Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc Theo công bố ngày 02 tháng 3 năm
Theo Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê Việt Nam, hiện nay có 54 dân tộc ở Việt Nam, trong đó người Chăm là một trong những cộng đồng dân tộc có chữ viết sớm và nền văn minh phát triển cao tại Đông Nam Á Tiếng nói của người Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo, cùng nhóm ngôn ngữ với các dân tộc Êđê, Raglai, Churu, Jarai Họ là cư dân bản địa với truyền thống canh tác nông nghiệp lúa nước phát triển và đã định cư lâu dài dọc theo đồng bằng duyên hải miền Trung Việt Nam.
Vùng đất Nam Trung bộ thuộc châu Panduranga, từng là một phần của vương quốc Champa, đã trải qua nhiều biến cố lịch sử và trở thành châu cuối cùng còn lại của Champa Nơi đây không chỉ là trung tâm văn hóa Chăm mà còn là nơi lưu giữ những giá trị của nền văn minh Champa tồn tại hàng nghìn năm Với dân cư đông đảo, cộng đồng người Chăm hiện nay vẫn duy trì triết lý lưỡng hợp “Lakei – Kamei”, góp phần định hình đời sống văn hóa và tinh thần của họ.
Trong đời sống tinh thần của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung Bộ, mặc dù không bị chi phối bởi học thuyết âm dương, nhưng họ vẫn thể hiện một quan niệm nhất quán về hai mặt đối lập trong một chỉnh thể thống nhất Hai mặt này không chỉ tồn tại độc lập mà còn bổ trợ và giao hòa với nhau, tạo nên sự cân bằng cần thiết, được gọi là “Lakei – Kamei” Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ này, cần có cách tiếp cận triết học tương tự như trong triết học phương Đông với âm – dương Điều này khả thi bởi vì dân tộc Chăm nằm giữa hai nền văn hóa lớn, Ấn Độ và Trung Hoa, nơi sự hiện diện và tiếp biến đã góp phần hình thành nên truyền thống văn hóa tinh thần độc đáo của họ.
Mặc dù sự gặp gỡ và giao lưu văn hóa diễn ra, nhưng nó không dẫn đến việc hình thành một học thuyết triết học cho dân tộc Chăm Điều này đã tạo ra không ít khó khăn trong việc nghiên cứu các nội dung triết học liên quan đến mối quan hệ giữa các yếu tố văn hóa và tư tưởng của họ.
"Lakei" và "Kamei" đại diện cho hai yếu tố đối lập, tạo ra nội lực cho sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng Dân tộc Chăm, như nhiều dân tộc khác ở Việt Nam, không có truyền thống lập thuyết, dẫn đến việc thiếu lý luận để giải thích sự hình thành và phát triển của các hiện tượng Để tồn tại và phát triển, người Chăm đã hình thành những quan niệm tiền triết học, phản ánh bước đầu trong quá trình phát triển tư duy lý luận về thế giới xung quanh Sự tiếp biến văn hóa từ bên ngoài đã làm nảy sinh nhiều vấn đề triết học trong văn học, nghệ thuật và tín ngưỡng của cộng đồng Với điều kiện tự nhiên và văn hóa riêng, người Chăm luôn tìm kiếm giải pháp tối ưu cho sự tồn tại và phát triển, thể hiện triết lý nhân sinh trong văn hóa và sinh hoạt tâm linh Triết lý nhân sinh của họ rất tinh tế, hướng đến việc khám phá nguồn gốc sâu xa của các hiện tượng, với sự công nhận hai thế lực "lakei" và "kamei" vừa siêu hình vừa vật chất trong thế giới sự vật.
Triết lý “Lakei – Kamei” vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa và tinh thần của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ, thể hiện qua thế giới quan về hai yếu tố khởi thủy của vũ trụ Những quan niệm này được phản ánh trong từng sự vật, hiện tượng như vật dụng sinh hoạt, kiến trúc chùa tháp, và các hoạt động văn hóa lễ hội liên quan đến tín ngưỡng Đây là đặc trưng riêng của văn hóa Chăm, cần được nghiên cứu lý luận trong bối cảnh hội nhập và phát triển của Việt Nam.
