1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

THẢO LUẬN HÌNH SỰ CÁC TỘI PHẠM

96 295 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 96
Dung lượng 416,98 KB

Cấu trúc

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 01

    • Phần 1: Nhận định

    • 1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS).

    • 5. Tình tiết “giết 2 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở lên.

    • 7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con mới đẻ (Điều 124 BLDS).

    • 8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS).

    • 9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS).

    • 11. Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 BLHS).

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 1.

    • Bài tập 3

    • Bài tập 4

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 02

    • Phần 1: Nhận định

    • 13. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là hành vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS).

    • 16. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì không cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS).

    • 19. Mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội hành hạ người khác được quy định tại Điều 140 BLHS.

    • 22. Mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).

    • 23. Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.

    • 25. Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 BLHS).

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 5

    • Bài tập 11

    • Bài tập 14

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 03

    • Phần 1: Nhận định

    • 30. Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của Tội vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS).

    • 31. Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ được quy định là tình tiết định khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS.

    • 33. Chủ thể của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS) chỉ là người không có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người.

    • 36. Đối tượng tác động của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS) chỉ là công chức, viên chức hoặc người lao động của các cơ quan Nhà nước

    • 40. Mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 BLHS)

    • 42. Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi chỉ quy định trong cấu thành Tội loạn luân được quy định tại Điều 184 BLHS.

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 15

    • Bài tập 16

    • Bài tập 19

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 04

    • Bài tập 22

    • Bài tập 25

    • Bài tập 30

    • Bài tập 36.

    • Bài tập 38

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 05

    • Phần 1: Những nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao?

    • 1. Hành vi khách quan của các tội phạm quy định trong Chương các tội xâm phạm sở hữu chỉ là hành vi chiếm đoạt tài sản.

    • 2. Rừng chỉ là đối tượng tác động của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

    • 3. Không phải mọi loại tài sản bị chiếm đoạt đều là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu.

    • 5. Mọi hành vi đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản đều cấu thành Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS).

    • 9. Dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến hậu quả chết người là hành vi cấu thành cả hai tội: Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS) và Tội giết người (Điều 123 BLHS).

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 1

    • Bài tập 3

    • Bài tập 4

    • Bài tập 6

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 06

    • Phần 1: Nhận định

    • 13. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trong Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS) đòi hỏi người phạm tội phải lén lút với tất cả mọi người.

    • 14. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mà có biểu hiện gian dối là hành vi chỉ cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS).

    • 15. Mọi hành vi không trả lại tài sản sau khi đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng mà tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên đều cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS).

    • 17. Cố tình không trả lại cho chủ sở hữu tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên bị giao nhầm là hành vi cấu thành Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 BLHS).

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 7

    • Bài tập 9

    • Bài tập 12

    • Bài tập 13

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 07

    • Phần 1: Nhận định

    • 25. Mang trái phép vật có giá trị lịch sử, văn hóa qua biên giới chỉ là hành vi cấu thành Tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới (Điều 189 BLHS).

    • 27. Hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơn so với tiêu chuẩn chất lượng đã đăng kí, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa là hàng giả.

    • 29. Hàng giả chỉ là đối tượng tác động của các tội phạm được quy định tại điều 192, 193, 194, 195 BLHS.

    • 30. Không phải mọi trường hợp trốn thuế từ 100 triệu đồng trở lên đều cấu thành Tội trốn thuế được quy định tại điều 200 BLHS.

    • 34. Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước qui định tại Điều 203 BLHS chỉ là hành vi mua, bán hóa đơn chưa ghi nội dung hoặc ghi nội dung không đầy đủ, không chính xác theo qui định.

    • 37. Mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt Nam đều cấu thành Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226 BLHS).

    • 44. Mọi hành vi thải vào nguồn nước các chất gây ô nhiễm môi trường thì cấu thành Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235 BLHS).

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 16

    • Bài tập 17

    • Bài tập 25

    • Bài tập 29

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 08

    • Phần 1: Nhận định

    • 50.Mọi trường hợp trồng cây thuốc phiện đã được giáo dục nhiều lần mà còn vi phạm đều cấu thành Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma túy theo Điều 247 BLHS.

    • 52.Mọi trường hợp vận chuyển trái phép chất ma túy đều cấu thành Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250 BLHS).

    • 55. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới là hành vi cấu thành Tội buôn lậu (Điều 188 BLHS).

    • 59. Người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy biết bản thân họ đã nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người sử dụng chất ma túy thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tình tiết định khung tăng nặng “gây bệnh nguy hiểm cho người khác” (điểm g khoản 2 Điều 255 BLHS). 

    • 60. Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ cấu thành Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 256 BLHS).

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 32

    • Bài tập 36

    • Bài tập 46

    • Bài tập 47

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 09

    • Phần 1: Nhận định

    • Câu 1: Hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong công trường thi công gây tai nạn chết người thì cấu thành Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260 BLHS). 

    • Câu 4: Người đua xe trái phép gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đua xe trái phép (Điều 266 BLHS).

    • Câu 9: Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và bán vũ khí đó thì cấu thành hai tội: Tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng (Điều 304 BLHS) và Tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng (Điều 304 BLHS).

    • 11. Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia là hành vi chỉ cấu thành Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303 BLHS).

    • 12. Mọi hành vi gây rối trật tự ở nơi công cộng gây hậu quả nghiêm trọng chỉ cấu thành Tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 BLHS).

    • 15. Tiền dùng để đánh bạc chỉ là tiền được thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc.

    • 17. Mọi hành vi không hứa hẹn trước mà cố ý chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có đều cấu thành Tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 323 BLHS).

    • 20. Mọi trường hợp mua dâm người dưới 18 tuổi đều cấu thành Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329 BLHS).

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 1

    • Bài tập 4

    • Bài tập 8

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 10

    • Phần 1: Nhận định

    • 22. Dùng vũ lực chống người thi hành công vụ không chỉ cấu thành Tội chống người thi hành công vụ (Điều 330 BLHS).

    • 25. Mọi hành vi sửa chữa, làm sai lệch nội dung hộ chiếu đều cấu thành Tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 340 BLHS).

    • 26. Làm giả giấy tờ của cơ quan, tổ chức là hành vi chỉ cấu thành Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 341 BLHS).

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 9

    • Bài tập 12

    • Bài tập 15

    • Bài tập 20

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 11

    • Phần 1: Nhận định

    • 29. Lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản của Nhà nước mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên là hành vi chỉ cấu thành Tội tham ô tài sản (Điều 353 BLHS). 

    • 30. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian nhận tiền, tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên chỉ cấu thành Tội nhận hối lộ (Điều 354 BLHS). 

    • 34: Hành vi nhận tiền từ 2 triệu đồng trở lên để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm một việc không được phép làm thì chỉ cấu thành Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 366 BLHS).  

    • 37. Đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên nếu chủ thể đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được coi là không có tội. 

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 23 

    • Bài tập 24 

    • Bài tập 27

    • Bài tập 32

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 12

    • Phần 1: Nhận định

    • 40. Thẩm phán, hội thẩm có thể là chủ thể của Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 368 BLHS).

    • 42. Mọi hành vi ra quyết định mà biết rõ là trái pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đều cấu thành Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371 BLHS).

    • 45. Người bị hại có thể là chủ thể của Tội khai báo gian dối (Điều 382 BLHS).

    • 47. Mọi trường hợp biết người khác phạm tội, tuy không hứa hẹn trước mà giúp họ lẩn trốn đều cấu thành tội che giấu tội phạm (Điều 389 BLHS).

    • Phần 2: Bài tập

    • Bài tập 33

    • Bài tập 34

    • Bài tập 35

    • Bài tập 36

  • THẢO LUẬN LẦN THỨ 13

    • Bài tập 40

    • Bài tập 41

    • Bài tập 44

    • Bài tập 45

Nội dung

Tổng hơp bài thảo luận hình sự các tội phạm mới nhất. THẢO LUẬN LẦN THỨ 01 1 Phần 1: Nhận định 1 1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS). 1 5. Tình tiết “giết 2 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở lên. 1 7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con mới đẻ (Điều 124 BLDS). 1 8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS). 1 9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS). 2

Nhận định

Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS)

Theo Điều 123, tội giết người được xác định là tội phạm có cấu thành vật chất Hành vi cố ý trực tiếp tước đoạt tính mạng của người khác sẽ cấu thành tội giết người, ngay cả khi hậu quả chết người chưa xảy ra Dấu hiệu hậu quả trong cấu thành tội phạm này không mang ý nghĩa định tội, mà chỉ giúp xác định tội phạm đã hoàn thành hay chưa Do đó, hành vi cố ý tước đoạt tính mạng trái pháp luật, dù không gây ra hậu quả chết người, vẫn cấu thành tội giết người.

Tình tiết “giết 2 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở lên

Tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015 bao gồm hai hình thức lỗi: cố ý gián tiếp và cố ý trực tiếp Đặc biệt, khi thực hiện hành vi giết hai người trở lên với lỗi cố ý trực tiếp, không cần thiết phải có hậu quả là hai người chết, vì hậu quả chỉ giúp xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm.

Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con mới đẻ (Điều

Tội giết con mới đẻ xảy ra khi người mẹ giết chính đứa con mà mình đã sinh ra, thường do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng lạc hậu hoặc hoàn cảnh đặc biệt Nếu một người mẹ bình thường thực hiện hành vi giết con trong vòng 7 ngày tuổi, hoặc nếu một người không phải là mẹ giết đứa trẻ mới đẻ, thì sẽ bị xử lý theo Tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS)

Giết người trong tình trạng bị kích động mạnh xảy ra khi nạn nhân có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân của họ Nếu hành vi của nạn nhân khiến người phạm tội bị kích động nhưng không đủ để cấu thành tội phạm, thì hành vi trái pháp luật đó vẫn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc người thân của họ Trong trường hợp này, hành vi chống trả gây chết người có thể được xem là phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép trong

Theo NQ 04/HĐTP/1986, nếu người thi hành công vụ có hành vi hống hách và sử dụng vũ lực một cách bừa bãi, hoặc giết người do tư thù cá nhân, thì họ sẽ không bị truy cứu theo Điều 127 mà sẽ bị xử lý theo Điều 123 của Bộ luật Hình sự.

Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 BLHS)

Theo khoản 1 Điều 130 BLHS 2015, tội bức tử không coi việc nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội Hành vi phạm tội chỉ được xác định qua việc khiến nạn nhân tự sát, còn hậu quả tử vong hay không không ảnh hưởng đến việc cấu thành tội danh Do đó, cái chết của nạn nhân không phải là yếu tố quyết định trong tội bức tử.

Bài tập

Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là hành vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS)

Hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của nạn nhân cấu thành tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015 Ngược lại, tội giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS) bao gồm hành vi thúc đẩy, kích động hoặc dụ dỗ nạn nhân, tạo động lực tinh thần để họ quyết định tự kết thúc cuộc sống Ngoài ra, hành vi này cũng có thể thể hiện qua việc tạo điều kiện cần thiết, như cung cấp công cụ, phương tiện hoặc hướng dẫn cách thức thực hiện hành vi tự sát.

Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì không cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS)

Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác với tỷ lệ thương tổn cơ thể dưới 11% vẫn có thể cấu thành Tội cố ý gây thương tích nếu người phạm tội thực hiện hành vi này đối với phụ nữ mang thai, theo điểm c khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 Vì vậy, không phải mọi trường hợp gây thương tích dưới 11% đều không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội hành hạ người khác được quy định tại Điều 140 BLHS

Theo Điều 140 và Điều 185 Bộ luật Hình sự 2015, để cấu thành tội phạm theo Điều 140, cần có hành vi hành hạ người khác nhưng chưa đến mức dẫn đến tự sát Cụm từ “người lệ thuộc” được hiểu là người làm công hoặc tham gia công tác khác, không bao gồm những người lệ thuộc trong mối quan hệ hôn nhân gia đình và nuôi dưỡng, mà trường hợp này được quy định riêng tại Điều 185.

Việc đối xử tàn ác với người phụ thuộc không chỉ vi phạm Điều 140 Bộ luật Hình sự 2015 về tội hành hạ người khác, mà còn bị điều chỉnh bởi các điều luật khác Cụ thể, trong các mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng, hành vi này không thuộc phạm vi của tội phạm nêu trên, mà thay vào đó, được quy định trong Điều 151 Bộ luật Hình sự về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu và những người có công nuôi dưỡng.

Mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS)

Không phải mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều bị coi là Tội giao cấu Theo quy định, chỉ những hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo quy định tại Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015, việc giao cấu với người dưới 13 tuổi, bất kể có sự đồng ý hay không, sẽ bị xử lý hình sự với tội danh Hiếp dâm người dưới 16 tuổi Do đó, trường hợp này không áp dụng Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015.

Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân

Theo Điều 145 BLHS 2015, hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể được coi là tội hiếp dâm nếu nạn nhân đồng ý Điều này có nghĩa là không phải mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật đều là không có sự đồng ý của nạn nhân, mà vẫn có những trường hợp giao cấu trái pháp luật xảy ra với sự đồng thuận.

Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 BLHS)

Việc mua bán người dưới 16 tuổi không bị xem là Tội mua bán người theo Điều 150 BLHS 2015, mà sẽ bị xử lý theo Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo Điều 151 BLHS 2015.

A là một đối tượng không có việc làm ổn định, thường xuyên uống rượu và gây gổ Vào khoảng 17 giờ 30 phút, sau khi trở về từ một buổi nhậu, A đã chửi bới cha mình, ông Th, với những lời lẽ hỗn láo A đã tuyên bố: “Ngày trước tao còn nhỏ mày đánh tao, bây giờ tao đã lớn, thằng nào há miệng tao bóp cổ chết tươi” Nghe thấy những lời lẽ này, B, anh ruột của A, rất tức giận và đã chỉ mặt A để răn đe, cảnh báo rằng nếu A còn hỗn láo với cha mẹ, có thể sẽ gặp hậu quả nghiêm trọng.

