tiểu luận BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI GIAO DỊCH DÂN SỰ Bộ môn Những quy định chung về luật dân sự,tài sản và thừa kế, đề tài BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI GIAO DỊCH DÂN SỰ Bộ môn Những quy định chung về luật dân sự,tài sản và thừa kế, bài báo cáo BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI GIAO DỊCH DÂN SỰ Bộ môn Những quy định chung về luật dân sự,tài sản và thừa kế, bài tập nhóm BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI GIAO DỊCH DÂN SỰ Bộ môn Những quy định chung về luật dân sự,tài sản và thừa kế, đề tài BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI GIAO DỊCH DÂN SỰ Bộ môn Những quy định chung về luật dân sự,tài sản và thừa kế
So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên
của giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.
BLDS 2005 quy định Điều 122 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự sẽ có hiệu lực khi đáp ứng các điều kiện sau: Người tham gia phải có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung giao dịch không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội; và tất cả các bên tham gia giao dịch đều hoàn toàn tự nguyện.
2 Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.
BLDS 2015 quy định Điều 117 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau: các chủ thể tham gia phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp; việc tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện; và mục đích cũng như nội dung của giao dịch không được vi phạm luật pháp hay đạo đức xã hội.
2 Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Có thể thấy điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định trong BLDS
2015 có nhiều điểm mới và tiến bộ hơn so với BLDS 2005
Điểm a khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phải phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập,” thay vì chỉ yêu cầu một trong hai loại năng lực.
Theo Bộ luật Dân sự 2005, "Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự" thể hiện sự quy định chặt chẽ hơn trong Bộ luật Dân sự 2015 Điều này cho thấy không phải mọi chủ thể đều có năng lực pháp luật như nhau khi thực hiện giao dịch dân sự.
BLDS 2015 đã có những quy định rõ ràng về “năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”, đánh dấu sự tiến bộ so với BLDS 2005 Mỗi chủ thể có năng lực hành vi dân sự khác nhau, và năng lực này gắn liền với các giao dịch dân sự mà họ thực hiện Chẳng hạn, người mất năng lực hành vi dân sự không thể tự mình thực hiện giao dịch, trong khi người có năng lực hành vi dân sự có quyền xác lập mọi giao dịch mà pháp luật cho phép.
Điểm b khoản 1 Điều 122 BLDS 2005 quy định rằng mục đích và nội dung của giao dịch không được vi phạm điều cấm của pháp luật, trong khi điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 lại nhấn mạnh rằng giao dịch dân sự không được vi phạm điều cấm của luật Sự thay đổi từ "pháp luật" sang "luật" trong hai bộ luật này nhằm thu hẹp phạm vi điều cấm mà các bên tham gia giao dịch dân sự cần lưu ý.
Khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện cần thiết để giao dịch đó có hiệu lực, trong trường hợp có quy định của luật So với Bộ luật Dân sự 2005, thuật ngữ "pháp luật" đã được thay thế bằng "luật".
-Những thay đổi trên đã cho thấy được tư duy đổi mới cũng như sự phát triển và tiến bộ hơn trong các điều luật.
Đoạn nào của bản án trên cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam?
Ông Ph J T và bà L Th H, người Việt Nam đã nhập quốc tịch Mỹ, không đủ điều kiện sở hữu đất ở Việt Nam theo Luật đất đai năm 2003 và Luật nhà ở năm 2005 Cụ thể, chỉ những người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài, có công với đất nước, hoặc là nhà hoạt động văn hóa, nhà khoa học có nhu cầu thường xuyên tại Việt Nam mới được phép sở hữu nhà ở Những người không thuộc diện này, nếu cư trú tại Việt Nam từ sáu tháng trở lên, chỉ được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ Do đó, ông T và bà H không có quyền sở hữu đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam.
Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T và bà H với bà Đ đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu?
bị Tòa án tuyên bố vô hiệu?
Các giao dịch liên quan đến giấy tờ thổ cư vào ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004 và giấy cam kết ngày 16/3/2011 đều bị vô hiệu do vi phạm các điều cấm của pháp luật và không tuân thủ quy định về hình thức theo Điều 117, 123, 129 của Bộ luật dân sự.
Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật của chủ thể) về căn cứ để Tòa tuyên bố giao dịch trên vô hiệu?
về căn cứ để Tòa tuyên bố giao dịch trên vô hiệu?
Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi Ông T và bà H, là người nước ngoài, có năng lực pháp luật khác với bà Đ, người Việt Nam Do đó, ông T và bà H không có quyền mua bán nhà ở Việt Nam Tòa án tuyên bố giao dịch này vô hiệu là hợp lý.
VẤN ĐỀ 2: GIAO DỊCH XÁC LẬP BỞI NGƯỜI KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG NHẬN THỨC.