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về đời sống văn hoá - xã hội của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ, đặc biệt là về cấu trúc lưỡng hợp trong văn hóa Chăm Tuy nhiên, vẫn thiếu một công trình nghiên cứu triết học chuyên sâu về triết lý “Lakei – Kamei” của cộng đồng này Cần làm rõ quá trình hình thành và phát triển của triết lý này, cũng như giá trị và ý nghĩa của nó đối với cộng đồng người Chăm tại đây.
Việc bảo tồn văn hóa truyền thống của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận Tuy nhiên, để duy trì những giá trị văn hóa này một cách bền vững, cần phải hiểu đúng triết lý nhân sinh của họ Do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài Triết lý “Lakei - Kamei” trong cộng đồng người Chăm với mong muốn làm rõ những vấn đề liên quan đến việc bảo tồn văn hóa Chăm.
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1 Hướng nghiên cứu về lịch sử xã hội, tín ngưỡng và tôn giáo của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ
Lịch sử xã hội dân tộc Chăm, đặc biệt là cộng đồng người Chăm ở Nam Trung Bộ, đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước từ cuối thế kỷ XIX đến nay Các học giả Pháp như E Aymonier, H Parmentier, E.M Durand, L Finot, A Cabaton và G.L Maspéro đã có những đóng góp quan trọng Năm 1928, G.L Maspéro đã xuất bản cuốn sách "Vương quốc Champa" (Le royaume du Champa), đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử vương quốc Champa.
Champa) Đến năm 1930, xuất hiện công trình của M Ner về Mẫu hệ Chăm
(Au pays du droit maternel) Các bài viết “Panduranga”, L Finot, trong
BEFEO III, 1903;“Les inscriptions de Mĩ-sơn”, L Finot trong BEFEO IV;
“L’inscription à Valmiki de Prakacadharma”(Trà Kiệu), P Mus, trong BEFEO XXVIII, 1928; “L’épigraphie de la dynastie de Ðồng-dương”, E.
Huber, trong BEFEO XI, 1911;“Inscriptions du Quảng-nam”, L Finot, trong
The article discusses various scholarly works related to the Cham people and their cultural practices It references BEFEO IV from 1904, which examines Indian and indigenous cults in Champa, and highlights P Mus's contribution in BEFEO XXXIII from 1933 on the introduction of Islam in the region Additionally, it mentions P-Y Manguin's work in BEFEO LXVI from 1979, which further explores the historical and contemporary aspects of the Cham community, as well as J Leuba's 1915 study titled "Les Chams d'autrefois et d'aujourd'hui."
“Đông Nam Á sử lược”, D G E.Hall, Nguyễn Phút Tấn dịch, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997 “Le Champa: Gesographie-Population-Histoire”, P-B.Lafont, Nxb Les Indes Savantes, Pháp, 2007.
E Aymonier trong tác phẩm "Les Tchames et leurs religions" đã cung cấp cái nhìn tổng quan về các di tích đền đài và tục lễ thờ cúng của người Chăm, đặc biệt là những nghi lễ tôn giáo tại Bình Thuận (Việt Nam) và Campuchia Ông tập trung vào các lễ nghi như tang lễ, hôn lễ và các nghi thức liên quan đến nghề nông, từ đó phản ánh sự phong phú trong tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm (tr.21-66).
A Cabaton, trong cuốn sách "Nouvelles recherches sur les Chams", đã nghiên cứu sâu về tín ngưỡng và lễ nghi của người Chăm Ahier Ông không chỉ khảo sát thực địa mà còn phân tích các văn bản còn lại tại các làng Chăm, từ đó khám phá tín ngưỡng và tôn giáo Chăm Qua các nghi lễ như cúng tế tại đền tháp, đám tang, lễ Raja và lễ nghi nông nghiệp, ông đã dịch và nghiên cứu một số văn bản Chăm liên quan đến các bài cúng tế và thánh ca tôn vinh các vị thần linh như Po Yang Amâ, Po Nưgar, Po Klaong Girai, Po Romé, cùng với tổ tiên của người Chăm.
E.M Durand trong cuốn sách "Les Chams Bani" đã nghiên cứu sâu sắc về người Chăm Bàni tại Ninh - Bình Thuận, mô tả chi tiết các tín ngưỡng và phong tục của họ Ông đề cập đến việc thờ cúng các vị thánh như Awluah, Mohamat và Ibrahim, cũng như việc thực hành kinh Koran, xây dựng thánh đường (sang magik), lễ Ramawan, lễ cắt tóc đặt tên (katat, karơh), tục thờ cúng tổ tiên (muk kei) và hôn lễ (ndam likhah).