Mặc dù A tiếp tục chửi bới ông Th, nhưng khi thấy A quá hỗn láo và không tôn trọng lời mình, B đã vào bếp lấy con dao lưỡi bầu mũi nhọn (25cm x 7cm) và đâm liên tiếp 4 nhát vào bụng A, khiến A gục chết tại chỗ.

Trong quá trình định tội cho vụ án, có hai quan điểm chính: Thứ nhất, B bị cáo buộc tội "giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" theo Điều 125 Bộ luật Hình sự; thứ hai, B bị truy tố tội "giết người" theo Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Theo anh (chị), B đã phạm tội gì? Tại sao?

Trong tình huống này anh B đã phạm tội “giết người” (Điều 123 BLHS)

Khách thể: Xâm phạm tính mạng của anh A

+ Đối tượng tác động: anh A là con người đang sống.

+ Hành vi: Anh B sau khi răn đe A bằng lời nói không được, cảm thấy bực tức nên đã quyết định lấy dao đâm liên tục 4 nhát vào bụng của A

+ Hậu quả: A gục chết tại chỗ

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: quan hệ nhân quả đơn trực tiếp, hành vi đâm liên tục 4 nhát của anh B khiến anh A chết

Chủ thể: B có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Lỗi cố ý trực tiếp xảy ra khi B nhận thức rõ ràng rằng hành vi đâm liên tục 4 nhát dao vào A sẽ dẫn đến cái chết của A, nhưng B vẫn quyết định thực hiện hành động này với mong muốn hậu quả đó xảy ra.

Trong tình huống này tại sao không thuộc trường hợp “giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo Điều 125 BLHS 2015 vì:

Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là khi nạn nhân thực hiện các hành vi trái pháp luật nhằm tấn công người phạm tội và người thân của họ, dẫn đến việc người phạm tội bị ức chế tâm lý và kích động Trong tình trạng mất khả năng tự chủ, người phạm tội có thể thực hiện hành vi trái pháp luật gây ra cái chết cho nạn nhân để thoát khỏi sự tấn công, đồng thời không nhận thức được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành động mình thực hiện.

Trong tình huống này, A chửi bới ông Th (bố đẻ A) không được xem là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng Anh B, với đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, cảm thấy bực tức nhưng không bị ức chế tâm lý Anh B tỉnh táo lấy dao và nhận thức rõ mức độ nguy hiểm khi đâm A 4 nhát, dẫn đến cái chết của A Án lệ số 28/2019/AL đã chỉ rõ rằng hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không áp dụng cho trường hợp của B, do đó, hành vi của B không thuộc Điều 125 BLHS 2015.

Như vậy, B phạm Tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015

A đã sử dụng dây điện trần để bảo vệ luống mía trong vườn nhà mình khỏi chuột, khi mía đã cao khoảng 0,80m - 1m nhưng bị chuột cắn phá ở phần ngọn Xung quanh ruộng mía có tường bao cao từ 1m40 đến 1m50 và không có lối đi tắt A thường cắm điện từ 22 giờ đêm đến 5 giờ sáng và đã thông báo cho bà con trong xóm về việc này Kết quả, nhiều con chuột đã bị chết do điện giật.

Một thanh niên từ xã khác đã trèo qua tường vào vườn mía và bị điện giật chết Trước đó, A thường mang thức ăn cho heo cho những người trong xóm.

Hãy xác định tội danh đối với hành vi gây chết người của A

A đã phạm tội vô ý làm chết người (Điều 128 BLHS 2015) Bởi:

Khách thể: là quyền sống( tính mạng) của thanh niên khác xã.

Chủ thể: A là chủ thể thường.(có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt tuổi quy định).

- Hành vi: A dùng dây điện giăng xung quanh luống mía ở trong vườn trước nhà mình để diệt chuột,vi phạm quy tắc về an toàn điện.

- Hậu quả: thanh niên khác xã chết

Mối quan hệ nhân quả giữa việc giăng dây điện quanh luống mía để diệt chuột và sự an toàn của khu vực xung quanh là rất quan trọng Mặc dù đã thông báo cho bà con trong xóm về hành động này, vị trí giăng dây điện lại đặt ngay trước nhà và không có lối đi nào khác, khiến cho việc vào nhà trở nên khó khăn Điều này cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo an toàn cho cả gia đình và cộng đồng.

Khu vực này thường xuyên có người qua lại, nhưng lại không có sự canh gác nào từ 22h đến 5h sáng, mặc dù A đã cắm điện ở đây Việc không có biển cấm và thiếu an toàn khi sử dụng điện đã dẫn đến một tai nạn thương tâm, khi một người từ xã khác không biết về nguy hiểm này đã mất mạng.

Lỗi vô ý do sự tự tin thái quá thường xảy ra khi một người, mặc dù nhận thức được những rủi ro có thể xảy ra, vẫn tin rằng tình huống sẽ an toàn Chẳng hạn, A biết rằng có thể ngăn chặn được hậu quả nhưng vẫn nghĩ rằng ban đêm sẽ không có ai đi qua Dù hiểu rằng hậu quả có thể dẫn đến cái chết, A hoàn toàn không mong muốn điều đó xảy ra.

Ngoài ra, căn cứ vào điểm b khoản 12 Công văn 81/2002/TANDTC có quy định:

Nếu người sử dụng điện gặp tai nạn ở khu vực mà họ cho là an toàn, có sự giám sát và biển báo cảnh báo nguy hiểm, nhưng vẫn dẫn đến cái chết do điện giật, thì họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người.

Từ những phân tích trên, A đã phạm tội vô ý làm chết người( Điều 128 BLHS 2015).

A và B, đồng nghiệp có mâu thuẫn do tính cách khác biệt, đã xảy ra cãi vã trong một cuộc nhậu, dẫn đến việc A dùng chai bia đâm B, khiến B bị thương nặng và phải nhập viện 15 ngày Sau khi ra viện, B mua một con dao dài 15cm và sau 3 ngày đã tìm thấy A đang ngồi uống cà phê B bất ngờ đâm A vào bả vai rồi bỏ chạy, kết quả là A bị cấp cứu nhưng đã tử vong sau 5 ngày do tràn khí phổi do vết thương gây ra.

Hãy xác định tội danh đối với hành vi của B.Giải thích?

B đã phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người(được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 BLHS 2015) Bởi:

Khách thể: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể( sức khoẻ) của anh A.

Chủ thể: Chủ thể thường (B có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.)

+ Hành vi dùng dao (hung khí nguy hiểm) đâm 1 nhát(hành vi không quyết liệt) vào vai (vị trí không phải trọng yếu).

+ Hậu quả: sau 5 ngày A chết.

Hành vi sử dụng dao để đâm một nhát vào vai, mặc dù không phải là hành động quyết liệt và vị trí không trọng yếu, đã gây ra mối quan hệ nhân quả dẫn đến cái chết của A sau 5 ngày.

Mặt chủ quan: B đâm vào vai A , vì mũi dao đâm vào đầu đỉnh phổi phải nên A bị tràn khí phổi dẫn đến chết.

Hỗn hợp lỗi: B cố ý với hành vi gây thương tích cho A nhưng vô ý với hậu quả làm A chết.

Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của Tội vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS)

Dấu hiệu định tội là yếu tố quan trọng để phân biệt các tội phạm trong luật Đối với tội vứt bỏ con mới đẻ theo Điều 124 BLHS 2015, việc định tội chỉ xảy ra khi đứa trẻ mới sinh đã chết Theo Nghị quyết số 04/HĐTPTANDTC/NQ, "con mới đẻ" được hiểu là trẻ sinh ra trong vòng bảy ngày Do đó, trong trường hợp tội vứt bỏ con mới đẻ, nạn nhân phải là đứa trẻ mới sinh, và các đối tượng khác không thuộc phạm vi của tội danh này.

31 Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ được quy định là tình tiết định khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS.

Tình tiết định khung hình phạt là yếu tố quan trọng trong việc xác định mức độ hình phạt cho các tội phạm Đối với hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể người khác, đây không chỉ là tình tiết định khung của Tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015, mà còn là một tội danh cụ thể được quy định tại Điều 154 BLHS 2015 Theo đó, người phạm tội chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác sẽ bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Chủ thể của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS) chỉ là người không có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người

Theo Điều 157 Bộ luật Hình sự 2015, hành vi bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật là dấu hiệu cơ bản cấu thành tội phạm Dấu hiệu trái pháp luật được thể hiện qua các đặc điểm cụ thể liên quan đến tính hợp pháp của hành vi này.

- Người không có thẩm quyền nhưng lại thực hiện việc bắt, giữ, giam người khác.

Người có thẩm quyền thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người nhưng vi phạm quy định pháp luật, như không có lệnh bắt hợp lệ, không tuân thủ biên bản bắt giữ, thiếu người chứng kiến, tạm giam quá thời hạn hoặc bắt sai đối tượng, sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý.

Chủ thể của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo Điều 157 BLHS không chỉ bao gồm những người không có thẩm quyền mà còn cả những người có thẩm quyền thực hiện hành vi này nhưng vi phạm quy định pháp luật.

Đối tượng tác động của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS) chỉ là công chức, viên chức hoặc người lao động của các cơ quan Nhà nước

Theo khoản 1 Điều 162, tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật không chỉ áp dụng cho công chức và viên chức của các cơ quan Nhà nước, mà còn bao gồm tất cả người lao động Đối tượng ở đây là cá nhân có mong muốn và tham gia trực tiếp vào việc xác lập và thực hiện quan hệ pháp luật giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 BLHS)

Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng xảy ra khi một người đã có vợ hoặc chồng kết hôn hoặc sống chung như vợ chồng với người khác, hoặc khi người chưa có vợ, chồng thực hiện hành vi tương tự Hành vi này sẽ bị xử phạt hành chính nếu đã vi phạm trước đó hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng Quy định về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng được nêu rõ tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015.

Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi chỉ quy định trong cấu thành Tội loạn luân được quy định tại Điều 184 BLHS

Nếu hành vi giao cấu giữa các bên là đồng thuận, nhưng diễn ra với trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi, thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Loạn luân Thay vào đó, hành vi này sẽ bị truy cứu về tội Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015.

A và B cùng đi săn thì A nhìn thấy một con gà rừng và chuẩn bị bắn B phát hiện có người đang bẻ măng gần đó nên ngăn A lại, lo lắng rằng nếu bắn sẽ trúng người Tuy nhiên, A tự tin vào khả năng bắn súng của mình và khẳng định chưa bao giờ bắn trượt Thế nhưng, bất ngờ xảy ra khi A bóp cò và đạn lại trúng vào người bẻ măng.

Hãy xác định A phạm tội gì nếu: a Nạn nhân chết;

Trong trường hợp này, A phạm tội vô ý làm chết người (lỗi quá tự tin ) theo Điều 128 BLHS

+ Xâm phạm quyền được sống của người bẻ măng

+ Đối tượng tác động: người bẻ măng.

- Chủ thể: A có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

Hành vi vô ý làm chết người xảy ra khi một người sử dụng súng để bắn gà nhưng lại không cẩn thận, dẫn đến việc bắn trúng một người đang bẻ măng Hậu quả của hành động này là làm cho nạn nhân tử vong, trong khi đó, một số người khác cũng bị thương nặng.

Theo Điều 138 BLHS 2015, cần xem xét mức độ tổn thương cơ thể của nạn nhân Nếu tổn thương từ 31% trở lên, A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý gây thương tích do lỗi tự tin quá mức Ngược lại, nếu tổn thương dưới 31%, A sẽ không bị coi là phạm tội.

+ Xâm phạm quyền được bảo vệ tính mạng của người bẻ măng

+ Đối tượng tác động: người bẻ măng.

- Chủ thể: A có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

+ Hành vi: vô ý gây thương tích cho người bẻ măng do dùng súng bắn gà nhưng lại vô ý bắn trúng người bẻ măng.

+ Hậu quả: làm người bẻ măng bị thương nặng. c Nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21%.

Theo Khoản 1 Điều 138 BLHS 2015, hành vi gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác do lỗi vô ý sẽ bị xử lý nếu tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên Điều này có nghĩa là chỉ những trường hợp gây ra thương tích nghiêm trọng mới bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Trong trường hợp A vô ý gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21%, A sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý gây thương tích.

Ông M và bà H đã kết hôn được 30 năm nhưng không có con chung Ông M thường xuyên vắng nhà, khiến cuộc sống của bà H trở nên tẻ nhạt và khổ sở Khi phát hiện ông M có vợ bé và con chung với người này, bà H cảm thấy cuộc sống của mình như địa ngục Vào sinh nhật thứ 53 của bà, ông M trở về và đưa cho bà tờ đơn xin ly hôn Bà H, trong nước mắt, bày tỏ nỗi đau và sự thất vọng, tuyên bố rằng bà sẽ không ký và thậm chí còn muốn chết để ông M có thể tự do Tuy nhiên, ông M chỉ lạnh lùng yêu cầu bà ký vào đơn để hoàn tất thủ tục ly hôn.

Bà H đã nhảy từ cửa sổ tầng 5 chung cư T, dẫn đến cái chết do chấn thương sọ não Ông M, người ngồi yên trên ghế salon, hiện đang bị công an tạm giữ để điều tra nguyên nhân cái chết của bà H Cần xác định xem ông M có liên quan đến hành động của bà H hay không, và nếu có, ông có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh nào.

=> Trả lời: Ông M phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng được quy định tại Điều 132 BLHS 2015 Cụ thể:

Ông M có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ điều kiện để cứu bà H, khi khoảng cách giữa vị trí ngồi của ông và thành cửa sổ chỉ là 5m.

- Khách thể: tính mạng của bà H.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý gián tiếp

Ông M đã không thực hiện nghĩa vụ cứu giúp bà H, mặc dù có đủ khả năng và điều kiện để làm điều đó Cụ thể, ông M vẫn ngồi yên ở ghế salon mà không có bất kỳ hành động nào, trong khi khoảng cách giữa ông và cửa sổ chỉ là 5m.