Tóm tắt quyết định số 329/2013/DS-GĐT ngày 25/7/2013 của Tòa án dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Chị Đặng Thị Kim Ánh khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà giữa cha mẹ chị và vợ chồng ông Lưu Hoàng Phi Hùng, sau khi cha chị, ông Đặng Hữu Hội, bị tai biến và không còn khả năng nhận thức Mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại công nhận hợp đồng này Sau đó, Tòa án nhân dân tối cao đã hủy cả hai bản án và giao vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Ông Hội không còn khả năng nhận thức từ thời điểm nào, và khi nào Tòa án tuyên bố ông mất năng lực hành vi dân sự?
Năm 2007 ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không còn nhận thức được.
Ngày 10/08/2010 Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông hội mất năng lực hành vi dân sự.
Giao dịch giữa ông Hội và bà Hương được xác lập trước khi ông Hội bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự Việc xác định thời điểm giao dịch này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tính hợp pháp và hiệu lực của các thỏa thuận liên quan đến tài sản và quyền lợi của hai bên.
Vào ngày 08/02/2010, vợ chồng ông Hội và bà Hương đã bán căn nhà cho vợ chồng ông Hùng và bà Trinh với giá 580.000.000 đồng Tuy nhiên, đến ngày 10/08/2010, Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi dân sự Do đó, giao dịch mua bán của ông Hội và bà Hương được xác lập trước khi ông Hội bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
Câu 2.3 : Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu không? Vì sao? Trên cở sở quy định nào?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội vô hiệu.Vì:
Kể từ năm 2007,ông Hội bị tai biến không nhận thức được.
Theo Điều 130 Bộ luật Dân sự 2005, các giao dịch dân sự được xác lập và thực hiện bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ bị coi là vô hiệu.
Khi giao dịch dân sự được thực hiện bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Toà án có thể tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo yêu cầu của người đại diện, nếu pháp luật quy định rằng giao dịch phải do người đại diện xác lập và thực hiện.
Trong thực tiễn xét xử, đã có nhiều vụ việc tương tự như hoàn cảnh của ông Hội Một trong số đó là vụ án liên quan đến tranh chấp quyền sở hữu tài sản, trong đó Tòa án đã giải quyết bằng cách xác minh nguồn gốc tài sản và đưa ra phán quyết dựa trên chứng cứ hợp pháp Cụ thể, Tòa án đã xem xét các tài liệu liên quan, lắng nghe ý kiến của các bên tranh chấp, và cuối cùng đưa ra quyết định bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sở hữu tài sản Vụ việc này đã tạo tiền lệ quan trọng cho các trường hợp tương tự trong tương lai.
Vụ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Diện, đại diện bởi chị Thu, và ông Sơn đang được Tòa án xem xét Tòa án tập trung vào việc xác định liệu có sự gian dối trong quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay không, đặc biệt là khi ông Diện đã bị tâm thần tại thời điểm ký hợp đồng Điều này đặt ra câu hỏi về tính hợp pháp của việc chuyển nhượng và việc áp dụng thời hiệu khởi kiện Tòa án cũng quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Vào ngày 16 tháng 1 năm 1993, ông Diện đã lập "giấy nhượng tài sản" cho ông Sơn, bao gồm bất động sản và các tài sản liên quan Giấy nhượng này có sự tham gia của ông Diện, bà Hiền (vợ ông Diện) và một số cá nhân khác, và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Vào ngày 24 tháng 5 năm 1944, Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm đã chấp thuận đơn ly hôn của ông Diện và bà Hiền, tuy nhiên, trong quyết định này không đề cập đến phần tài sản liên quan.
• 15/12/2009 Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm tuyên bố ông Diệm mất năng lực hành vi dân sự.
Vào ngày 02/12/2020, bà Thu, con gái ông Diện và là người đại diện theo pháp luật của ông, đã khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất đai Bà Hiền, mẹ của bà Thu, được ủy quyền tham gia tố tụng và cho biết ông Diện đã mắc bệnh tâm thần khi thực hiện giao dịch, dẫn đến việc ông không thể làm chủ hành vi và bị ép ký vào hợp đồng Điều này cho thấy hợp đồng vi phạm quy định pháp luật Tuy nhiên, ông Sơn xác nhận rằng khi chuyển nhượng, ông Diện không có biểu hiện bệnh tâm thần và do đó không đồng ý hủy hợp đồng.
Dựa trên kết quả giám định từ Bệnh viện Tâm thần Hà Nội và Trung tâm giám định pháp y tâm thần Sở Y tế Hà Nội, Tòa án đã xác định rằng ông Diện không cần người giám hộ khi hợp đồng được thiết lập.