Trong bài nghiên cứu "La religion des Chams d’après les monuments," L Finot đã mô tả chi tiết về các đền tháp và tượng thờ của người Chăm ở miền Trung Việt Nam Tác giả chỉ ra rằng người Chăm chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Ấn Độ giáo, thể hiện qua việc xây dựng các đền tháp để thờ Linga - Yoni cùng với các vị thần Ấn Độ như Shiva, Brahma, Vishnu và cả các yếu tố của Phật giáo.
P - Y Manguin trong công trình "Giới thiệu về Islam ở Champa" (BEFEO LXVI, 1979, tr.12-26) đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu từ Mã Lai, Ba Tư, Ả Rập và Bồ Đào Nha để mô tả chi tiết về thời điểm và quá trình du nhập của Hồi giáo vào Champa Tác giả cho rằng, vào cuối thế kỷ XVI - XVII, Champa là một quốc gia mạnh mẽ với mối quan hệ thương mại với các nước Mã Lai, Indonesia và các thuyền buôn Bồ Đào Nha, Hà Lan (tr.13) Bên cạnh đó, Manguin cũng cung cấp thông tin về việc người Champa truyền bá Hồi giáo đến Indonesia (tr.12) và sự ảnh hưởng của Hồi giáo lên người Champa qua người Mã Lai trong những năm sau thế kỷ XVI - XVII (tr.13).
Công trình đầy đặn và công phu, có nhiều giá trị khoa học về lịch sử Champa là cuốn Vương quốc Champa (Le royaume du Champa hay The
Champa kingdom) của G.L Maspéro, xuất bản năm 1928 tại Paris Sách dày
278trang với nhiều tư liệu phong phú Tuy nhiên, công trình này chủ yếu nói về lịch sử Champa thông qua nghiên cứu các sử liệu của Trung Quốc.
Nhiều tác giả người Pháp như E Aymonier, H.Pamentier, G.Maspéro, J.Boiselie và P-Y.Manguin cho rằng đạo Bàlamôn đã du nhập vào cộng đồng người Chăm từ thế kỷ II sau Công nguyên, với bia Võ Cạnh là bằng chứng Sự hiện diện rõ nét của tôn giáo này được thể hiện qua các công trình kiến trúc tôn giáo tại thánh địa Mỹ Sơn vào thế kỷ VIII, nơi thờ các vị thần như Shiva, Brahma và Vishnu Trong khi đó, Phật giáo chỉ xuất hiện ở Champa muộn hơn, vào khoảng thế kỷ VII - IX, với triều Đồng Dương và tượng Phật Lokeshvara là tiêu biểu.
Nghiên cứu mảng tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm ởViệt Nam có các tác giả như: E.M Durand với các công trình nghiên cứu:
Người Chăm Bàni (1903); Đền Po Rame ở Panrang (1903); J Leuba với công trình: Người Chăm xưa và nay; A Cabaton với Người Chăm (1901); M.
E Aymonier với Người Chàm và những tín ngưỡng của họ (1891), Tín ngưỡng và sự tuân giáo quy của người Chàm ở Vương quốc Campuchia
(1891); Hindurism and Buddhism, an historical sketch, L Finot, London,
Năm 1921, trong tác phẩm "Người Chàm và những tín ngưỡng của họ," M.E Aymonier đã dành một chương (chương 4) để khám phá về người Hồi giáo và các nghi lễ của họ Ông nhấn mạnh rằng cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn về tín ngưỡng và các nhà tu hành của người Hồi giáo, vì chúng có những đặc điểm riêng biệt cần được tìm hiểu.
Sau năm 1945, giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ, thành viên của nhóm nghiên cứu Sử-Địa, đã công bố công trình Mẫu hệ Chàm vào năm 1967 Ông cũng đã viết nhiều bài báo đăng trên các tạp chí như Văn hóa Á châu và Văn hóa nguyệt san, trong đó có bài Ngải.
Chàm (1959); Văn hóa Chiêm Thành (1959), Sơ khảo văn hóa Chiêm Thành,
Pô rô mê - dã sử Chàm.