+ Hậu quả: bà H “vỡ hộp sọ và chết”.

+ Mối quan hệ nhân quả: ông M không giữ bà H mà mặc cho bà H nhảy qua cửa sổ dẫn đến việc bà H chết.

A và B là vợ chồng có một bé trai 8 tháng tuổi, nhưng cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn A thường xuyên say xỉn và có hành vi bạo lực đối với B và con Vào đêm 29/7, sau khi đi nhậu về, A đã đánh đập và chửi bới B, thậm chí còn vứt quần áo và đuổi hai mẹ con ra khỏi nhà trong cơn mưa bão B đã khóc lóc van xin A mở cửa, nhưng không nhận được sự đồng cảm.

Trong một tình huống đau lòng, chị B quyết định nhảy xuống sông tự sát cùng con do quá tuyệt vọng, nhưng chỉ có ông X, người đi ngang qua, nhảy xuống cứu chị B Tuy nhiên, cháu C đã không may mắn và chết do ngạt nước Vấn đề đặt ra là liệu có ai phạm tội trong sự việc này hay không, và nếu có, lý do nào dẫn đến việc đó.

Trong tình huống trên hành vi trái pháp luật của A cấu thành tội bức tử căn cứ pháp lý điều 130 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017

Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được bảo vệ bởi luật hình sự, và trong trường hợp này, ông A đã xâm hại đến sức khỏe, tính mạng và quyền sống của B.

- Đối tượng tác động: là mẹ con bà B gồm bà B và C ( 8 tháng tuổi)

- Mặt khách quan của tội phạm:

Hành vi của A thể hiện sự bạo lực gia đình nghiêm trọng khi thường xuyên say xỉn và đánh đập mẹ con chị B Vào đêm 29/7, sau khi đi nhậu về, A không chỉ chửi bới mà còn vứt quần áo, đuổi hai mẹ con ra khỏi nhà mặc cho thời tiết mưa bão Hành động này vi phạm nghiêm trọng các quy định của Luật hình sự về bảo vệ quan hệ xã hội, thể hiện sự tàn ác, ngược đãi và thường xuyên ức hiếp, làm nhục người phụ thuộc là chị B và con gái mới 8 tháng tuổi.

+ Hậu quả: chị B bế con ra bờ sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát.

Hành vi bạo lực và chửi mắng đối với chị B, cùng với việc đuổi mẹ con chị ra khỏi nhà, đã dẫn đến quyết định bi thảm của chị khi bế con ra bờ sông tự sát, khiến cháu C tử vong do ngạt nước.

Những nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao?

Hành vi khách quan của các tội phạm quy định trong Chương các tội xâm phạm sở hữu chỉ là hành vi chiếm đoạt tài sản

Hành vi khách quan của tội xâm phạm quy định trong Chương các tội phạm sở hữu bao gồm không chỉ việc chiếm đoạt tài sản mà còn các hành vi như chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 BLHS), sử dụng trái phép tài sản (Điều 177 BLHS), hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS), và hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180 BLHS).

Rừng chỉ là đối tượng tác động của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

Nhận định sai Cspl: Điều 243 BLHS 2015.

Rừng không chỉ bị ảnh hưởng bởi các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế theo Chương XVIII BLHS 2015, mà còn là mục tiêu của các tội phạm về môi trường Cụ thể, tội hủy hoại rừng được quy định tại Điều 189 của Bộ luật này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng trong bối cảnh bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Không phải mọi loại tài sản bị chiếm đoạt đều là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu

Đối tượng tác động của tội xâm phạm sở hữu chủ yếu là tài sản, nhưng không phải mọi loại tài sản bị chiếm đoạt đều thuộc phạm vi này Để tài sản trở thành đối tượng của tội xâm phạm sở hữu, nó cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất định.

Để một vật trở thành đối tượng tác động của tội phạm xâm phạm sở hữu, vật đó cần phải không có tính năng đặc biệt, chẳng hạn như ma túy hoặc vũ khí quân dụng.

Mọi hành vi đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản đều cấu thành Tội cướp tài sản (Điều

5 Mọi hành vi đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản đều cấu thành Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS).

Theo Điều 168 BLHS 2015, Tội cướp tài sản được cấu thành khi có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay lập tức Nếu hành vi đe dọa không diễn ra ngay tức khắc mà nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, thì sẽ cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản.

Dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến hậu quả chết người là hành vi cấu thành cả

Khi người phạm tội có ý định cướp tài sản và đồng thời mong muốn gây ra cái chết cho nạn nhân bằng vũ lực, họ sẽ bị xử lý theo cả hai tội danh: Tội cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự và Tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Nếu người phạm tội chỉ có ý định cướp tài sản nhưng vô tình gây ra hậu quả chết người, thì hành vi này chỉ cấu thành tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 BLHS Hậu quả chết người sẽ được xem là tình tiết tăng nặng “làm chết người” theo điểm c khoản 4 Điều 168 BLHS.

Lúc 6 giờ sáng, T gặp cháu N (8 tuổi), đang đứng trong vườn mận Thấy N đeo sợi dây chuyền vàng nên y chợt nảy ý định chiếm đoạt Quan sát chung quanh không có ai, T bước qua mé mương lấy một khúc cây còng lớn bằng cổ tay Cầm khúc cây trên tay, T nhanh bước đến phía sau lưng cháu N và vung tay đập mạnh vào đầu cháu N làm cháu té xuống đất Cháu N la lên kêu cứu thì T tiếp tục đánh vào đầu cháu N cái thứ hai khiến N bất tỉnh T lấy sợi dây chuyền trên cổ của cháu N Kế đó, T ôm cháu N dìm xuống mương, nhận xác cháu xuống bùn Sợi dây chuyền T bán được 775.000 đồng Vụ việc được phát hiện nhanh chóng T bị bắt giữ

Hãy xác định tội danh đối với hành vi của T

T phạm tội tội cướp tài sản theo Điều 168 BLHS và tội giết người theo Điều 123 BLHS.

 Đối với tội cướp tài sản

+Xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền bất khả xâm phạm tính mạng,sức khoẻ của N.

+ Đối tượng tác động: sợi dây chuyền vàng, nạn nhân N.

+ Hành vi: T dùng vũ lực ngay tức khắc khiến cho N bất tỉnh để chiếm đoạt sợi dây chuyền vàng của N.

+ Hậu quả: N bị chiếm đoạt sợi dây chuyền, N chết.

+Lỗi cố ý trực tiếp: T biết được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện đến cùng.

+Mục đích: nhằm chiếm đoạt sợi dây chuyền của N.

Chủ thể: T là chủ thể thường( đủ NLHVDS+ đạt độ tuổi luật định).

Từ các dấu hiệu trên T đã phạm tội cướp tài sản theo khoản 4 Điều 168 BLHS 2015.

 Đối với tội giết người theo điểm e khoản 1 Điều 123 BLHS 2015.

+ Xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ.

+ Đối tượng tác động: Nạn nhân bé N.

+ Hành vi: T dùng khúc cây đánh vào đầu(đầu là vùng trọng yếu), hành vi quyết liệt ( 2 lần đánh vào đầu N).

+ Mối quan hệ nhân quả: Hành vi dùng vũ lực của T tấn công vào đầu bé N đã dẫn đến việc bé N chết.

+ Lỗi cố ý: T biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện cho đến cùng.

Chủ thể: T là chủ thể thường.

=>Như vậy T đã phạm hai tội gồm:giết người theo điểm e khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 và tội cướp tài sản theo khoản 4 Điều 168 BLHS 2015.

Ông X, 45 tuổi, đã có vợ con nhưng vẫn lén lút quan hệ với A, 29 tuổi Sau một thời gian, A quyết định chiếm đoạt tài sản của ông X và bàn bạc với anh trai B về kế hoạch Khi A và ông X đang ở trong nhà nghỉ, B xông vào, tự nhận là chồng của A và tấn công ông X Ông X cầu xin B tha thứ, nhưng B yêu cầu ông X phải đưa cho

Ông X bị B ép buộc phải bồi thường danh dự 300 triệu đồng, nhưng khi không đồng ý, ông X bị B đánh và bị cướp toàn bộ tài sản trị giá 30 triệu đồng B tiếp tục đe dọa ông X bằng cách chụp hình ông và A, yêu cầu 250 triệu đồng nếu không sẽ gửi những hình ảnh đó cho gia đình ông Ông X đã đồng ý và hẹn sẽ đưa tiền sau mười ngày, nhưng vụ việc đã bị phát giác.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?

Theo nhóm, hành vi của A và B là hành vi phạm tội Và Phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều

170 và tội cướp tài sản theo Điều 168 BLHS.

 Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 BLHS

- Khách thể: Quyền sở hữu và quyền nhân thân ông X

- Đối tượng tác động: ông X và tài sản ông X.

- Chủ thể: Chủ thể thường

A và B đã lập kế hoạch chiếm đoạt tài sản của ông X bằng cách uy hiếp tinh thần ông Họ đã chụp ảnh ông X cùng với A và đe dọa sẽ gửi những bức ảnh này cho vợ con của ông nếu ông không đưa 250 triệu đồng A và B là đồng phạm trong hành vi này.

+ Lỗi cố ý trực tiếp: A và B biết hành vi của mình là trái pháp luật thấy trước hậu quả nhưng vẫn mong hậu quả xảy ra.

+ Mục đích: nhằm chiếm đoạt tài sản trị giá 250 triệu đồng của X.

 Tội cướp tài sản theo Điều 168.

- Khách thể: Quyền sở hữu và quyền nhân thân X

-ĐTTĐ: ông X và tài sản của X

- Chủ thể: chủ thể thường.

Hành vi bạo lực của B đối với ông X đã khiến nạn nhân không thể phản kháng, dẫn đến việc B chiếm đoạt toàn bộ tài sản và tiền bạc trị giá 30 triệu đồng A và B đã có sự đồng thuận và lên kế hoạch thực hiện hành vi này.

+ Lỗi cố ý trực tiếp: A và B biết hành vi của mình là trái pháp luật thấy trước hậu quả nhưng vẫn mong hậu quả xảy ra.

+ Mục đích: nhằm chiếm đoạt tài sản trị giá 30 triệu đồng của X.

A và B lên kế hoạch chiếm đoạt xe gắn máy tại một bãi gửi xe Trong khi A đứng ngoài canh chừng, B vào bãi xe và chọn một chiếc xe SUZUKI để lấy B khởi động xe và phóng nhanh qua nơi kiểm soát, bất chấp sự truy hô của nhân viên kiểm soát vé Cuối cùng, cả hai đã bị bắt giữ.

Hãy xác định A và B phạm tội gì?

A và B phạm tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS 2015, vì:

- Khách thể: Quan hệ xã hội bị xâm hại: quyền sở hữu tài sản. Đối tượng tác động: chiếc xe SUZUKI.

A và B đã công khai thảo luận về việc cướp giật tài sản, cụ thể là xe máy A đứng bên ngoài để canh chừng, trong khi B vào bãi xe lựa chọn chiếc xe SUZUKI Sau khi chọn được xe, B nhanh chóng khởi động và lái đi, bất chấp sự truy hô của người kiểm soát vé.

Hậu quả: làm cho chủ sở hữu chiếc xe SUZUKI mất quyền sở hữu chiếc xe đó.

Phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp (A và B biết hành vi đó là vi phạm pháp luật, thấy trước hậu quả nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra).

- Chủ thể: Chủ thể thường, có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

Công ty X được giao nhiệm vụ vận chuyển container hàng hóa của công ty Y từ cảng Cát Lái về kho của công ty Y Vào chiều ngày 14/3, nhân viên điều động của công ty X nhận 13 phiếu giao nhận container để thực hiện việc vận chuyển Khi về đến công ty, nhân viên này đã giao cho tài xế 3 phiếu và để 10 phiếu lại trên bàn làm việc Trong lúc không có ai, nhân viên A của công ty X đã lợi dụng tình huống để trộm một phiếu giao nhận và đưa cho B.

B thuê xe vào cảng Cát Lái và giả danh nhân viên công ty X để lấy một container hàng xà bông bằng phiếu giao nhận do A cung cấp Sau đó, B bán container hàng này với giá 400 triệu đồng và chia cho A 200 triệu đồng.

Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A và B trong vụ án này và giải thích tại sao?

Theo Điều 174 BLHS 2015, A và B phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong đó A đóng vai trò là người giúp sức và B là người thực hành

A và B bị buộc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do hành vi trái pháp luật của họ đủ điều kiện cấu thành tội danh này.

- Khách thể: quan hệ sở hữu của công ty X

- Đối tượng tác động: một container hàng xà bông

- Chủ thể: A và B có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS

-> Hành vi: B đã tự nhận mình là nhân viên do công ty X điều động rồi dùng phiếu giao nhận do

A đã đưa cho B một container hàng xà bông, và B bán container này với giá 400 triệu đồng, chia cho A 200 triệu đồng Khi B nhận phiếu giao nhận, nhân viên cảng đã tự nguyện chuyển giao container cho B A đã hỗ trợ B bằng cách trộm phiếu giao nhận container và đưa cho B.

Mặt chủ quan của hành vi phạm tội bao gồm lỗi cố ý trực tiếp, trong đó A và B nhận thức rõ rằng hành vi của họ vi phạm pháp luật Họ không chỉ thấy trước những hậu quả nguy hiểm mà còn có mong muốn cho những hậu quả đó xảy ra.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trong Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS) đòi hỏi người phạm tội phải lén lút với tất cả mọi người

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trong Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS) không yêu cầu người phạm tội phải che giấu với tất cả mọi người, mà chỉ cần giấu diếm đối với chủ sở hữu, người có trách nhiệm hoặc người quản lý tài sản Chủ thể này dễ dàng nhận thức được tình trạng và vị trí của tài sản, do đó, đặc trưng của tội trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản một cách bí mật đối với các đối tượng này Trong một số trường hợp, người phạm tội có thể công khai di chuyển tài sản trước người không có trách nhiệm quản lý mà không lo ngại đến việc bị phát hiện.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mà có biểu hiện gian dối là hành vi chỉ cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)

Hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên với biểu hiện gian dối có thể cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS 2015 Cụ thể, người thực hiện thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2 triệu đồng trở lên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự Đồng thời, nếu hành vi chiếm đoạt tài sản dưới 4 triệu đồng được thực hiện thông qua việc vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận tài sản bằng hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt, thì cũng cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS 2015.