• Các bản án trước đó bị hủy và giao hồ sơ vụ án lại để xét xử sơ thẩm theo đúng quy định pháp luật.
Trong vụ việc liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao thể hiện sự nhất quán và tuân thủ các quy định pháp lý hiện hành Tòa án đã căn cứ vào các điều khoản của Bộ luật Dân sự và các quy định liên quan để đưa ra phán quyết hợp lý, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan Việc xác định tính hợp pháp của giao dịch và trách nhiệm của các bên trong trường hợp này cũng được Tòa án xem xét kỹ lưỡng, đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao là khá thuyết phục:
Chị Ánh được công nhận quyền khởi kiện trong giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hội, bà Hương và vợ chồng ông Hùng, bà Trinh Ông Hội đã bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự từ ngày 07/05/2010, do đó chị Ánh là người đại diện hợp pháp của ông Hội theo quy định pháp luật Chị cũng kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Hội theo Khoản 1, Điều 125 Bộ luật Dân sự 2015.
Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa đảo theo
205 và BLDS 2015 Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa đảo theo BLDS 2005:
- Theo điều 132 của BLDS 2005 có quy định về giao dịch dân sự bị lừa dối như sau
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự bị lừa dối hoặc đe dọa, họ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba nhằm gây hiểu lầm cho bên kia về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung giao dịch Để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do lừa đảo theo Bộ luật Dân sự 2015, cần phải xác định rõ các điều kiện liên quan đến hành vi lừa dối này.
- Theo điều 127 BLDS 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối như sau:
Khi một bên trong giao dịch dân sự bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép, họ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba, nhằm làm cho bên kia hiểu sai về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung giao dịch, dẫn đến việc xác lập giao dịch đó.
Theo đó, điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối phải thỏa hai điều kiện sau:
Hành vi cố ý từ một bên hoặc người thứ ba gây hiểu lầm cho bên kia về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung giao dịch dân sự có thể dẫn đến việc xác lập giao dịch đó.
(2) Một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã bị tuyên bố vô hiệu do có lừa đảo?
bị tuyên bố vô hiệu do có lừa đảo?
Trong Quyết định số 521, thỏa thuận hoán nhượng bị tuyên bố vô hiệu do có hành vi lừa dối, thể hiện qua việc anh Vinh và những người liên quan không thông báo cho ông Đô và bà Thu về tình trạng nhà đất đã có quyết định thu hồi, giải tỏa Cụ thể, căn nhà không được bồi thường vì xây dựng trái phép từ năm 1998, và thửa đất bị thu hồi không đủ điều kiện để mua nhà tái định cư theo Quyết định số 135/QĐ-UB Thêm vào đó, bản “Thỏa thuận hoán nhượng” không có chữ ký của ông Đô, người cùng bà Thu bán căn nhà cho bà Phố, dẫn đến việc giao dịch giữa anh Vinh và bà Thu không có giá trị pháp lý và phải áp dụng Điều 132 BLDS để giải quyết.
Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt tiền lệ anh/chị biết?
Theo nguyên tắc áp dụng án lệ, khi giải quyết các vụ việc tương tự, Tòa án cần nêu rõ tên án lệ, các tình tiết và tính chất tương tự trong án lệ, cũng như vấn đề pháp lý mà án lệ đã giải quyết Điều này phải được trình bày, phân tích và làm rõ trong bản án quyết định Nếu Thẩm phán hoặc Hội thẩm không áp dụng án lệ, họ phải ghi rõ lý do không áp dụng trong quyết định của mình.
- Ở Quyết định 521, Tòa án giải quyết vụ án căn cứ vào luật, không có bất cứ một tình tiết nào được viết dẫn.
Hướng dẫn nếu trên có còn phù hợp với BLDS năm 2015 không? Vì sao? 13 3.5 Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?
Theo Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015, nếu một bên tham gia giao dịch dân sự bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép, họ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi có chủ ý của một bên hoặc bên thứ ba, nhằm gây ra sự hiểu lầm cho bên còn lại về đối tượng, tính chất hoặc nội dung của giao dịch dân sự, dẫn đến việc xác lập giao dịch đó.
- Điểm b Điều 132 BLDS 2015 quy định : “ Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại Điều 125, 126 ,127, 128 và 129 của Bộ luật này là
“ b) Người bị nhầm lẫm, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lâp do bị nhầm lẫm, do bị lừa dối”.
Tòa án đã quyết định hủy bỏ Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2005/DS-ST ngày 14/01/2008 và Bản án dân sự phúc thẩm số 810/2008/DS-PT ngày 20/7/2008 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh, một quyết định được coi là hợp lý và thuyết phục.
3.5 Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?
- Trong Quyết định số 210, theo Tòa án:
+ Ông Tài có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu.