Nguyễn Văn Luận là một nhà nghiên cứu hàng đầu về tín ngưỡng và nghi thức của người Chăm Bàlamôn tại Ninh Thuận - Bình Thuận và người Chăm Hồi Giáo ở Nam Bộ Ông đã công bố nhiều bài báo quan trọng, trong đó có "Góp phần nghiên cứu về tín ngưỡng của người Chàm" (1968) và "Vua Pôrômê trong lịch sử và tín ngưỡng của người Chàm" (1971) Trong tác phẩm "Người Chàm Hồi giáo Tây Nam phần" (1974), ông nêu rõ rằng Vua Auluah trị vì từ năm 1000 đến 1036, cùng thời điểm phát hiện hai tấm bia ký ở miền nam Chiêm Thành, cho thấy dấu tích của sự xuất hiện người Hồi giáo tại Phan.
Rang hoặc Phan Rí từ thế kỉ X” (tr.14).
Từ năm 1975, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thúc đẩy nghiên cứu văn hóa Chăm nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa này Nhờ đó, các nhà khoa học Việt Nam ngày càng quan tâm đến việc nghiên cứu người Chăm, dẫn đến nhiều công trình công bố có giá trị về văn hóa Chăm.
Từ năm 1975 đến nay, nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện về tín ngưỡng của người Chăm, điển hình như bài viết "Vài nhận định về tín ngưỡng dân gian Chàm ở Thuận Hải" của Lý Kim Hoa (Dân tộc học, số 3/1979) và "Tín ngưỡng tượng kút ở vùng Chàm Thuận Hải" (Dân tộc học, số 4/1977) Ngoài ra, Bố Xuân Hổ cũng đã có những đóng góp quan trọng với tác phẩm "Truyền thuyết về các tháp Chăm trên miền đất cực Nam Trung bộ" (1995), góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về văn hóa và tín ngưỡng Chăm.
Chàm Thuận Hải, tác giả của tác phẩm Bố Xuân Hổ, đã chỉ ra rằng "Những Kút ở miền Phan Rí có mối liên hệ với các tấm bia của các ngôi mộ Hồi giáo ở Gia Va, đồng thời phản ánh ký ức trong cấu trúc của một số tấm bia tại các nghĩa trang Chàm Hồi giáo ở Campuchia, cho thấy ảnh hưởng rõ rệt của Hồi giáo" (tr.17).
Vương Hoàng Trù trong bài viết về Tín ngưỡng phồn thực của người
Bài viết "Chăm ở Thuận Hải," đăng trên tạp chí Văn hóa học năm 1987, đã trình bày về Padah Tok (triết lý âm dương) của người Chăm, coi đây là nền tảng lý luận quan trọng để phân tích và đánh giá các lĩnh vực tín ngưỡng và văn hóa dân tộc Chăm Nhiều luận án nghiên cứu cũng đã đi sâu vào vấn đề Tôn giáo Chăm, nhằm làm rõ hơn những đặc điểm và giá trị văn hóa của cộng đồng này.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của bài viết là làm rõ triết lý “Lakei – Kamei” trong cộng đồng người Chăm ở Nam Trung Bộ, từ đó chỉ ra những giá trị, hạn chế và ý nghĩa của triết lý này trong đời sống tinh thần của cộng đồng.
- Phân tích, làm rõ quá trình hình thành và phát triển triết lý “Lakei - Kamei” trong cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ.
- Trình bày những nội dung, đặc điểm cơ bản của triết lý “Lakei - Kamei” trong cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ.
- Làm rõ những giá trị, hạn chế và ý nghĩa của triết lý “Lakei – Kamei” trong đời sống văn hóa, tinh thần của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ.
4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng: Triết lý “Lakei - Kamei” trong tư duy của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ.
4.2 Phạm vi: Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu triết lý “Lakei –
Kamei” và ảnh hưởng của nó tới đời sống cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ.
5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nội dung luận án được xây dựng trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo chủ nghĩa Mác – Lênin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh Luận án cũng xem xét các quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhằm làm rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh hiện đại.
Luận án áp dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác – Lênin về lịch sử triết học, bao gồm các phương pháp logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, so sánh – đối chiếu, hệ thống hóa và khái quát hóa Đồng thời, luận án cũng kết hợp với các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành khoa học xã hội, đặc biệt là Văn hóa học, nhằm tăng cường tính hiệu quả và độ chính xác trong quá trình nghiên cứu.