Theo Điều 174 Bộ luật Hình sự, hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên với biểu hiện gian dối, nhưng nếu biểu hiện này không dẫn đến việc chiếm đoạt tài sản thì không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Mọi hành vi không trả lại tài sản sau khi đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng mà tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên đều cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS)

4 triệu đồng trở lên đều cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS).

Hành vi không trả lại tài sản sau khi vay, mượn hoặc thuê tài sản của người khác, đặc biệt khi tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên, có thể bị xem là Tội lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản Tội danh này được cấu thành khi người vi phạm sử dụng các thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản.

- Gian đối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản

- Đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện và khả năng để trả nhưng cố tình không trả.

- Sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến tình trạng không có khả năng trả lại

Nếu người vay mượn hoặc thuê tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên và không có khả năng chi trả khi đến hạn, mà không có hành vi bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản, thì hành vi này không bị xem là Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS, mà thuộc về quan hệ pháp luật kinh tế, dân sự.

Cố tình không trả lại cho chủ sở hữu tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên bị giao nhầm là hành vi cấu thành Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 BLHS)

Tài sản trị giá từ 10 triệu đồng trở lên bị giao nhầm được coi là tài sản đã thoát ly khỏi sự quản lý của chủ sở hữu Theo quy định pháp luật, người nhận tài sản giao nhầm có nghĩa vụ trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có thẩm quyền Tuy nhiên, nếu họ cố tình không trả lại tài sản, và chủ sở hữu hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu nhận lại mà vẫn không giao nộp, thì hành vi này có thể cấu thành Tội chiếm giữ trái phép tài sản theo Điều 176 Bộ luật Hình sự.

Nếu một người vô tình nhận được 11 triệu đồng do giao nhầm và không nhận được yêu cầu trả lại từ chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có thẩm quyền, thì họ không bị coi là phạm tội nếu không trả lại số tiền này.

A là một thanh niên thất nghiệp, đã quyết định chiếm đoạt tài sản của người khác khi không còn tiền tiêu xài Tại một ngã tư, A đã cướp dây chuyền của một phụ nữ và bỏ chạy B, một người chứng kiến sự việc, đã đuổi theo A và bị A tấn công bằng dao khi A không còn đường chạy Hành vi của A không chỉ là cướp tài sản mà còn gây thương tích cho B với tỷ lệ tổn thương cơ thể 27% Tội danh đối với A có thể được xác định là cướp giật tài sản và cố ý gây thương tích.

A phạm tội cướp tài sản tại Điều 168 BLHS 2015.

Tội danh của A là cướp tài sản, do hành vi của A đã đủ điều kiện cấu thành tội này khi chuyển hóa từ các hình thức chiếm đoạt khác Cụ thể, nếu A đã chiếm đoạt tài sản nhưng bị người khác lấy lại, và A tiếp tục sử dụng vũ lực hoặc đe dọa để tấn công nhằm chiếm đoạt tài sản, thì đây không chỉ là hành vi tẩu thoát mà là cướp tài sản theo Điều 168 BLHS 2015.

- Khách thể: quan hệ sở hữu của một người phụ nữ và quan hệ nhân thân của B.

- Đối tượng tác động: chiếc dây chuyền và nạn nhân B.

- Chủ thể: A có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS

A đã thực hiện hành vi cướp giật dây chuyền của một phụ nữ một cách công khai và nhanh chóng Sau khi lấy được dây chuyền, A đã bỏ vào miệng và dùng dao đâm vào bụng của B, khiến B không thể chống cự Hành vi này thể hiện sự sử dụng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản.

+ Hậu quả: làm cho chủ sở hữu (người phụ nữ) mất chiếc dây chuyền và B bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể qua giám định là 27%.

+ Lỗi cố ý trực tiếp, cụ thể A biết hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả nguy hiểm nhưng vẫn mong hậu quả đó xảy ra.

+ Mục đích: Chiếm đoạt sợi dây chuyền của người phụ nữ.

A là người sống lang thang, không nghề nghiệp, thấy bà C hay đeo sợi dây chuyền có giá trị,

Vào một buổi tối, A nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản Khi thấy nhà bà C tắt đèn đi ngủ, A đã lén lút cạy cửa vào phòng ngủ Tại đây, A rạch màn và phát hiện bà C còn thức, liền nhanh tay kéo đứt sợi dây chuyền 3 chỉ vàng trị giá 11 triệu đồng của bà rồi bỏ chạy Bà C hô hoán hàng xóm, đuổi theo và đã tóm được A.

Hãy xác định tội danh của A trong các trường hợp sau:

1 A vứt lại sợi dây chuyền, dùng tay đánh mạnh bà C rồi bỏ chạy.

A phạm tội cướp giật tài sản theo điều 171 BLHS 2015.

Hành vi phạm tội của A đã thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cướp giật tài sản theo điểm đ khoản 2 Điều 171 BLHS:

- Khách thể : Xâm phạm đến quyền hữu tài sản là sợi dây chuyền của bà C Đối tượng tác động: tài sản cụ thể là sợi dây chuyền

+ Hành vi: A đưa tay vào kéo đứt sợi dây chuyền 3 chỉ vàng (trị giá 11 triệu đồng) của C, rồi bỏ chạy.

Hành vi của A khi kéo sợi dây chuyền trên cổ bà C và bỏ chạy là hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật Việc này thể hiện rõ ràng sự vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác.

A đã thực hiện hành vi chiếm đoạt một cách công khai và nhanh chóng Trong tình huống này, bà C vẫn tỉnh táo và có khả năng nhận biết hành vi của A, nên bà không gặp phải bất kỳ rắc rối nào.

C hoàn toàn có khả năng ngăn cản hành vi lấy tài sản của A Và sau khi thực hiện hành vi phạm tội A đã nhanh chóng bỏ chạy.

+ Hậu quả: A đã vứt lại sợi dây chuyền đồng nghĩa với việc A đã không thực hiện được mục đích chiếm đoạt sợi dây chuyền của bà C.

- Chủ thể : A là chủ thể thường

Lỗi: A thực hiện hành vi này với lỗi cố ý trực tiếp

A đã có ý định chiếm đoạt trái phép sợi dây chuyền của bà C từ trước, nên đã cạy cửa vào nhà để thực hiện hành vi này Hành động của A là kéo đứt sợi dây chuyền rồi nhanh chóng bỏ chạy, mặc dù A biết rõ tài sản đó không phải của mình Hành vi này thể hiện rõ mục đích chiếm đoạt trái phép tài sản của bà C.

Tội cướp giật tài sản không yêu cầu phải có hậu quả cụ thể, vì vậy A vẫn có thể bị truy cứu dù không lấy được sợi dây chuyền của bà C Sau khi bị phát hiện, A đã đánh bà C với mục đích tẩu thoát, điều này cho thấy A đã có hành vi chống cự lại sự ngăn cản Mặc dù A đã bỏ lại tài sản, nhưng hành vi đánh bà C nhằm mục đích trốn thoát vẫn đủ yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS, với tình tiết tăng nặng do hành hung.

2 A nhanh tay bỏ sợi dây chuyền vào túi quần và rút dao mang sẵn trong người đâm vào ngực bà C làm bà C chết.

Tội cướp tài sản theo Điều 168 BLHS đã có sự chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS, trong khi tội giết người được quy định tại Điều 123 BLHS Việc chuyển đổi này thể hiện sự thay đổi trong cách thức xử lý các hành vi phạm tội liên quan đến tài sản và tính mạng con người.

Quan hệ xã hội của bà C đã bị xâm phạm, bao gồm cả quan hệ nhân thân và quyền sở hữu Cụ thể, mối quan hệ nhân thân của bà C cùng với quyền sở hữu đối với sợi dây chuyền của bà đang gặp phải vấn đề nghiêm trọng.

+ Đối tượng tác động: Bà C và sợi dây chuyền của bà C.

Hành vi của A đã sử dụng vũ lực ngay lập tức để khiến bà C không thể chống cự, nhằm chiếm đoạt tài sản A đã nhanh chóng giật sợi dây chuyền và bỏ vào túi, sau đó rút dao đâm vào ngực bà C Hành vi này không chỉ thể hiện sự tấn công mà còn cho thấy mục đích chiếm đoạt tài sản một cách quyết liệt Do đó, tội danh của A đã được chuyển hóa thành Tội cướp tài sản, phản ánh mức độ nguy hiểm cao hơn của hành vi phạm tội.

Chủ thể: A là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

A có lỗi cố ý trực tiếp trong hành vi của mình, nhận thức rõ rằng hành động của mình gây nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả xâm phạm quyền nhân thân cũng như quyền sở hữu tài sản của bà C Mặc dù vậy, A vẫn mong muốn hậu quả này xảy ra với mục đích chiếm đoạt sợi dây chuyền của bà C Hành vi này liên quan đến tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự.

+ Quan hệ xã hội bị xâm phạm: Quyền được sống, được bảo vệ về tính mạng của bà C. + Đối tượng tác động: Con người đang sống – bà C.

A đã thực hiện hành vi giết người khi cướp sợi dây chuyền của bà C Sau khi cướp, A đã rút dao và đâm vào ngực bà C, gây thương tích nghiêm trọng ở vị trí trọng yếu, dẫn đến cái chết của bà.

+ Mối quan hệ nhân quả: hành vi rút dao mang sẵn trong người đâm vào ngực bà C là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của bà C.

Chủ thể: Chủ thể thường, A có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Mang trái phép vật có giá trị lịch sử, văn hóa qua biên giới chỉ là hành vi cấu thành Tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới (Điều 189 BLHS)

Theo Điều 4 Luật Di sản văn hóa 2001, di vật được định nghĩa là những vật có giá trị lịch sử, văn hóa Do đó, việc vận chuyển trái phép di vật qua biên giới không chỉ vi phạm quy định về di sản văn hóa mà còn cấu thành Tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới theo điểm b khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự.

Năm 2015, nếu mục đích không chỉ là vận chuyển mà còn liên quan đến việc mua bán những vật phẩm có giá trị lịch sử và văn hóa, thì hành vi này có thể vi phạm Tội buôn lậu theo điểm b khoản 1 Điều 188 Bộ luật Hình sự 2015.

Hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơn so với tiêu chuẩn chất lượng đã đăng kí, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa là hàng giả

đã đăng kí, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa là hàng giả.

Theo Nghị định 98/2020/NĐ-CP, hàng giả được định nghĩa là hàng hóa có ít nhất một chỉ tiêu chất lượng, đặc tính kỹ thuật hoặc định lượng chất chính đạt dưới 70% so với mức tối thiểu quy định trong quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố hoặc ghi trên nhãn, bao bì.

Hàng hóa được coi là hàng giả khi có định lượng chất chính tạo nên giá trị sử dụng chỉ đạt từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì.

Hàng giả chỉ là đối tượng tác động của các tội phạm được quy định tại điều 192, 193, 194,

Hành vi vi phạm pháp luật về hàng giả có thể được phân loại thành hai dạng: hàng giả về nội dung và hàng giả về hình thức Hàng giả về nội dung là những sản phẩm không có giá trị sử dụng hoặc công dụng, được quy định tại các điều 192, 193, 194, 195 của Bộ luật Hình sự 2015 Trong khi đó, hàng giả về hình thức liên quan đến việc giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý, theo quy định tại điều 226 của Bộ luật Hình sự.

2015 về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

Như vậy hàng giả không chỉ là đối tượng tác động của các tội phạm được quy định tại điều

Không phải mọi trường hợp trốn thuế từ 100 triệu đồng trở lên đều cấu thành Tội trốn thuế được quy định tại điều 200 BLHS

Tội trốn thuế là hành vi giảm số thuế phải nộp cho Nhà nước bằng các phương thức trái phép Theo Điều 200 Bộ Luật Hình Sự, hành vi này chỉ cấu thành tội phạm khi số tiền trốn thuế từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về trốn thuế, hoặc đã từng bị kết án về tội này hoặc các tội liên quan theo các điều từ 188 đến 250.

251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội trốn thuế.

Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước qui định tại Điều 203

Mua bán trái phép hóa đơn và chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo Điều 203 BLHS không chỉ đơn thuần là việc giao dịch hóa đơn chưa ghi nội dung hoặc ghi không đầy đủ, không chính xác Ngoài những hành vi này, còn tồn tại nhiều hành vi vi phạm khác liên quan đến việc mua bán hóa đơn.

 Mua, bán hóa đơn đã ghi nội dung nhưng không có hàng hóa đính kèm.

Mua bán hóa đơn giả, hóa đơn không còn giá trị sử dụng hoặc hết hạn là hành vi vi phạm pháp luật Những hóa đơn này thường được sử dụng để hợp thức hóa hàng hóa và dịch vụ, nhằm lừa đảo trong quá trình kinh doanh Việc sử dụng hóa đơn từ các cơ sở kinh doanh không liên quan để cấp cho khách hàng cũng là một hình thức gian lận trong thương mại.

 Mua bán hóa đơn có chênh lệch về giá trị hàng hóa dịch vụ giữa các liên hóa đơn

Mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt Nam đều cấu thành Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226 BLHS)

Chỉ những hành vi chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại, thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu hàng hóa đến mức độ nhất định mới cấu thành Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Do đó, không phải tất cả hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam đều được xem là Tội phạm theo Điều 226 BLHS.