+Bà Nhất không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu.
Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
Theo Quyết định số 210 của Tòa án, thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối đã hết hạn Cụ thể, bà Nhất cho biết vào năm 2007, khi vợ chồng bà ly hôn, bà mới phát hiện ông Dưỡng đã giả mạo chữ ký của bà để chuyển nhượng đất cho ông Tài Đến ngày 10/12/2010, bà Nhất mới khởi kiện, nhưng theo khoản 1 Điều 142 BLDS, yêu cầu này không còn hiệu lực.
Năm 1995, quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do bị lừa dối là một năm, theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật Dân sự.
Theo quy định năm 2005, thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do lừa dối là hai năm kể từ ngày giao dịch được xác lập Ngoài ra, Điều 195 Bộ luật Dân sự quy định rằng nếu pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự cũng là hai năm, tính từ ngày người có quyền khởi kiện nhận thức được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyến bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, Tòa án không công nhận hợp đồng vì mảnh đất trong hợp đồng chuyển nhượng chưa được giải quyết Nếu diện tích đất đang tranh chấp chưa được xử lý trong vụ án ly hôn, đây được xác định là tài sản chung của vợ chồng, do đó bà Nhất không có quyền khởi kiện ông Dưỡng Ngược lại, nếu diện tích đất đã được giải quyết, bà Nhất có quyền khởi kiện Tòa án cấp sơ thẩm đã giao toàn bộ diện tích đất cho bà Nhất và buộc ông Dưỡng bồi thường cho ông Tài mà không làm rõ các tình tiết, dẫn đến việc Tòa án cấp phúc thẩm không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Cuối cùng, Tòa án nhân dân tối cao đã hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm.
Câu trả lời của các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như Quyết định số 210?
Câu trả lời cho các câu hỏi trên sẽ khác nhau khi áp dụng các quy định tương ứng của Bộ luật Dân sự 2015 vào tình huống được nêu trong Quyết định số 210.
- + Theo điểm b, khoản 1 Điều 132 BLDS 2015:
“ b) Người bị nhầm lẫ, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, bị lừa dối.”
Tòa án quy định thời hiệu khởi kiện là hai năm kể từ ngày người bị lừa dối nhận thức hoặc phải nhận thức về giao dịch được xác lập do lừa dối Trong trường hợp của ông Tài, do ông không biết rằng ông Dưỡng đã giả mạo chữ ký, nên từ thời điểm phát hiện cho đến khi khởi kiện chưa quá hai năm, ông vẫn có quyền khởi kiện.
VẤN ĐỀ 4: HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU:
Tóm tắt quyết định số 26/2013/KDTM-GĐT ngày 13-8-2013 của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao:
Công ty Orange, được chỉ định bởi Công ty Phú Mỹ, đã thực hiện dịch vụ thiết kế cho Dự án đầu tư xây dựng theo hợp đồng Sau khi ký kết, Công ty Orange đã hoàn thành công việc và nhận thanh toán từ Công ty Phú Mỹ đúng theo cam kết Cuối cùng, Công ty Orange đã bàn giao sản phẩm đúng khối lượng và tiến độ, tuy nhiên, Công ty Phú Mỹ không phản hồi trong 10 ngày kiểm tra sản phẩm, điều này đồng nghĩa với việc chấp nhận sản phẩm.
Mỹ đã chấp nhận sản phẩm của Công ty Orange, nhưng Công ty Phú Mỹ không thực hiện thanh toán lần thứ ba, dẫn đến việc Công ty Orange kiện để chấm dứt hợp đồng và yêu cầu thanh toán số tiền cùng lãi suất chậm Tại phiên tòa sơ thẩm, tòa án đã quyết định chấm dứt hợp đồng và buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán Tuy nhiên, quyết định của tòa án đã hủy toàn bộ bản án của tòa sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời giao hồ sơ vụ án cho Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Dương để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tóm tắt quyết định số 75/2012/DS-GDDT ngày 23/02/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao:
Vụ án giữa ông Nguyễn Văn Sanh và anh Nguyễn Văn Dư liên quan đến tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Ông Sanh yêu cầu tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất với vợ chồng anh Dư là hợp pháp Mặc dù anh Dư thừa nhận đã viết giấy chuyển nhượng và giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Sanh, nhưng anh cho rằng mình đã ký thay cho chị Chúc và không chấp nhận hợp đồng Anh Dư yêu cầu ông Sanh tháo dỡ công trình xây dựng và trả lại đất Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định hủy các bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm trước đó, đồng thời chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc để xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Tóm tắt bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của toà án nhân dân cấp cao tại
Ông Bùi Tiến Văn và Bà Nguyễn Thị Tằm đã khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng quyền sử dụng đất do anh Bùi Tiến Dậu và Bùi Tiến Sinh lừa dối chiếm đoạt đất, đuổi ông bà ra khỏi nhà Hội đồng xét xử đã bác kháng cáo của anh Dậu, giữ nguyên bản án sơ thẩm, xác định hợp đồng dân sự là vô hiệu và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã chiếm đoạt, cấp lại giấy chứng nhận cho ông bà Tằm Anh Bình đã xin rút kháng cáo nhưng không được chấp nhận, và cả anh Bình lẫn anh Dậu phải chịu án phí theo quy định.
Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
_Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Theo Khoản 1 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự vô hiệu sẽ không tạo ra, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được thiết lập.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, khi hợp đồng dịch vụ bị xác định là vô hiệu, Công ty Phú Mỹ có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bên thực hiện dịch vụ và duy trì tính công bằng trong các giao dịch thương mại.
Dựa trên Bộ luật Dân sự, khi hợp đồng dịch vụ bị tuyên bố vô hiệu, Công ty Phú Mỹ có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Orange số tiền tương ứng với giá trị khối lượng công việc đã thực hiện.
Công ty Orange đã thực hiện.
Theo Khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, khi một giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu, các bên liên quan có trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những tài sản đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”
Nếu hợp đồng giữa Công ty Phú Mỹ bị coi là vô hiệu và không được thanh toán, điều này sẽ dẫn đến những khó khăn lớn trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên Có thể xảy ra tình huống bên sử dụng hợp đồng cố gắng vận dụng pháp luật để né tránh nghĩa vụ thanh toán bằng cách làm cho hợp đồng trở nên vô hiệu.
4.3 Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?
Toà án, bất kể có xác định Hợp đồng dịch vụ là vô hiệu hay hợp pháp, đều cần yêu cầu các bên liên quan cung cấp tài liệu và chứng cứ để chứng minh Đồng thời, toà án cũng sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác nhằm làm rõ các vấn đề liên quan.
Nếu hợp đồng dịch vụ được xác định là vô hiệu, Công ty Phú Mỹ sẽ phải thanh toán cho Công ty Orange giá trị tương ứng với khối lượng công việc đã thực hiện Ngược lại, nếu hợp đồng hợp pháp, Công ty Phú Mỹ không chỉ phải thanh toán giá trị công việc mà còn phải trả thêm lãi suất theo quy định pháp luật do chậm thanh toán.
Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên quan đến khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp đồng vô hiệu?
Theo quan điểm của tôi, quyết định của Hội đồng thẩm phán về việc xác định hợp đồng vô hiệu dựa trên khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện là hoàn toàn hợp lý.
Theo Khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, khi một giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu, các bên liên quan có trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những tài sản đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”
Khi hợp đồng được xác nhận là vô hiệu, Công ty Phú Mỹ có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Orange một khoản tiền tương ứng với giá trị công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu như thế nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này như thế nào?
Ty Orange đã xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu bằng cách phân tích các điều khoản và điều kiện cụ thể trong hợp đồng, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của nó Việc xử lý hợp đồng dịch vụ không vô hiệu khác biệt rõ rệt so với hợp đồng vô hiệu, vì nó yêu cầu phải xem xét các yếu tố như sự đồng thuận của các bên và mục đích của hợp đồng Quan điểm của tôi về chủ đề này là việc hiểu rõ sự khác biệt giữa hai loại hợp đồng này là rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Hội đồng thẩm phán đã xác định rằng hợp đồng dịch vụ giữa Công ty Orange và Công ty Phú Mỹ là hợp pháp, do đó buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện Ngoài ra, Công ty Phú Mỹ còn phải trả lãi suất theo quy định của pháp luật do việc chậm thanh toán.
_ Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu như sau:
Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công Ty Orange theo đúng giá trị đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ hợp pháp Điều này có nghĩa là Công ty Phú Mỹ cần thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo cam kết, không được phép giảm hay thêm bất kỳ khoản tiền nào so với các điều khoản đã quy định trong hợp đồng.
Nếu hợp đồng vô hiệu, Công ty Phú Mỹ sẽ thanh toán cho Công ty Orange dựa trên số lượng công việc đã thực hiện Cụ thể, nếu Công ty Orange hoàn thành N công việc, Phú Mỹ sẽ chi trả đúng số tiền tương ứng với N công việc đó.
Sự khác biệt giữa hợp đồng hợp pháp và hợp đồng vô hiệu rất rõ ràng Hợp đồng hợp pháp yêu cầu thanh toán theo đúng các điều khoản đã thỏa thuận, trong khi hợp đồng vô hiệu chỉ yêu cầu thanh toán dựa trên khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện.