Sử học, Văn học, Tôn giáo học, Văn bản học, Dân tộc học, Nhân học, phương pháp nghiên cứu tham vấn chuyên gia và phỏng vấn sâu.
Triết lý “Lakei – Kamei” trong cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ được thể hiện rõ qua các lễ hội truyền thống Do đó, việc nghiên cứu cần tập trung vào việc sưu tầm tư liệu gốc như thư tịch cổ và các bộ kinh, cũng như tìm hiểu các lễ nghi Ngoài ra, tham khảo ý kiến từ các chức sắc tôn giáo và trí thức Chăm hiện nay cũng là một phần quan trọng trong việc thu thập dữ kiện.
Hệ thống hóa tư liệu và phân tích quá trình hình thành triết lý “Lakei – Kamei” cùng với những nội dung cơ bản của nó; làm rõ mối liên hệ giữa các yếu tố lịch sử cụ thể và logic của thời đại; khái quát lý luận thông qua diễn dịch và qui nạp để làm sáng tỏ triết lý “Lakei – Kamei” từ các hiện tượng văn hóa truyền thống của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ.
(5)Phỏng vấn và phỏng vấn sâu để làm rõ giá trị và ý nghĩa của triết lý này trong cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ.
6 Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
6.1 Ý nghĩa khoa học: Luận án góp phần làm rõ khái niệm “Lakei –
Kamei” và triết lý “Lakei - Kamei” qua một số nội dung cơ bản của nó trong văn hóa tinh thần của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn: Luận án làm rõ vai trò của triết lý “Lakei –
"Kamei" là một khía cạnh quan trọng trong các hoạt động văn hóa tinh thần của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ Bài viết này sẽ cung cấp tài liệu tham khảo quý giá cho những ai quan tâm đến văn hóa và triết học văn hóa của người Chăm tại khu vực này.
Luận án này làm rõ sự hình thành và các nội dung cơ bản của triết lý “Lakei - Kamei” trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ Đồng thời, nó cũng chỉ ra những giá trị và ý nghĩa chủ yếu của triết lý này trong văn hóa tinh thần của cộng đồng người Chăm.
8 Kết cấu của luận án: Gồm 3 chương và 7 tiết
Chương 1 KHÁI NIỆM VỀ TRIẾT LÝ “LAKEI - KAMEI”
VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TRIẾT LÝ “LAKEI - KAMEI” TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CHĂM Ở NAM TRUNG BỘ
1.1 KHÁI NIỆM VỀ “LAKEI – KAMEI” VÀ TRIẾT LÝ “LAKEI – KAMEI”
"Cặp từ 'Lakei - Kamei' trong tiếng Chăm biểu thị sự phân chia giới tính, với 'Lakei' mang nghĩa nam tính và 'Kamei' mang nghĩa nữ tính Khái niệm này phản ánh tư duy lưỡng hợp và tín ngưỡng phồn thực của người Đông Nam Á cổ xưa, thể hiện qua hai cặp đối lập 'Đực - Cái' Cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ đã tiếp thu và cải biên ảnh hưởng từ hai tôn giáo Bàlamôn Ấn Độ và Hồi giáo Ả Rập, dẫn đến sự hình thành hai nhánh tôn giáo: Chăm Ahier với biểu tượng nam Lakei và Chăm Awal với biểu tượng nữ Kamei Trong tín ngưỡng, Chăm Ahier thờ cúng với đền tháp bimong kalan và vật tổ baganrac, trong khi Chăm Awal có thánh đường sang magik và vật tổ cây trượng thần gai bhong Quan niệm Linga – Yoni từ nền văn minh Ấn Giáo cũng được tôn thờ trong các đền tháp Chăm, nhấn mạnh rằng vũ trụ chỉ tồn tại và phát triển khi có sự tương tác và kết hợp giữa Lakei và Kamei, tạo nên sự hài hòa và sinh sôi cho vạn vật."
Hiện nay có 02 cách phiên âm đang được sử dụng trong cộng đồng người Chăm Thứ nhất, cách phiên âm /lakei – kamei/ và cách thứ hai là
Từ "likei – kumei" trong tiếng Chăm tương tự như "chánh" và "chính" trong tiếng Việt, mang ý nghĩa giống nhau Theo cuốn Ngữ pháp tiếng Chăm của Gérard Moussay, được dịch sang tiếng Việt bởi Lưu Quang Sang, Thạc sĩ Ngụy Văn Nhuận và Thạc sĩ Lưu Quang Sáng, từ này được phiên âm sang chữ Latinh là "Lakei - Kamei" Moussay nhấn mạnh rằng âm vị Ka /k/ ở đầu và giữa từ được phát âm là âm tắc điếc và mềm Nghiên cứu sinh đã sử dụng phiên âm của nhóm tác giả này cùng với bảng từ vựng tiếng Chăm phiên âm sang chữ Latinh làm cơ sở cho nghiên cứu của mình.
Cộng đồng người Chăm ở Nam Trung bộ không sử dụng thuật ngữ Âm - Dương, mà thay vào đó, họ dùng cụm từ “Lakei - Kamei” để biểu thị tính cấu trúc cặp đôi đối lập, đặc biệt trong các nghi lễ và phong tục “Lakei - Kamei” (Nam - Nữ) thể hiện tính lưỡng hợp của các sự vật, hiện tượng trong đời sống và tín ngưỡng Hai mặt đối lập này không thể tách rời, không bài trừ lẫn nhau và luôn cần tương tác để tồn tại và phát triển, tương tự như mối quan hệ của hai thế lực đối lập.
Người Chăm sống trong một chế độ mẫu hệ, vì vậy yếu tố “Cái” (kamei) luôn được đặt trước “Đực” (Lakei) Tuy nhiên, trong văn hóa truyền thống của cộng đồng Chăm ở Nam Trung Bộ hiện nay, vẫn tồn tại quy luật này.
Tên luận án được chọn là “Lakei - Kamei” để phản ánh cách gọi của người Chăm, trong đó “Lakei” chỉ nam tính và “Kamei” chỉ nữ tính Việc sử dụng cụm từ này thay vì “Kamei - Lakei” nhằm tuân thủ quy luật ngôn ngữ của cộng đồng Chăm.
Vào thế kỷ XVII, dưới triều đại vua Po Romé, xã hội Chăm tại Nam Trung bộ hình thành hai cộng đồng tôn giáo khác nhau, dẫn đến sự xuất hiện của cụm từ “Awal - Ahier” Mỗi tôn giáo này có những biểu tượng riêng, được chấp nhận trong đời sống tinh thần của người Chăm Chăm Awal (Bàni) mang biểu tượng nữ kamei, trong khi Chăm Ahier (Bàlamôn) mang biểu tượng nam lakei Về mặt thần linh, các biểu tượng như thiên thần Po Débita và thần thổ địa Po Tanâh Riya, cùng với các thần khác như Yang Po và Po Nâbi, thể hiện sự phong phú trong tín ngưỡng Kiến trúc cũng phản ánh sự khác biệt với thánh đường sang magik và đền tháp bimong kalan Về phong tục, các lễ cúng và nghi thức tang lễ như katé và ndam der táng chôn cho thấy sự đa dạng trong tín ngưỡng và phong tục của người Chăm.
"Awal" là từ Ả Rập có nghĩa là "trước, khởi đầu", chỉ những người Chăm theo Hồi Giáo trước triều đại Po Rome, tương ứng với Chăm Bini (Bà ni) hiện nay Awal tượng trưng cho người mẹ, trong khi "Ahiér", nghĩa là "sau, cuối cùng", ám chỉ những người Chăm chấp nhận Po Awluah là đấng thượng đế sau triều đại Po Rome, tức là Chăm Bàlamôn hôm nay và biểu tượng cho người cha Theo quan niệm của người Chăm, Awal và Ahiér, mặc dù đối lập nhưng luôn gắn bó như một cặp vợ chồng, không thể tách rời Các lễ hội như múa dòng biển rija praong atuw tathik hay lễ nằm thiền thrua thể hiện sự kết nối này trong không gian và thời gian, từ trước anak đến sau likuk, từ dưới ala đến trên ngaok, và giữa đêm malam với ngày harei.
Ngoài ra, còn nhiều hình thức biểu tượng cho cặp đôi như nhạc cụ, vật tổ, vật lễ, đồ dùng và trang phục, tất cả đều thể hiện tính lưỡng cực và luôn hiện hữu trong mối quan hệ lưỡng hợp.