Mọi hành vi thải vào nguồn nước các chất gây ô nhiễm môi trường thì cấu thành Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235 BLHS)

ô nhiễm môi trường (Điều 235 BLHS).

Cơ sở pháp lý: Điều 235 BLHS 2015

Không phải tất cả các hành vi thải chất gây ô nhiễm vào nguồn nước đều cấu thành Tội gây ô nhiễm môi trường theo Điều 235 BLHS Chỉ những hành vi thải chất ô nhiễm ở mức độ nghiêm trọng, làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng khác mới được coi là tội phạm Đây là dấu hiệu cơ bản để xác định tội danh này, do đó, nhận định trước đó là không chính xác.

Trong vụ án này, B đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của M bằng cách lợi dụng sự tin tưởng của M để lấy xe gắn máy Sau khi được M cho đi nhờ xe, B đã vờ đánh rơi cặp xách để M dừng lại nhặt giúp, từ đó B đã nhanh chóng phóng xe đi mất Hành vi này cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật, vì B đã có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối Việc B bị bắt cùng tang vật là chiếc xe gắn máy trị giá 20 triệu đồng càng củng cố thêm cho tội danh này.

B phạm tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS 2015

- Khách thể: xâm phạm quyền sở hữu xe máy của M, quyền nhân thân của M.

- Đối tượng tác động: xe máy của M.

- Chủ thể: B có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

B đã giả vờ đánh rơi cặp sách và nhờ M nhặt giúp để tạo cơ hội chiếm đoạt chiếc xe máy của M Trong lúc M đang bận nhặt cặp sách, B đã nhanh chóng phóng xe đi, cho thấy hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai và nhanh chóng.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp.

A là chủ một xe chở xăng dầu, đã ký hợp đồng vận chuyển dầu cho nhà máy sản xuất bột ngọt T.H Sau vài lần vận chuyển, A đã học được cách bớt dầu bằng cách rút ra vài trăm lít dầu khi đến điểm thu mua của B và thay thế bằng nước có trọng lượng tương đương Khi giao dầu, xe được cân đúng trọng lượng quy định, nhưng A đã bí mật đổ nước đi để chỉ còn trọng lượng của xe Qua thủ đoạn này, A đã thu lợi từ việc vận chuyển dầu với tổng trị giá 38.565.000 đồng trước khi bị phát hiện.

Hãy xác định tội danh trong vụ án này.

A phạm Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS 2015.

- Khách thể: Xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của nhà máy sản xuất bột ngọt T.H.

- Đối tượng tác động: xăng dầu.

- Chủ thể: A có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

A đã thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản trị giá 38.565.000 đồng thông qua việc ký hợp đồng vận chuyển dầu cho nhà máy sản xuất bột ngọt T.H.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp.

Công ty bảo vệ thực vật A đã nhập khẩu 32 tấn nguyên liệu thuốc trừ sâu BPMC từ nước ngoài với hàm lượng khai báo là 97%, nhưng qua kiểm định của Trung tâm kiểm định thực vật phía Nam, hàm lượng thực tế chỉ đạt 94,6% Hành vi này giúp Công ty A tránh được việc nộp thuế 10% theo mã thuế đúng, dẫn đến việc công ty này tiết kiệm được 1 tỷ 450 triệu đồng.

Hãy xác định tội danh trong vụ án này.

Hành vi của Công ty A đã đủ để cấu thành tội trốn thuế tại Điều 200 BLHS.

- Chủ thể của tội phạm: Công ty A là pháp nhân đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự

- Khách thể của tội phạm: xâm phạm chính sách thuế của Nhà nước, làm thất thu ngân sách

- Mặt khách quan của tội phạm:

Công ty A đã nhập khẩu 32 tấn nguyên liệu sản xuất thuốc trừ sâu BPMC với hàm lượng khai báo 97%, nhưng qua kiểm định, hàm lượng thực tế chỉ đạt 94,6% Hành vi này giúp công ty tránh phải nộp thuế 10% theo mã thuế đúng, vi phạm quy định tại điểm e khoản 1 Điều 200 Bộ luật Hình sự.

+ Hậu quả: Công ty A tránh được việc nộp thuế với trị giá 1 tỷ 450 triệu đồng, đồng nghĩa ngân sách Nhà nước sẽ thất thu 1 tỷ 450 triệu đồng.

Công ty A đã khai báo sai hàm lượng thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến việc tránh né nghĩa vụ nộp thuế, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước lên tới 1 tỷ 450 triệu đồng.

- Mặt chủ quan của tội phạm: lỗi cố ý trực tiếp

Lực lượng trinh sát đã bắt quả tang A đang vận chuyển 200 gói bột ngọt mang nhãn hiệu Thai Fermentation Ind, có nguồn gốc từ Trung Quốc A thừa nhận đã đóng gói bột ngọt này và bán ra thị trường dưới các nhãn hiệu khác như Ajinomoto, Miwon và A-one, tổng cộng lên tới 8 tấn, trị giá 300 triệu đồng Kết quả giám định cho thấy bột ngọt Trung Quốc chỉ đạt 60% chất lượng theo tiêu chuẩn nhà nước Từ những hành vi này, A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.

A đã bị truy tố với tội danh sản xuất và buôn bán hàng giả liên quan đến lương thực, thực phẩm và phụ gia thực phẩm theo Điều 193, cùng với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo Điều 226.

- Khách thể: Trật tự kinh tế về buôn bán hàng hóa, sản phẩm thị trường và xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng

- Đối tượng tác động: Hàng giả là chất phụ gia thực phẩm (Bột ngọt)

- Chủ thể: A là chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định – Chủ thể thường

Hành vi của A liên quan đến việc mua bột ngọt xuất xứ từ Trung Quốc và đóng gói lại dưới các nhãn hiệu như Ajinomoto, Miwon, A-one, Thai Fermentation Ind,… để bán ra thị trường với tổng khối lượng 8 tấn, tương đương giá trị hàng thật là 300 triệu đồng Theo Điều 3 Nghị định 98/2020, hàng giả được định nghĩa là hàng hóa có giá trị sử dụng hoặc công dụng không đúng với nguồn gốc tự nhiên, tên gọi của hàng hóa, hoặc không có giá trị sử dụng, công dụng đúng như đã công bố hoặc đăng ký.

Hàng hóa có hàm lượng hoạt chất thấp hơn 70% so với mức tối thiểu quy định trong quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký và công bố sẽ không đạt yêu cầu.

+ Mục đích: Vì mục đích kinh doanh Đối với Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.

- Khách thể: Xâm phạm trật tự quản lý Nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

- Đối tượng tác động: các nhãn hiệu Ajnomoto, Miwon, A-one, Thai Fermentation Ind,…

- Chủ thể: A là chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định – Chủ thể thường

Hành vi vi phạm liên quan đến việc đóng gói 200 gói bột ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc dưới nhãn hiệu Thai Fermenttiom Ind.Co;Ltd Cụ thể, các đối tượng đã mua bột ngọt từ Trung Quốc và đóng gói vào bao bì mang nhãn hiệu Ajinomoto, Miwon, A-one, và Thai Fermenttiom Ind.Co;Ltd, với tổng khối lượng lên tới 8 tấn Giá trị hàng hóa giả mạo này ước tính khoảng 300 triệu đồng.

+ Mục đích: Vì mục đích kinh doanh

Trồng cây thuốc phiện, dù đã được giáo dục nhiều lần, vẫn sẽ bị coi là vi phạm pháp luật Theo Điều 247 Bộ luật Hình sự, hành vi này cấu thành Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma túy.

CSPL: Điểm a khoản 1 Điều 247 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017

Người trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây chứa chất ma túy chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đã được giáo dục từ hai lần trở lên và đã có điều kiện ổn định cuộc sống.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới là hành vi cấu thành Tội buôn lậu (Điều

Hành vi buôn lậu theo Điều 188 BLHS chỉ áp dụng cho hàng hóa thông thường, được phép lưu thông Trong khi đó, chất ma túy là hàng cấm và không được phép lưu thông Do đó, việc mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới không thể bị coi là tội buôn lậu, mà sẽ bị truy cứu theo Tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 251 BLHS.

Người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy biết bản thân họ đã nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người sử dụng chất ma túy thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tình tiết định khung tăng nặng “gây bệnh nguy hiểm cho người khác” (điểm g khoản 2 Điều 255 BLHS)

tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tình tiết định khung tăng nặng “gây bệnh nguy hiểm cho người khác” (điểm g khoản 2 Điều 255 BLHS)

Theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 255 BLHS, tình tiết tăng nặng yêu cầu chủ thể không biết hoặc có thể biết về việc gây ra bệnh nguy hiểm cho người khác Tuy nhiên, hành vi lây truyền HIV của người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi có lỗi cố ý, tức là họ nhận thức được nguy hiểm nhưng vẫn thực hiện Do đó, ngoài việc bị xử phạt về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, họ còn phải chịu trách nhiệm về Tội cố ý truyền HIV cho người khác theo Điều 149 BLHS.

Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ cấu thành Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 256 BLHS)

sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 256 BLHS).

Việc chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ vi phạm Điều 256 BLHS 2015 mà còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 255 BLHS 2015 nếu người cho thuê hoặc cho mượn địa điểm biết rõ rằng địa điểm đó sẽ được sử dụng để tổ chức việc sử dụng trái phép chất ma túy Hành vi này, dù chỉ nhằm thỏa mãn bản thân, vẫn có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý nghiêm trọng.

A có một cửa hàng bán phụ liệu ngành may, được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và mức thuế khoán từ Chi cục Thuế Quận X Trong 2 năm, A đã mua 32 quyển hóa đơn bán hàng, nhưng khi đang sử dụng quyển cuối cùng thì bị phát hiện vi phạm Nhiều khách hàng yêu cầu A ghi hóa đơn với số lượng lớn hơn hoặc nhờ ghi khống hóa đơn A đã đồng ý và thu 5% trên tổng số tiền ghi thêm vào hóa đơn Kết quả, A đã ghi khống 327 hóa đơn với tổng số tiền 1,75 tỷ đồng, thu lợi bất chính 87,5 triệu đồng.

Anh (chị) hãy xác định: Hành vi trên của A có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?

Hành vi của A vi phạm pháp luật liên quan đến in, phát hành và mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo Điều 203 Bộ luật Hình sự Đối tượng bị tác động trong vụ việc này là hóa đơn bán hàng do Nhà nước phát hành, cụ thể là hóa đơn do Ủy ban Nhân dân quận X cấp.

Khách thể: xâm phạm đến quan hệ nhà nước về quản lý thuế

Hành vi ghi hóa đơn bán hàng trái phép cho nhiều khách hàng, làm giả hóa đơn, ghi sai nội dung hóa đơn và ghi hóa đơn khống nhằm mục đích mua bán trái phép hóa đơn chứng từ để thu lợi bất chính là vi phạm pháp luật Mặc dù biết rõ những hành động này là sai trái, A vẫn tiếp tục thực hiện để thu về lợi nhuận không hợp pháp từ việc mua bán hóa đơn.

- A đã ghi khống tổng cộng 327 hóa đơn với số tiền 1,75 tỷ đồng, thu lợi bất chính 87,5 triệu đồng.

Mặt chủ quan: Lỗi có ý trực tiếp

Chủ thể: A có đủ năng lực chịu trách nhiệm dân sự và đủ tuổi.

A đã thuê người chặt phá 4,6 ha rừng sản xuất tự nhiên tại bản Khe Dây, thuộc quản lý của UBND xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh, nhằm chiếm đất trồng keo lai Hành vi này ước tính gây thiệt hại cho nhà nước gần 300 triệu đồng.

Theo anh (chị) A và B có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?

Trong trường hợp A là cán bộ quản lý khu rừng sản xuất tự nhiên, người này có trách nhiệm bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, đồng thời thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý rừng Công việc của cán bộ quản lý không chỉ dừng lại ở việc giám sát mà còn bao gồm việc lập kế hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên rừng, đảm bảo sự bền vững cho môi trường và cộng đồng xung quanh.

Với trường hợp này, A phạm Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản của Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219 BLHS 2015)

- Khách thể: xâm phạm chế độ quản lý, quyền sử dụng đất rừng sản xuất của UBND xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh.

- Đối tượng tác động: 4,6 ha rừng thuộc khu rừng sản xuất tự nhiên thuộc sự quản lý của UBND xã.

- Chủ thể: A là chủ thể đặc biệt, là cán bộ của UBND cấp xã, người được Nhà nước giao quản lý, tài sản của Nhà nước.

+ Hành vi: A có hành vi trái pháp luật, thuê người chặt phá 4,6 ha rừng sản xuất tự nhiên. + Hậu quả: làm thất thoát của Nhà nước gần 300 triệu đồng

+ Lỗi: Hành vi của A là lỗi cố ý trực tiếp Dù A biết đó là tài sản do Nhà nước quản lý, thế nhưng vẫn thuê người chặt phá.

+ Mục đích: Tư lợi cá nhân, chiếm đất trồng keo lai.

Dựa trên các yếu tố phân tích đã nêu, có đủ cơ sở để xác định A đã vi phạm Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước, dẫn đến tình trạng thất thoát và lãng phí theo Điều 219 Bộ luật Hình sự.

B là người được A thuê để chặt phá rừng, nhưng vì B là chủ thể thường, nên B không chỉ là đồng phạm mà còn phạm tội hủy hoại rừng theo Điều 243 Bộ luật Hình sự 2015.

Hành vi xâm phạm đến chế độ quản lý rừng của Nhà nước, đặc biệt là việc vi phạm quy định quản lý rừng của UBND xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh, cần được xử lý nghiêm khắc để bảo vệ tài nguyên rừng và duy trì sự bền vững của môi trường.

- Đối tượng tác động: 4,6 ha rừng thuộc khu rừng sản xuất tự nhiên thuộc sự quản lý của UBND xã.

- Chủ thể: B là chủ thể thường, có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

- Mặt khách quan: Có hành vi chặt phá 4,6 ha rừng sản xuất tự nhiên.