Theo ý kiến của tôi, bản án của toà cấp sở thẩm và toà cấp phúc thẩm chưa làm rõ các khía cạnh của vấn đề và thiếu sót trong việc thu thập tài liệu, dẫn đến quyết định không đúng Từ đó, chúng ta rút ra bài học quan trọng rằng khi giải quyết vụ án, toà án cần yêu cầu các bên cung cấp đầy đủ tài liệu và chứng cứ để có cái nhìn đa diện hơn, tránh những sai lầm trong quá trình xét xử.
Trong Quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu?
Theo Quyết định số 75/2012/DS-GDDT ngày 23/02/2012 của Tòa án nhân dân tối cao, hợp đồng chuyển nhượng đất được xác định là vô hiệu do lỗi của vợ chồng anh Dự và chị Chúc trong việc không hợp tác hoàn thiện thủ tục hình thức Biên bản định giá tài sản cho thấy giá trị diện tích đất chuyển nhượng là 1.000.000.000 đồng, trong khi ông Sanh đã thanh toán 82,051% giá trị hợp đồng.
Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu trong Quyết định trên
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã xác định hợp đồng vô hiệu trong vụ tranh chấp giữa ông Nguyễn Văn Sanh và vợ chồng anh Dự, chị Chúc là hợp lý Ông Sanh đã thanh toán 160.000.000đ, tương đương 82,051% giá trị hợp đồng Nguyên nhân hợp đồng vô hiệu là do vợ chồng anh Dự không hoàn thiện các thủ tục về hình thức, mặc dù việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hoàn toàn tự nguyện và có xác nhận của công an xã Điều này cho thấy hợp đồng vi phạm về hình thức nhưng không vi phạm về nội dung Quyết định của Tòa án dựa trên các điều khoản của Bộ luật tố tụng dân sự, cụ thể là khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299.
Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông Sanh sẽ được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý
Theo Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005, khi giao dịch dân sự vô hiệu, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận Nếu không thể hoàn trả bằng hiện vật, phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được đã bị tịch thu theo quy định của pháp luật Bên gây thiệt hại phải bồi thường.
Theo Quyết định số 75/2012/DS-GDDT ngày 23/02/2012 của Tòa án, ông Sanh là người được bồi thường thiệt hại Hợp đồng giữa hai bên đã được xác định là vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức Theo Khoản 2, Điều 137 BLDS 2005, bên có lỗi là vợ chồng anh Dư vì không thực hiện thủ tục về hình thức của hợp đồng Ông Sanh không có lỗi, do đó vợ chồng anh Dư phải chịu bồi thường thiệt hại cho ông Sanh tương đương với phần giá trị hợp đồng đã thanh toán.
Theo biên bản định giá tài sản, giá trị diện tích đất chuyển nhượng là 1.000.000.000 đồng, trong khi giá chuyển nhượng hai bên thỏa thuận là 195.000.000 đồng Ông Sanh đã thanh toán được 160.000.000 đồng, tương đương 82,051% giá trị hợp đồng.
Do đó, theo quy đinh thi vơ chông anh Dư se bôi thương cho ông Sanh sô tiên đa đươc thanh toan tư ông Sanh la 160.000.000 đồng.
Trong bản án số 133, Toà án quyết định huỷ giấy chứng nhận giấy chứng nhận cấp cho anh Đậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ
hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu không? Vì sao?
Trong Bản án số 133, Tòa án đã hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh Dậu, đồng thời công nhận quyền của ông Văn và bà Tằm trong việc liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận Quyết định này được đưa ra do giao dịch dân sự trước đó bị coi là vô hiệu.
_Bởi vì: Theo cơ sở pháp lý, Điều 131 BLDS 2015 quy định về việc Hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu:
Giao dịch dân sự vô hiệu không tạo ra, không thay đổi và không chấm dứt quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các bên liên quan kể từ thời điểm giao dịch được thiết lập.
2 Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3 Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4 Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5 Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”
Tòa án đã quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho anh Dậu, đồng thời công nhận quyền của ông Văn và bà Tằm trong việc liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận Quyết định này là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH
Phép biện chứng về mâu thuẫn đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích và hiểu rõ các vấn đề kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Việc vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng giúp nhận diện và giải quyết các xung đột giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững Đồng thời, nó cũng hỗ trợ trong việc điều chỉnh các chính sách kinh tế nhằm đảm bảo công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Thương Thương
Giảng viên hướng dẫn : TS Đào Thị Trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH
Phép biện chứng về mâu thuẫn và việc vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Điều này giúp nhận diện và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế, từ đó thúc đẩy sự chuyển biến tích cực trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối và tiêu dùng Sự hiểu biết sâu sắc về mâu thuẫn không chỉ giúp cải thiện hiệu quả quản lý kinh tế mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu của xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Thương Thương
Giảng viên hướng dẫn : TS Đào Thị Trang
Nội dung I PHÉP BIỆN CHỨNG MÂU THUẪN 1 Phép biện chứng………4
2 Quy luật thống nhất giữa các mặt đối lập 2.1 Khái niệm……… 2.1.1 Khái niệm mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng……… 5
2.1.2 Nội dung của quy luật………6
II VAI TRÒ VÀ NHỮNG MÂU THUẪN CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Định hướng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là khái niệm mà còn là một chiến lược phát triển, nhằm kết hợp giữa tự do kinh doanh và sự quản lý của nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội và phát triển bền vững.
