều trị giun sán đã làm tăng nồng độ hemoglobin (Hb) một cách độc lập ở nhóm học sinh can thiệp Các tác động này không phụ thuộc vào nồng độ Hb ban đầu và tình trạng dinh dưỡng chung của học sinh Kết quả cho thấy hiệu quả điều trị làm giảm mật độ nhiễm S mansoni và giun móc, với mức tăng Hb tương ứng là 0,4 và 0,2 g/l.
Nghiên cứu lâm sàng mù có đối chứng trên 200 nữ vị thành niên cho thấy việc bổ sung 50 mg sulfat sắt hai lần một tuần trong 16 tuần đã cải thiện đáng kể điểm chú ý và nồng độ hemoglobin Cụ thể, điểm chú ý trung bình của nhóm can thiệp đạt 104,8 ± 7,0 so với 52,7 ± 9,6 của nhóm chứng (p