- Hậu quả: làm thất thoát của Nhà nước gần 300 triệu đồng.

Hành vi của B được xác định là lỗi cố ý trực tiếp, vì B nhận thức rõ rằng diện tích đất rừng là thuộc quyền quản lý của Nhà nước và việc chặt phá rừng là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng B vẫn quyết định thực hiện hành động này.

+ Mục đích: Tư lợi cá nhân, nhận tiền công từ A.

B đã vi phạm Tội hủy hoại rừng theo Điều 243 Trong trường hợp A và B là các chủ thể thường, không có khả năng quản lý Nhà nước, cả hai đều phạm Tội hủy hoại rừng theo quy định tại Điều 243 Bộ luật Hình sự.

Các dấu hiệu pháp lý định tội như dấu hiệu pháp lý định tội của B được phân tích tại trường hợp

Vào tuổi 17, A bị bắt quả tang khi đang mang theo 3 tép heroin với tổng trọng lượng 0,155 gam Trong trường hợp A là con nghiện và mua heroin để sử dụng cho bản thân, hành vi này có thể bị xác định là tội phạm liên quan đến ma túy, vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng chất ma túy.

A phạm điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tội xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy, đặc biệt là heroin, gây ra những tác động tiêu cực đến xã hội và sức khỏe cộng đồng Việc vi phạm này không chỉ ảnh hưởng đến người sử dụng mà còn đe dọa an ninh trật tự và sự phát triển bền vững của đất nước.

Hành vi: A có hành vi tàng trữ 0.155gam heroin trong người.

Mục đích: Để sử dụng cá nhân, không nhằm mua bán, vận chuyển, sản xuất.

Chủ thể: Chủ thể thường. b A mua giùm cho người bạn là B đang lên cơn nghiện nhờ mua.

A phạm điểm c khoản 1 Điều 250 BLHS về Tội vận chuyển trái phép chất ma túy.

Hành vi xâm phạm các quy định của Nhà nước liên quan đến quản lý chất ma túy, đặc biệt là heroin, là một tội phạm nghiêm trọng Các chất ma túy này không chỉ gây hại cho sức khỏe cộng đồng mà còn ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội Việc tuân thủ các quy định về quản lý chất ma túy là cần thiết để bảo vệ xã hội khỏi những tác động tiêu cực của chúng.

Hành vi: A có hành vi vận chuyển trái phép 0.155gam heroin.

Mục đích: mua giùm B, không nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ.

Chủ thể: Chủ thể thường. c A đang mang đến cho người mua do mẹ A sai.

Nếu A không biết rằng mẹ mình đã giao cho A ma túy để mang đến cho người mua, thì A không bị coi là phạm tội Điều này là do A không thỏa mãn yếu tố chủ quan của tội vận chuyển trái phép chất ma túy, vì lỗi của người vận chuyển phải là lỗi cố ý.

Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia là hành vi chỉ cấu thành Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303 BLHS)

là hành vi chỉ cấu thành Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303 BLHS)

CSPL: Điều 303 và Điều 114 BLHS 2015

Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng các công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia không chỉ vi phạm Tội phá hủy công trình, mà còn có thể cấu thành tội phá hoại cơ sở vật chất kỹ thuật của nước CHXHCNVN theo quy định của pháp luật.

114 BLHS 2015) khi thực hiện hành vi phá hoại này nhằm chống chính quyền nhân dân.

Mọi hành vi gây rối trật tự ở nơi công cộng gây hậu quả nghiêm trọng chỉ cấu thành Tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 BLHS)

Hành vi gây rối trật tự công cộng chỉ cấu thành tội phạm khi:

- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; hoặc

- Đã bị xử phạt VPHC, hoặc

- Đã bị kết án về tội này nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

Nếu có hành vi gây rối trật tự công cộng kèm theo việc làm hư hỏng tài sản, người vi phạm có thể bị truy cứu theo nguyên tắc nhiều tội Cụ thể, họ có thể bị truy cứu theo Điều 178 về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, hoặc Điều 303 về tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia nếu tài sản liên quan thuộc lĩnh vực này.

Tiền dùng để đánh bạc chỉ là tiền được thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc

CSPL: Khoản 3, Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP

Tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc bao gồm: a) số tiền hoặc hiện vật thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc; b) tiền hoặc hiện vật được tìm thấy trong người của các con bạc, với bằng chứng xác định rằng chúng đã hoặc sẽ được sử dụng cho việc đánh bạc; và c) tiền hoặc hiện vật thu giữ tại những địa điểm khác, với đủ căn cứ xác định rằng chúng đã hoặc sẽ được dùng cho mục đích đánh bạc.

Căn cứ xác định tội danh đánh bạc không chỉ dựa vào số tiền thu được tại chiếu bạc, mà còn liên quan đến tài sản cá nhân của từng người Nếu cơ quan chức năng chứng minh được rằng tài sản mang theo sẽ được sử dụng cho mục đích đánh bạc, thì những tài sản này cũng sẽ bị coi là tài sản dùng để đánh bạc.

Mọi hành vi không hứa hẹn trước mà cố ý chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có đều cấu thành Tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 323 BLHS)

có đều cấu thành Tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 323 BLHS)

Hành vi không hứa hẹn trước mà cố ý chứa chấp tài sản do người khác phạm tội có thể không bị coi là Tội chưa chấp tài sản do người khác phạm tội.

Để bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, người chứa chấp phải có đủ các yếu tố, bao gồm việc không hứa hẹn trước và biết rõ nguồn gốc tài sản đó Nếu người chứa chấp không biết rõ tài sản là do phạm tội mà có, tức là không có căn cứ chứng minh tài sản được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc không được mua bán, đổi chác bằng tài sản có được từ người phạm tội, thì họ sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.

20 Mọi trường hợp mua dâm người dưới 18 tuổi đều cấu thành Tội mua dâm người dưới

Người từ 18 tuổi trở lên mua dâm người dưới 18 tuổi sẽ bị phạt tù từ 1 đến 5 năm, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự Nếu hành vi mua dâm liên quan đến người dưới 13 tuổi, sẽ bị truy cứu theo Điều 142 BLHS 2015 thay vì Điều 329 Ngoài ra, người dưới 18 tuổi mua dâm với người cùng độ tuổi cũng không bị coi là chủ thể của tội này.

Sau chiến thắng của đội tuyển bóng đá Việt Nam trong một trận đấu quốc tế, A đã tổ chức một buổi tụ tập cho các thanh niên có xe gắn máy và công bố giải đua xe với phần thưởng hấp dẫn là một chiếc xe Dream.

Cuộc đua "đập thùng" đã thu hút sự tham gia của nhiều thanh niên, với điều kiện các tay đua phải sử dụng xe không thắng Sự kiện này diễn ra ngay trên đường phố, tạo nên không khí sôi động và hấp dẫn cho những người tham gia.

Trong tình huống đám đua xe bị bắt giữ có sự tham gia của A mà không gây ra tai nạn, hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đua xe trái phép Mặc dù không xảy ra tai nạn, nhưng việc tham gia vào các hoạt động đua xe trái phép vẫn vi phạm pháp luật và có thể bị xử phạt theo quy định hiện hành.

Hành vi của A đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm Tội danh của A là tội tổ chức đua xe trái phép theo Điều 265 BLHS 2015.

 Quan hệ xã hội: Xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ và trật tự công cộng.

 Đối tượng tác động: Những người tham gia đua xe.

- Chủ thể: Chủ thể thường: A có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

A đã tổ chức một cuộc đua xe trên đường phố, tập hợp nhiều thanh niên có xe gắn máy tham gia Là người điều hành cuộc đua, A tuyên bố sẽ trao giải thưởng là một chiếc xe Dream “đập thùng” cho người thắng cuộc Điều kiện tham gia là các tay đua phải sử dụng xe không có thắng.

Trong trường hợp đua xe trái phép, nếu không xảy ra tai nạn và chưa từng bị xử lý hành chính, người tham gia sẽ không bị cấu thành tội đua xe trái phép theo Điều 266 BLHS Tuy nhiên, trong quá trình đua, B và C đã không làm chủ được tốc độ, dẫn đến việc tông phải một người phụ nữ đang đi xe đạp cùng chiều, gây ra cái chết do chấn thương sọ não.

Tội danh của B và C là Tội đua xe trái phép theo Điều 266 BLHS 2015.

 Quan hệ xã hội: Xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ và trật tự công cộng.

 Đối tượng tác động: chị phụ nữ đang đi xe đạp cùng chiều.

- Chủ thể: Chủ thể thường: B và C có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

B và C đã tham gia vào một cuộc đua xe trái phép do A tổ chức Trong lúc đua, họ không kiểm soát được tốc độ và đã va chạm với một người phụ nữ đang đi xe đạp cùng chiều.

 Hậu quả: chị này chết vì chấn thương sọ não.

Trong một vụ đua xe trái phép, nhóm đua đã bị lực lượng công an truy đuổi nhưng một số đã chạy thoát theo nhiều ngã khác nhau Trong quá trình bỏ chạy, do không kiểm soát được tốc độ, một chiếc xe đã gây ra tai nạn tại một con phố khác, khiến một người bị thương nặng với tỷ lệ tổn thương cơ thể lên đến 65%.

Tội danh của đám đua xe là Tội đua xe trái phép theo Điều 266 BLHS 2015.

 Quan hệ xã hội: Xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ và trật tự công cộng.

 Đối tượng tác động: một người bị thương 65%.

- Chủ thể: Chủ thể thường: có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

Đám đua xe trái phép do A tổ chức đã gây ra sự việc nghiêm trọng khi nhóm đua bỏ chạy khỏi hiện trường khi bị công an bắt giữ Trong quá trình tháo chạy, các thành viên trong nhóm đã gây thương tích cho người dân tại một đường phố khác do không kiểm soát được tốc độ và phanh xe.

 Hậu quả: làm người này bị tổn thương cơ thể 65%.

- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý.

Vào tối 9/1, A và B đã trèo tường vào khu vực W9B của sân bay Tân Sơn Nhất để tháo trộm các bộ đèn tìm đường băng, nhưng bị lực lượng an ninh phát hiện Tại cơ quan công an, hai đối tượng này khai nhận đã thực hiện ba lần lén lút tháo trộm đèn để lấy nhôm bán Tổng thiệt hại từ ba lần trộm cắp này lên đến 506 triệu đồng.

Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A và B trong vụ án này và giải thích tại sao?

A và B đã phạm Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia quy định tại khoản 1 Điều 303 BLHS 2015.

 Quan hệ xã hội: xâm phạm an toàn công cộng.

 Đối tượng tác động: các bộ đèn đường.

- Chủ thể: A và B đã đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự

 Hành vi: A và B đã tháo trộm đèn tìm đường băng gây mất an toàn bay của sân bay Tân Sơn Nhất

 Hậu quả: thiệt hại 506 triệu đồng.

 Mục đích nhằm kiếm tiền, không nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân.

Vào khoảng 10h, A và B ngồi nhậu tại quán vỉa hè gần trường PTTH X Đến 14h45, A chở B đến trường X để tìm bạn gái P, nhưng P từ chối đi chơi Khi bị bảo vệ nhắc nhở, A đã nẹt pô và rồ ga chạy ra khỏi trường để quay lại quán nhậu Khoảng 15h45, sau khi đã say, A lại chở B quay lại trường X, tiếp tục nẹt pô và rú ga trước dãy phòng học Bảo vệ khóa cổng trường, còn A và B đứng la hét, chửi bới và đe dọa các chú bảo vệ ngay trước dãy phòng học.

A và B đã trèo tường ra ngoài, A mượn búa và rựa với lý do chặt cây Sau khi trở lại trường, họ đã sử dụng công cụ để phá tường rào lưới B40 nhằm lấy xe ra Hành động của họ không chỉ khiến cổng trường hư hỏng, gây thiệt hại 10 triệu đồng, mà còn làm cho các giáo viên và học sinh hoảng sợ, dẫn đến việc phải dừng hai tiết học cuối cùng trong ngày.

Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A, B và giải thích tại sao?

A, B phạm tội Gây rối trật tự công cộng (Điều 318) và tội cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178).

Về tội gây rối trật tự công cộng:

- Khách thể: xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng

Hành vi gây rối trật tự công cộng đã diễn ra khi A điều khiển xe chạy thẳng vào khu vực lớp học Tiếp đó, A nẹt pô và rú ga, phóng xe ra khỏi trường Không dừng lại ở đó, A và B còn la hét, chửi bới và đe dọa các chú bảo vệ ngay trước dãy phòng học.

+ Nơi thực hiện hành vi: trường PTTH X

+ Hậu quả: Gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự khu vực trường học.

- Chủ thể: A và B chủ thể thường

- Mặt chủ quan: A và B thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.

Về tội cố ý làm hư hỏng tài sản:

- Khách thể: xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản Đối tượng tác động: tường rào lưới B40 của trường, cổng trường học.

Dùng vũ lực chống người thi hành công vụ không chỉ cấu thành Tội chống người thi hành công vụ (Điều 330 BLHS)

Theo NQ 04/1986, nếu sử dụng vũ lực gây thương tích trên 11% cho người thi hành công vụ, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe (Điều 134 BLHS 2015) Hành vi này cũng được xem là tình tiết tăng nặng cho Tội chống người thi hành công vụ (Điều 330 BLHS 2015).

Mọi hành vi sửa chữa, làm sai lệch nội dung hộ chiếu đều cấu thành Tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 340 BLHS)

Cơ sở pháp lý điều 340 BLHS 2015 và điều 359 BLHS 2015.

Hành vi sửa chữa và làm sai lệch nội dung hộ chiếu, cùng với việc sử dụng hộ chiếu đó để thực hiện tội phạm, như xuất cảnh trái phép, sẽ bị coi là tội phạm theo điều 340 Bộ luật Hình sự 2015 Nếu người thực hiện hành vi này là người có chức vụ quyền hạn và có động cơ vụ lợi, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 359 Bộ luật Hình sự 2015.

Làm giả giấy tờ của cơ quan, tổ chức là hành vi chỉ cấu thành Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 341 BLHS)

Việc làm giả giấy tờ của cơ quan, tổ chức với mục đích lừa đảo và khiến nạn nhân giao tài sản sẽ bị truy cứu theo Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Hơn nữa, nếu người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sửa chữa hoặc làm sai lệch nội dung hộ chiếu vì động cơ vụ lợi, họ sẽ bị xử lý theo tội giả mạo trong công tác theo Điều 359.

Khoảng 14 giờ, Tâm đang ngủ trưa tại nhà thì có Dân, Hoàng, Nghĩa đến chơi Khi mọi người đang ngồi chơi thì Dân đề xuất mọi người cùng tham gia đánh bạc bằng hình thức

Vào lúc 16 giờ, Tâm cùng mọi người tham gia trò chơi "đánh xóc đĩa" thì bị lực lượng công an bắt quả tang Tang vật thu giữ bao gồm một bát, một đĩa sứ, một hột súc sắc và tổng số tiền 15.000.000 đồng trên chiếu bạc Về vụ án này, có ba quan điểm khác nhau về việc xác định tội danh đối với Tâm: thứ nhất, Tâm phạm tội đánh bạc; thứ hai, Tâm phạm tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc; và thứ ba, Tâm phạm tội đánh bạc và gá bạc.

Theo anh (chị), Tâm phạm tội gì? Tại sao?

=> Theo ý kiến của nhóm, hành vi của Tâm đã cấu thành Tội đánh bạc (Điều 321)

- Khách thể: xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng

- Chủ thể: chủ thể thường - Tâm có đủ NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS

- Mặt khách quan: hành vi tham gia đánh bạc với số tiền thu giữ trên chiếu bạc là 15.000.000 đồng

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp

Hành vi của Tâm không đủ để cấu thành Tội gá bạc theo Điều 322 BLHS 2015, mặc dù Tâm đã tổ chức đánh bạc tại nhà và cung cấp công cụ đánh bạc Quy mô vụ việc chỉ có 4 người tham gia, gồm Tâm, Dân, Hoàng và Nghĩa, chưa đạt mức tối thiểu 10 người theo quy định, do đó không đủ yếu tố cấu thành tội.

A, một gái mại dâm, đã thỏa thuận với B và C về việc mua dâm với giá 200.000 đồng A dẫn B và C đến nhà D, nơi A thuê để hành nghề Sau khi xong việc, B giả vờ quên tiền và yêu cầu về nhà lấy tiền, để lại giấy chứng minh nhân dân (CMND) làm tin Khi A chờ đợi mà không thấy B và C quay lại, A đã đến địa chỉ ghi trên giấy CMND, nhưng người tại đó cho biết anh ta là một thanh niên khác và đã mất giấy CMND.

A tìm kiếm, phát hiện ra chỗ ở của B, C và yêu cầu công an giải quyết về hành vi của B và

C Hãy xác định có tội phạm trong vụ việc này hay không với giả định: a A là người dưới 16 tuổi

- Trường hợp 1: A là người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

+ Hành vi của B, C phạm Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (điểm b khoản 2 Điều 329 BLHS 2015).

+ Khách thể: Xâm phạm đến trật tự xã hội và sự phát triển bình thường về thể chất, lý, tình dục của người chưa thành niên

+ Đối tượng tác động: A (người dưới 18 tuổi)

+ Chủ thể: B, C là chủ thể đặc biệt (đủ 18 tuổi trở lên và đủ NLTNHS)

+ Mặt khách quan: B, C có hành vi dùng tiền để thỏa thuận mua dâm nhằm thực hiện hành vi giao cấu với A

+ Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp

* Tội danh của D là Tội chứa mại dâm (Điều 327 BLHS 2015)

+ Khách thể: Xâm phạm trật tự công cộng, an toàn xã hội, đạo đức, nếp sống văn minh và thuần phong mĩ tục của dân tộc

+ Chủ thể: chủ thể thường - D có NLTNHS đầy đủ và đủ tuổi chịu TNHS

+ Mặt khách quan: D có hành vi cho A thuê chỗ để hành nghề mua bán dâm Như vậy, D đã có hành vi chứa chấp mại dâm

+ Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp

- Trường hợp 2: A là người dưới 13 tuổi

+ Hành vi B, C, D phạm Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (điểm b khoản 1 Điều 142 BLHS

- Khách thể: Xâm phạm quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm, danh dự của người dưới 13 tuổi.

- Đối tượng tác động: A (người dưới 13 tuổi)

- Chủ thể: chủ thể thường – B và C có NLTNHS đầy đủ và đủ tuổi chịu TNHS

- Mặt khách quan: B và C đã có hành vi giao cấu với A; D đã cung cấp địa điểm, tạo điều kiện thuận lợi cho B, C giao cấu

- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp b A là người trên 16 tuổi và dưới 18 tuổi

- Hành vi của B, C phạm Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (khoản 1 Điều 329 BLHS 2015)

- Khách thể: Xâm phạm đến trật tự xã hội và sự phát triển bình thường về thể chất, tâm lý, tình dục của người chưa thành niên.

- Đối tượng tác động: A (người từ đủ 13 đến dưới 18 tuổi)

- Chủ thể: B, C là chủ thể đặc biệt (đủ 18 tuổi trở lên và đủ NLTNHS)

- Mặt khách quan: B, C có hành vi dùng tiền để thỏa thuận mua dâm nhằm thực hiện hành vi giao cấu với A

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp

* Tội danh của D là Tội chứa mại dâm (Điều 327 BLHS 2015)

- Khách thể: Xâm phạm trật tự công cộng, an toàn xã hội, đạo đức, nếp sống văn minh và thuần phong mĩ tục của dân tộc

- Chủ thể: D là chủ thể thường (có NLTNHS đầy đủ và đủ tuổi chịu TNHS)

- Mặt khách quan: D có hành vi cho A thuê chỗ để hành nghề mua bán dâm Như vậy, D đã có hành vi chứa chấp mại dâm

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp c A là người trên 18 tuổi

- Do A trên 18 tuổi, nên hành vi mua bán dâm của A, B và C đều không phạm tội vì BLHS 2015 không quy định

- Tội danh của D là Tội chứa mại dâm (Điều 327 BLHS 2015).

Sau khi nhậu, A chở B và C không đội nón bảo hiểm, phóng nhanh và lạng lách T và H, chiến sĩ tuần tra giao thông, đã đuổi theo và ép xe A vào lề đường yêu cầu xuất trình giấy tờ A xuống xe, lấy mã tấu dài khoảng 35 cm và tấn công H Khi T rút súng để bảo vệ đồng đội, tình hình trở nên căng thẳng.

B đã xông vào tước vũ khí và dọa bắn T, khiến T hoảng sợ chạy vào hẻm gần đó Sau khi thấy H nằm bất động và T đã bỏ chạy, A, B, C đã dùng mã tấu, gạch, đá để đập phá chiếc xe chuyên dụng của CSGT, gây thiệt hại lên đến 5 triệu đồng.

H đã lên xe bỏ trốn cùng khẩu súng mà B lấy từ T Mặc dù được đưa đi cấp cứu, anh H đã không qua khỏi do nhiều vết thương ở đầu và bụng.

Hãy xác định tội danh cho tình huống trên.

Hành vi của A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, với tình tiết định khung tăng nặng do đã chống người thi hành công vụ, theo quy định tại điểm d khoản 1 điều 123 Bộ luật Hình sự.

Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội phải là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hành chính và có năng lực chịu trách nhiệm dân sự.

- Khách thể của tội phạm là anh A đã xâm phạm đến tính mạng của anh H.

- Đối tượng tác động tính mạng của anh H.

- Về mặt khách quan của tộ phạm:

A đã thực hiện hành vi tước đoạt mạng sống của anh H bằng cách xuống xe, lấy cây mã tấu dài khoảng 35 cm từ cốp xe và chém liên tiếp vào H.

+ Hậu quả: Anh H tử vong do đa vết thương ở đầu và bụng.

+ Mối quan hệ nhân quả: hành vi của A là nguyên nhân trực tiếp khiến anh H tử vong.

- Về mặt chủ quan của tội phạm:

A thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, khi mà A nhận thức rõ ràng rằng hành động của mình có thể dẫn đến cái chết của anh H A đã thấy trước hậu quả, tức là cái chết của anh H, nhưng vẫn mong muốn điều đó xảy ra.

B phạm tội chiếm đoạt, tàng trữ vũ khí quân dụng (Điều 304 BLHS).

- Chủ thể: B là chủ thể thường có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS

- Đối tượng tác động: khẩu súng

- Khách thể của tội phạm là xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng.

- Mặt khách quan của tội phạm:

Hành vi của B thể hiện sự xâm phạm nghiêm trọng khi đã xông vào tước vũ khí của T và bỏ trốn cùng với khẩu súng B cũng đã có hành động tương tự đối với anh H - CSGT, dẫn đến việc chiếm đoạt vũ khí quân dụng Ngoài ra, việc B tẩu thoát với khẩu súng của T còn cho thấy hành vi tàng trữ vũ khí Những hành vi này của B có dấu hiệu rõ ràng của hai tội danh độc lập là chiếm đoạt và tàng trữ vũ khí quân dụng.

+ Hậu quả: Anh H sau đó được đưa cấp cứu nhưng đã tử vong do đa vết thương ở đầu và bụng.

Lỗi cố ý trực tiếp xảy ra khi B nhận thức rõ ràng rằng hành vi của mình có thể ảnh hưởng đến công cộng và trật tự xã hội, nhưng vẫn quyết định thực hiện hành vi đó với mong muốn hậu quả sẽ xảy ra.

A, B, C phạm tội cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS 2015)

- Chủ thể: thường (đủ tuổi chịu TNHS, đủ năng lực TNHS)

Lỗi cố ý trực tiếp xảy ra khi A, B, C sử dụng mã tấu, gạch và đá để phá hoại chiếc xe chuyên dụng của CSGT mà T và H đang sử dụng Sau khi gây hư hỏng, nhóm này đã nhanh chóng lên xe và bỏ trốn.

- Khách thể: Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản.

- Đối tượng tác động: Chiếc xe chuyên dụng của CSGT

+ Hành vi: A, B, C dùng mã tấu, gạch, đã đập phá làm hư hỏng chiếc xe chuyên dụng của CSGT

+ Hậu quả: Chiếc xe bị hỏng, gây thiệt hại 5 triệu đồng (thỏa mãn mức giá trị tài sản để cấu thành tội này)

+ Mối quan hệ nhân quả: Hành vi của A, B, C là nguyên nhân trực tiếp gây ra hư hỏng về tài sản cụ thể là chiếc xe chuyên dụng của CSGT.

Lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản của Nhà nước mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên là hành vi chỉ cấu thành Tội tham ô tài sản (Điều 353 BLHS)

CSPL: Điều 353 BLHS 2015, Điều 252, 304 BLHS 2015.

Hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, với giá trị từ 2 triệu đồng trở lên, không chỉ cấu thành Tội tham ô tài sản mà còn có thể liên quan đến các tội phạm khác.

Người phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên, nếu tài sản đó là vũ khí quân dụng, sẽ không bị truy cứu theo Tội tham ô tài sản (Điều 353 BLHS) mà sẽ bị truy cứu theo Tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng (Điều 304 BLHS).

Người lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên, nếu tài sản đó là ma túy hoặc chất gây nghiện, sẽ không bị truy cứu tội tham ô tài sản mà sẽ bị cấu thành tội chiếm đoạt ma túy theo Điều 252 Bộ luật Hình sự.

Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian nhận tiền, tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên chỉ cấu thành Tội nhận hối lộ (Điều 354 BLHS)

Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận tiền hoặc tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên có thể cấu thành Tội nhận hối lộ theo Điều 354 BLHS Nếu hành vi này được thực hiện nhằm thúc đẩy người có chức vụ làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ, hoặc thực hiện hành vi không được phép, thì sẽ vi phạm Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi theo Điều 358 BLHS 2015.

Hành vi nhận tiền từ 2 triệu đồng trở lên để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm một việc không được phép làm thì chỉ cấu thành Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 366 BLHS)

Hành vi lợi dụng chức vụ và quyền hạn để thực hiện những việc không được phép sẽ cấu thành Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn nhằm trục lợi, theo quy định tại Điều 366 Bộ luật Hình sự.

Hành vi nhận tiền từ 2 triệu đồng trở lên nhằm sử dụng ảnh hưởng cá nhân để thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi trái phép có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, theo quy định tại Điều 358 Bộ luật Hình sự.

Điều 358 quy định về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, nêu rõ rằng: "Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian để đòi, nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào dưới mọi hình thức nhằm sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hoặc không thực hiện một công việc thuộc trách nhiệm của họ, hoặc thực hiện một công việc không được phép làm".

Đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên nếu chủ thể đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được coi là không có tội

Nhận định Đúng Cspl: Điều 364 BLHS 2017

Người bị ép buộc đưa hối lộ nhưng chủ động khai báo trước khi bị phát hiện sẽ không bị coi là có tội Họ sẽ được hoàn trả toàn bộ số tiền đã dùng để hối lộ.

Người đưa hối lộ, khi tự nguyện khai báo trước khi bị phát hiện, có khả năng được miễn trách nhiệm hình sự Họ cũng có thể nhận lại một phần hoặc toàn bộ số tiền đã dùng để hối lộ.

Việc đưa hối lộ có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên sẽ không bị coi là tội nếu người vi phạm đã chủ động khai báo trước khi bị phát hiện.

Cán bộ Ngân hàng nông nghiệp huyện X được giao nhiệm vụ phụ trách xã Y, với trách nhiệm nắm bắt nhu cầu phát triển sản xuất địa phương A cần đề xuất kịp thời với lãnh đạo ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vay vốn của nông dân, thực hiện thẩm định và đảm bảo mức vốn cho vay phù hợp Ngoài ra, A cũng phải thu hồi số tiền đã cho nông dân vay khi đến hạn thanh toán Để thực hiện nhiệm vụ này, A được cơ quan cấp tiền tạm ứng để chi cho người vay.

Lợi dụng nhiệm vụ được giao, A đã thực hiện những hành vi sau đây:

- Lập 7 hồ sơ giả để lấy 61 triệu đồng chi xài cá nhân.

- Đến thời hạn thu hồi vốn, A thu hồi của những người đã vay tín dụng được 40.605.000đ nhưng không nộp lại cho ngân hàng mà đem chi xài.

Hãy xác định A phạm tội gì? Cần áp dụng điều khoản nào BLHS đối với A?

Hành vi của A đã đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội tham ô tài sản tại Điều 353 BLHS 2015.

- Khách thể: hành vi của A xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của Ngân hàng nông nghiệp huyện

X đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của Ngân hàng Nông nghiệp huyện X, với tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 101.605.000 đồng Hành động này diễn ra trong bối cảnh A thực hiện nhiệm vụ công tác hợp pháp cho Ngân hàng Nông nghiệp huyện X.

A đã lập 7 hồ sơ giả để chiếm đoạt 61 triệu đồng và thu hồi 40.605.000 đồng từ những người vay tín dụng, nhưng không nộp lại cho Ngân hàng mà sử dụng cho mục đích cá nhân Hành vi này cho thấy A đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng, vi phạm nghiêm trọng các quy định quản lý tài chính.

+ Hậu quả: gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản cho Ngân hàng, làm giảm uy tín và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của A là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại cho Ngân hàng.

Lỗi: A thực hiện với lỗi cố ý.

Chủ thể đặc biệt-A là cán bộ Ngân hàng, có nhiệm vụ quản lý tài sản bao gồm vốn và các khoản vay, đồng thời thu hồi vốn cho Ngân hàng.

A là kế toán trưởng của một công ty tư nhân, nổi bật với năng lực và sự năng nổ trong công việc, đã được chủ doanh nghiệp tin tưởng giao nhiều nhiệm vụ quan trọng Trong một chuyến công tác nước ngoài nhằm mở rộng thị trường, giám đốc đã giao cho A nhiệm vụ thanh lý một số hợp đồng tới hạn và thu hồi tiền cho công ty Tuy nhiên, sau khi thu được 300 triệu đồng từ việc thanh lý hợp đồng, A đã bỏ trốn cùng với số tiền này.

Hãy xác định tội danh trong vụ án này?

Tội danh trong vụ án này: Tội tham ô tài sản (Điều 353 BLHS 2015).

Hành vi của A đã xâm phạm đến hoạt động hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đồng thời làm tổn hại đến quyền sở hữu tài sản của họ, cụ thể là 300 triệu đồng tiền hàng của doanh nghiệp.

Trong chuyến đi nước ngoài nhằm mở rộng thị trường, giám đốc công ty đã giao cho A nhiệm vụ thanh lý các hợp đồng sắp hết hạn và thu hồi tiền cho công ty Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, A đã thu được một khoản tiền đáng kể cho công ty.

A đã bỏ trốn cùng với 300 triệu đồng tiền hàng do thanh lý hợp đồng, dẫn đến hành vi chiếm đoạt tài sản mà A có trách nhiệm quản lý.

+ Hậu quả: gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản cho doanh nghiệp.

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của A là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại cho doanh nghiệp.

Lỗi: A thực hiện với lỗi cố ý.

Chủ thể đặc biệt A, với vai trò là kế toán trưởng của một công ty tư nhân, đang được giao nhiệm vụ quan trọng là thanh lý các hợp đồng đến hạn và thu hồi tiền cho công ty.

Cán bộ địa chính xã X, A, đã lợi dụng vị trí công tác để thu của 14 người dân tổng số tiền 92 triệu đồng với lý do làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Trong khi thông báo rằng đây là tiền nộp thuế chuyển mục đích sử dụng đất, thực tế chỉ có 56 triệu đồng là tiền thuế hợp pháp Số tiền còn lại A đã chiếm đoạt để phục vụ cho mục đích cá nhân.

Hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?

Hành vi của A có phạm tội.

Tội danh mà A đã phạm là Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo Điều 355 BLDS 2015.

Hoạt động không đúng đắn của cơ quan, tổ chức có thể dẫn đến sự suy yếu, mất uy tín và lòng tin của nhân dân vào chính quyền Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả hoạt động và sự chấp nhận của cộng đồng đối với các quyết định và chính sách của nhà nước.

 Đối tượng tác động: tài sản của người dân trong xã X (tiền của người dân).

A đã lừa đảo người dân trong xã bằng cách thu tổng cộng 92 triệu đồng để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong khi thực tế chỉ cần nộp 56 triệu đồng tiền thuế chuyển mục đích sử dụng đất Số tiền còn lại A đã chiếm đoạt để tiêu xài cá nhân, thể hiện rõ hành vi lạm dụng chức vụ và quyền hạn nhằm chiếm đoạt tài sản của người dân.

 Hậu quả: gây thiệt hại về tài sản cho người dân.

 Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của A là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại về tài sản cho người dân.

Thẩm phán, hội thẩm có thể là chủ thể của Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 368 BLHS)

Chủ thể của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội bao gồm những cá nhân có thẩm quyền thực hiện các hành vi tố tụng liên quan Theo Bộ luật Tố tụng hình sự, các chủ thể này gồm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Điều tra viên và một số cá nhân khác được giao nhiệm vụ điều tra Do đó, Thẩm phán và Hội thẩm không được xem là chủ thể trong tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội.

42 Mọi hành vi ra quyết định mà biết rõ là trái pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đều cấu thành Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371 BLHS)

Để cấu thành Tội ra quyết định trái pháp luật theo Điều 371 BLHS, cần có các yếu tố về hành vi và hậu quả tài chính tối thiểu 50 triệu đồng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân Hành vi ra quyết định trái pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án sẽ không bị xử lý nếu thuộc vào các trường hợp quy định tại Điều 368, 369.

370 377, 378 thì sẽ cấu thành các tội phạm tương ứng, chứ không cấu thành Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371 BLHS)

Người bị hại có thể là chủ thể của Tội khai báo gian dối (Điều 382 BLHS)

Tội khai báo gian dối theo Điều 382 Bộ luật Hình sự xác định chủ thể đặc biệt bao gồm người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật và người bào chữa Do đó, người bị hại không được coi là chủ thể của tội danh này.

Mọi trường hợp biết người khác phạm tội, tuy không hứa hẹn trước mà giúp họ lẩn trốn đều cấu thành tội che giấu tội phạm (Điều 389 BLHS)

Để cấu thành tội che giấu tội phạm theo Điều 389 BLHS, tội được che giấu phải thuộc các tội quy định từ điểm a đến điểm i khoản 1 của điều này Hơn nữa, hành vi che giấu không được thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18 BLHS, tức là người che giấu không được là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội Do đó, nếu tội được che giấu không nằm trong các tội đã nêu hoặc người che giấu là thành viên trong gia đình của người phạm tội, thì sẽ không cấu thành tội che giấu tội phạm.

CSPL: khoản 2 Điều 18 BLHS, Điều 389 BLHS.

A, điều tra viên của Phòng cảnh sát hình sự, bị B, người đang bị truy tố về tội buôn lậu, nhờ giúp đỡ để giảm nhẹ hình phạt Dù A đã gặp trưởng phòng điều tra để xin giúp đỡ nhưng bị từ chối, A vẫn lừa B rằng đã giải quyết xong và yêu cầu 6 triệu đồng để "chạy" cho B Sau khi B đưa tiền, A không thực hiện cam kết và khi B đòi lại tiền, A từ chối Cuối cùng, vụ việc bị phát hiện.

Hãy xác định tội danh trong vụ án này

Hành vi của A cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS.

Khách thể: xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ

+ Đối tượng tác động: Số tiền 6 triệu đồng thuộc sở hữu của B

Hành vi gian dối của A thể hiện rõ khi A lợi dụng chức vụ quyền hạn để lừa B giao cho 6 triệu đồng với lời hứa sẽ "chạy" cho B, nhưng sau khi nhận tiền, A đã không thực hiện cam kết này.

+ Hậu quả: thiệt hại số tiền 6 triệu đồng thuộc sở hữu của B

+ Quan hệ nhân quả: hành vi của A là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại về tài sản củaB.

Chủ thể: A đủ tuổi TNHS, đủ năng lực TNHS.

Mặt chủ quan: Lỗi cố ý A biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện.

Hành vi của B phạm Tội đưa hối lộ theo Điều 364 BLHS.

Khách thể: hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; quyền sở hữu của Nhà nước, tổ chức. Mặt khách quan:

+ Hành vi: B đã có hành vi đưa cho A là điều tra viên 6 triệu đồng để A “chạy” giùm giúp mình nhẹ án.

Chủ thể: B đủ tuổi chịu TNHS, đủ năng lực TNHS.

Mặt chủ quan: Lỗi cố ý B nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vẫn cố tình thực hiện

A, nhân viên tại Sở Giao thông Công chánh tỉnh M, đã lợi dụng vị trí công tác của mình để quản lý hồ sơ xe và cấp giấy phép lái xe A đã sử dụng con dấu của cơ quan để ký và đóng dấu nhiều giấy phép lái xe, sau đó bán cho người khác với giá 5 chỉ vàng mỗi giấy phép Hành vi này đã bị phát giác.

A đã bị đình chỉ công tác và đang chờ xét kỷ luật Trong thời gian này, A đã thuê B làm dấu giả và sử dụng con dấu cùng các biểu mẫu in sẵn từ cơ quan để làm 10 giấy phép lái xe, sau đó bán cho người khác Những người mua giấy phép do A bán cũng đã bị phát hiện.

Hãy xác định tội danh trong vụ án này.

Hành vi của A vi phạm quy định tại Điều 359 Bộ luật Hình sự về tội giả mạo trong công tác và Điều 341 Bộ luật Hình sự về tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức Những hành vi này không chỉ ảnh hưởng đến tính xác thực của tài liệu mà còn gây tổn hại đến uy tín của các cơ quan, tổ chức liên quan.

 Tội giả mạo trong công tác

Khách thể: xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.

+ Đối tượng tác động: giấy tờ, tài liệu, chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.

Người quản lý hồ sơ xe đã lợi dụng vị trí của mình để cấp giấy phép lái xe một cách trái phép, sử dụng con dấu của cơ quan để ký và đóng dấu nhiều giấy phép lái xe, sau đó bán cho người khác.

Chủ thể: A là người có chức vụ, quyền hạn: có nhiệm vụ liên quan đến tài liệu, chữ ký và con dấu của Sở giao thông công chánh tỉnh.

Mặt chủ quan: A thực hiện hành vi trái pháp luật với lỗi cố ý, nhận thức rõ ràng về tính chất bất hợp pháp của hành động nhưng vẫn quyết định thực hiện do động cơ vụ lợi.

 Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Xâm phạm trật tự quản lý hành chính Nhà nước và tổ chức có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thường và uy tín của các cơ quan Nhà nước Hành vi này liên quan đến việc can thiệp vào việc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác, làm tổn hại đến hiệu quả quản lý hành chính.

+ Đối tượng: con dấu, tài liệu, giấy tờ giả.

Sau khi bị đình chỉ công tác, A đã thuê B khắc dấu giả và sử dụng con dấu cùng các biểu mẫu in sẵn của cơ quan để tiếp tục làm giấy phép lái xe, bán cho người khác.

Chủ thể: A là chủ thể thường (đủ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự).

Mặt chủ quan của A thể hiện qua việc thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, khi A nhận thức rõ rằng hành vi của mình vi phạm pháp luật nhưng vẫn quyết định thực hiện A không chỉ thấy trước hậu quả nguy hiểm mà còn mong muốn những hậu quả đó xảy ra.

Tội danh đối với B là Tội làm giả con dấu của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 BLHS:

Xâm phạm trật tự quản lý hành chính Nhà nước và tổ chức có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động bình thường và uy tín của các cơ quan Nhà nước Những hành vi này liên quan đến việc quản lý con dấu, tài liệu và giấy tờ khác, đe dọa đến sự ổn định và hiệu quả trong lĩnh vực quản lý hành chính.

+ Đối tượng tác động: con dấu, tài liệu giả, giấy tờ giả.

Mặt khách quan: B làm giả con dấu của Sở giao thông công chánh tỉnh M theo yêu cầu thuê mướn của A.

Chủ thể: B là chủ thể thường (đủ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự).

B thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý gián tiếp, nhận thức rõ rằng hành động này vi phạm pháp luật nhưng vẫn quyết định thực hiện Mặc dù thấy trước những hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra, B vẫn để cho những hậu quả đó diễn ra mà không có biện pháp ngăn chặn.

A là Trưởng công an xã X, đã có những hành vi sau:

A đã lợi dụng sự giúp đỡ của một số thương binh trong xã để nhận số tiền trợ cấp 15 triệu đồng từ Phòng thương binh xã hội, nhưng sau đó đã chiếm đoạt toàn bộ số tiền này.

Lợi dụng danh nghĩa công an xã, A đã tiến hành khám xét nhà của một người dân với nghi ngờ chứa hàng buôn lậu, đồng thời đe dọa sẽ bắt giữ nếu không nhận được tiền Kết quả, công dân này buộc phải đưa cho A số tiền 4 triệu đồng.

- A thả những người buôn lậu thuốc lá cùng hàng hóa của họ, vì trong số người bị bắt có người là bà con của A.

Hãy xác định tội danh trong các trường hợp trên.

1) Hành vi của A cấu thành tội Tội lạm dụng tín nhiệm theo Điều 175 BLHS 2015

- Chủ thể: A đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực chịu trách nhiệm đầy đủ.

- Khách thể: quyền sở hữu tài sản

Ngày đăng: 18/03/2022, 22:07

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w