1.2 Cơ sở khách quan để lựa chọn nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam……… 7
1.3 Thành tựu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại cho nước ta……… 8
2 Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 2.1 Cở sở vật chất và kỹ thuật……… 10
2.2 Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành và chưa được hoàn thiện……… 10
2.3 Quản lý nhà nước về kinh tế xã hội vẫn còn khá yếu……… 11
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tồn tại một số mâu thuẫn cơ bản Đầu tiên, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và tính định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện sự khó khăn trong việc cân bằng lợi ích kinh tế với các mục tiêu xã hội Thứ hai, sự phát triển kinh tế thị trường cũng dẫn đến tình trạng thất nghiệp, tạo ra thách thức lớn cho việc đảm bảo an sinh xã hội Cuối cùng, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ngày càng trở nên nghiêm trọng, yêu cầu cần có những biện pháp hiệu quả để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và cải thiện chất lượng cuộc sống.
III Những giải pháp để phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1 Giải pháp chung cho phát triển thị trường……… 13
2 Giải pháp khắc phục mâu thuẫn của nền kinh tế thị trường 2.1 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với tính định hướng xã hội……… ………14
2.2 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với thất nghiệp……… 14
2.3 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với vấn đề bảo vệ Kết luận………môitrườngsinhthái………164
Giai đoạn 1975-1985, sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn, với chính sách “bao cấp” và kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế Nền kinh tế suy thoái và đời sống nhân dân gặp nhiều thiếu thốn Đến năm 1986, chính sách “Đổi mới” được thực hiện, chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần cải thiện tình hình đất nước và nâng cao đời sống nhân dân.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu như cải cách giá cả hàng hóa, lương bổng, tỷ giá và lãi suất; ổn định nền kinh tế vĩ mô; mở cửa thương mại và hội nhập quốc tế; và giảm tỷ lệ đói nghèo Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển, bao gồm khoảng cách giàu nghèo lớn, tỷ lệ thất nghiệp cao, đặc biệt tại các thành phố lớn, và vấn đề ô nhiễm môi trường trong sản xuất Những thách thức này không chỉ ảnh hưởng đến Việt Nam mà còn là vấn đề chung của nhiều quốc gia đang phát triển Do đó, việc tìm ra giải pháp để giải quyết những mâu thuẫn này là rất cần thiết cho sự phát triển bền vững của chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đề tài, tôi đã chọn nghiên cứu về "Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay" trong quá trình học triết học Mác-Lênin Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu hạn chế và ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, việc tìm kiếm tài liệu gặp nhiều khó khăn, dẫn đến bài viết còn thiếu sót Tôi rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô để hoàn thiện tiểu luận của mình.
I PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MÂU THUẪN
Phương pháp biện chứng không chỉ giúp con người nhận thức sự tồn tại của sự vật và hiện tượng mà còn hiểu rõ quá trình hình thành, phát triển và tiêu vong của chúng Khác với phương pháp siêu hình, phương pháp biện chứng chú trọng vào mối liên hệ, sự vận động và phát triển, từ đó mang lại cái nhìn toàn diện và đa chiều về các khía cạnh của cuộc sống Do đó, tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu ích, tác động tích cực đến khả năng nhận thức và cải tạo thế giới của con người.
Phép biện chứng bao gồm ba hình thức cơ bản: đầu tiên là phép biện chứng cổ đại, tập trung vào sự vận động và biến hóa của vũ trụ Tiếp theo là phương pháp biện chứng duy tâm, nhấn mạnh mối quan hệ giữa biện chứng và thế giới quan, còn gọi là chủ nghĩa duy tâm Cuối cùng, hình thức tiến hóa hoàn thiện nhất là phương pháp biện chứng duy vật, thể hiện qua học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, đặc biệt là triết học Mác-Lênin.
Triết học của C Mác được xem là hoàn thiện nhất, kết tinh từ những tư tưởng của các nhà chính luận trước đó như Hegel Ông đã phân tích cả lợi ích và khía cạnh tiêu cực của chủ nghĩa tư bản từ góc độ duy vật, đồng thời giải mã tính chất duy tâm và thần bí của biện chứng pháp C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa chủ nghĩa duy vật Phoi-bac, khắc phục tính siêu hình của nó dựa trên thành tựu khoa học đương thời Thế giới quan duy vật được làm phong phú bằng phương pháp biện chứng, và ngược lại, phương pháp biện chứng được xây dựng trên nền tảng thế giới quan duy vật Do đó, biện chứng duy vật của C Mác và Ph Ăngghen được đánh giá cao hơn so với các hình thức trước đó trong lịch sử Nhận thức về sự tiến bộ trong triết học Mác-Lênin tiếp tục phát triển và bổ sung triết học Mác, như Lênin đã từng nhấn mạnh rằng lý luận Mác không phải là điều bất khả xâm phạm mà chỉ là nền tảng khoa học cho những người xã hội chủ nghĩa.
4 triển hơn nữa về mọi mặt” Trong quá trình hình thành, phát triển triết học Mác chuyển sang triết học Mác-Lênin với mức độ hoàn thiện hơn cả.
Triết học Mác-Lênin là một hệ thống quan điểm duy vật biện chứng, đóng vai trò quan trọng trong việc giúp công nhân và tầng lớp lao động nhận thức đúng đắn về thế giới, từ đó cải tạo xã hội Nó cung cấp cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng để phân tích sự phát triển của xã hội trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghiệp hiện đại Hơn nữa, triết học này còn là nền tảng lý luận cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn cầu, đặc biệt trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
2 Quy luật thống nhất và phát triển đấu tranh giữa các mặt đối lập 2.1 Khái niệm
Quy luật thống nhất phát triển giải thích nguồn gốc và động lực của sự vận động cũng như phát triển của các sự vật, hiện tượng Nó được coi là “hạt nhân của phép biện chứng”.
2.1.1 Khái niệm mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng
Quy luật thống nhất giữa các mặt đối lập 1 Khái niệm…………………………………………………… 1.1 Khái niệm mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng
Nội dung của quy luật
Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật và hiện tượng là động lực chính để giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự vận động và phát triển Sự vận động và phát triển này diễn ra tự thân, trong khi sự đấu tranh và thống nhất giữa các yếu tố đối lập tạo ra nguyên nhân và động lực bên trong cho sự vật, hiện tượng Qua đó, cái mới sẽ thay thế cái cũ khi không còn phù hợp với tình hình và hoàn cảnh hiện tại.
Phân loại
Để phân loại được các dạng mâu thuẫn ta căn cứ vào các yếu tố sau:
- Đầu tiên, căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn, ta sẽ được hai loại mâu thuẫn Đó là mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Tiếp theo, căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập Ta có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Cuối cùng, chúng ta cần xem xét tính chất của lợi ích trong quan hệ giai cấp, bao gồm hai loại lợi ích: đối kháng và không đối kháng Việc phân tích này mang lại ý nghĩa quan trọng cho phương pháp luận, giúp hiểu rõ hơn về các mối quan hệ xã hội và động lực của các giai cấp khác nhau.
Phương pháp biện chứng về mâu thuẫn có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống, bởi mâu thuẫn trong sự vật và hiện tượng là khách quan Do đó, việc tôn trọng và quan sát mâu thuẫn từ nhiều góc độ khác nhau là cần thiết trước khi đưa ra nhận xét và quyết định Sau đó, cần tiến hành phân tích cụ thể để hiểu rõ hơn về các vấn đề liên quan.
VAI TRÒ VÀ NHỮNG MÂU THUẪN CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Cơ sở khách quan để lựa chọn nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phân công lao động xã hội là nền tảng quan trọng của sản xuất hàng hóa, không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ Sự phân bổ nguồn lực lao động theo từng khu vực và địa phương ngày càng được chú trọng, dẫn đến sự cải thiện về chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm trên thị trường.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay có nhiều hình thức sở hữu, bao gồm sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu toàn dân Sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập với lợi ích riêng biệt dẫn đến việc thiết lập các quan hệ kinh tế thông qua giao dịch tiền tệ.
Quan hệ hóa tiền tệ có vai trò quan trọng không chỉ trong nước mà còn ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế Trong bối cảnh phân công lao động ngày càng phát triển, việc khai thác tiềm năng của mỗi quốc gia trở nên thiết yếu Mỗi quốc gia sở hữu những sản phẩm riêng biệt để tham gia vào thị trường toàn cầu, và việc trao đổi hàng hóa cần tuân thủ nguyên tắc ngang giá.
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một thực tế khách quan không thể bị xóa bỏ bằng ý chí chủ quan Mô hình này đặc biệt phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của đất nước, cho phép bỏ qua giai đoạn tư bản để tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa.