LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thẻ thanh toán là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời từ phương thức mua bán chịu hàng hóa bán lẻ và phát triển gắn liền với sự ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Trong khi thẻ thanh toán được xem là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của nhiều nước trên thế giới từ rất lâu thì tại thị trường Việt Nam thẻ thanh toán mới phát triển mạnh mẽ trong vài năm trở lại đây. Hướng tới đối tượng khách hàng cá nhân, thẻ trở thành công cụ quan trọng trong chiến lược phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ của các ngân hàng. Hoạt động kinh doanh thẻ đã trở nên phổ biến và được vận hành với một quy trình chặt chẽ, kỹ thuật công nghệ hiện đại tại các ngân hàng thương mại trên thế giới. Theo báo cáo của Citi Group năm 2016, trong khi người Ấn Độ và Trung Quốc sử dụng thẻ tín dụng như một tấm thẻ căn cước thì 12% người Úc sử dụng thẻ tín dụng hơn 10 lần trong một tuần, và trung bình mỗi người dân Úc có 2,1 tấm thẻ thanh toán. Người dân Malaysia giữ kỷ lục về thẻ, 84% dân số hiện đang có trong ví ba chiếc thẻ của các ngân hàng khác nhau; trung bình mỗi người sở hữu 3,26 thẻ Tại Việt Nam, tuy mới phát triển nhưng dịch vụ thanh toán thẻ đã có bước phát triển vượt bậc, luôn được sự quan tâm đặc biệt của các Ngân hàng Thương mại và khách hàng. Không chỉ đem lại cho các ngân hàng nguồn lợi nhuận từ phí dịch vụ, nó còn tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn vốn giá rẻ, mở rộng thị trường tín dụng, tăng dư nợ, tăng thu ngoại tệ, mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế của các ngân hàng. Thẻ thanh toán đã trở thành công cụ cạnh tranh khá hữu hiệu và mang lại lợi thế không nhỏ cho ngân hàng náo có khả năng cung cấp sản phẩm thẻ đa dạng với nhiều tiện ích Theo số liệu của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, thanh toán bằng thẻ tuy mới chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng phương tiện thanh toán, nhưng tiềm năng phát triển của thị trường thẻ Việt Nam được đánh giá rất lớn, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO. Hàng năm, thị trường thẻ Việt Nam tăng trưởng bình quân 300% với các sản phẩm ngày càng đa dạng phong phú Dịch vụ thẻ ngày càng phát triển với tốc độ nhanh cả về số lượng, giá trị giao dịch, kéo theo những rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh thẻ ngày càng cao. Các đối tượng tội phạm thực hiện hành vi gian lận với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp, đặc biệt là tội phạm liên quan đến công nghệ cao, gây khó khăn cho đơn vị chấp nhận thẻ trong việc nhận diện thẻ và gây tâm lý e ngại cho khách hàng. Bên cạnh đó, không ít những khách hàng đã không đủ khả năng chi trả sau khi sử dụng sản phẩm thẻ tín dụng với nhiều lý do, gây tổn thất về kinh tế cho Ngân hàng. Từ năm 2013 đến năm 2015, Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam đã tiếp nhận thông tin và thông báo cho các Ngân hàng về 2.125 thẻ đen (nợ quá hạn trên 90 ngày), 2.828 thẻ nghi ngờ bị lộ dữ liệu liên quan đến hơn 47 vụ ATM skimming (các thiết bị đánh cắp dữ liệu tại khe ATM), 5.363 chủ thẻ đen, 19 đơn vị chấp nhận thẻ đen. Từ thực trạng những rủi ro phát sinh trong hạot động kinh doanh thẻ, đòi hỏi các đơn vị kinh doanh thẻ tại Việt Nam cần nghiêm túc thực hiện công tác quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ, cần thắt chặt hơn trong khâu phát hành và cung ứng dịch vụ thẻ để giảm thiểu tối đa các nguy cơ tổn thất trong hoạt động kinh doanh và những rủi ro tiềm tàng đối với loại hình kinh doanh mới mẻ này tại. Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương VIệt Nam (Techcombank) là một trong những Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) hàng đầu ở Việt Nam. Với mục tiêu mang đến sự hài lòng nhất cho khách hàng về chất lượng dịch vụvà sự an tâm về hệ thống, Techcombank là một trong những ngân hàng đi đầu trong việc tập trung đầu tư vào công nghệ, tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển những sản phẩm, dịch vụdựa trên nền tảng công nghệ cao, trong đó kinh doanh thẻ hiện đang được Techcombank chú trọng. Thẻ là một trong những sản phẩm quan trọng trong chiến lược phát triển kinh doanh bán lẻ của Techcombank. Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển về thị phần, Techcombank vẫn không ngừng từng bước khắc phục những rủi ro trong quá trình phát hành và thanh toán thẻ. Với quy trình phê duyệt hồ sơ tập trung đảm bảo minh bạch trong khâu thẩm định, cùng với đội ngũ cán bộ nhân viên năng lực cao, Techcombank đang dần hạn chế tối đa các rủi ro trong hạot động kinh doanh thẻ. Xuất phát từ thực trạng trên, cùng với kinh nghiệm trong hơn ba năm công tác tại Trung tâm Vận hành thẻ và dịch vụtài khoản cá nhân, học viên quyết định lựa chọn đề tài “Quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Thông qua việc nghiên cứu, phân tích các loại rủi ro, phân tích thực trạng quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ, từ đó đưa ra các kết luận, đánh giá và đề ra giải pháp nhằm tăng cường quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ tại Techcombank.
Tổng quan nghiên cứu về quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ của Ngân hàng thương mại
Một số công trình nghiên cứu về rủi ro trong kinh doanh thẻ của NHTM:
Luận văn thạc sỹ của Đỗ Thị Dịu, được thực hiện tại Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2015, tập trung vào "Giải pháp quản trị rủi ro thẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam." Nghiên cứu này nhằm đề xuất các phương pháp hiệu quả để quản lý rủi ro liên quan đến thẻ, góp phần nâng cao an toàn và hiệu suất hoạt động của ngân hàng.
Trong luận văn, tác giả đã tổng quan thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ tại Techcombank trong giai đoạn 2012 – 2014 Dựa trên những phân tích đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực thanh toán thẻ.
Từ năm 2014, sự phát triển của sản phẩm thẻ tại Techcombank chưa thật sự mạnh mẽ, nhưng đến năm 2016, ngân hàng này đã vươn lên vị trí thứ hai về số lượng thẻ Visa phát hành và dẫn đầu thị trường về khối lượng sử dụng thẻ đồng thương hiệu Điều này cho thấy giai đoạn từ 2014 đến nay mới thực sự là thời kỳ bùng nổ trong phát triển sản phẩm thẻ của Techcombank, mặc dù sự gia tăng này cũng kéo theo nhiều rủi ro liên quan đến hoạt động thẻ.
Trong luận văn của mình, Đỗ Thị Dịu tập trung vào quản trị rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ tại Techcombank, nhấn mạnh rằng các phương pháp quản trị rủi ro chủ yếu nhằm giảm thiểu rủi ro cho khách hàng sử dụng thẻ mà chưa xem xét đến rủi ro từ phía ngân hàng Tác giả đặc biệt chú trọng đến quản trị rủi ro trong quá trình "vận hành thẻ", nơi mà phần lớn rủi ro ảnh hưởng đến khách hàng.
Luận văn thạc sỹ của Thạc sỹ Huỳnh Bảo Châu, tại Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, tập trung vào việc đề xuất giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động thanh toán bằng thẻ tại Ngân hàng TNHH Một thành viên Hồng Kông Thượng Hải – Việt Nam Nghiên cứu này không chỉ làm rõ những rủi ro hiện tại mà còn đưa ra các biện pháp cụ thể để nâng cao an toàn trong giao dịch thẻ, góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ và bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Trong luận văn của mình, tác giả Huỳnh Bảo Châu đã tổng quan về tình hình rủi ro thẻ tại Việt Nam trong giai đoạn 2009 – 2012 HSBC, một trong những ngân hàng quốc tế hàng đầu, đã tiên phong trong các hoạt động quản trị rủi ro thẻ Bên cạnh đó, luận văn thạc sỹ "Giải pháp quản trị rủi ro thẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam" của Thạc sỹ Đỗ Thị Dịu từ Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2015 cũng đóng góp quan trọng vào lĩnh vực này.
Luận văn của Huỳnh Bảo Châu tập trung vào phương pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán thẻ, nhằm giảm thiểu rủi ro cho khách hàng Tác giả đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro thẻ trong hoạt động thanh toán mà không ảnh hưởng đến các rủi ro liên quan đến ngân hàng phát hành thẻ.
Luận văn thạc sỹ của Thạc sỹ Lê Đức Hiếu, được thực hiện tại Đại học Đà Nẵng vào năm 2013, tập trung vào chủ đề "Phát triển kinh doanh thẻ" tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam, chi nhánh Quy Nhơn Nghiên cứu này nhằm phân tích và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh thẻ tại ngân hàng, góp phần vào sự phát triển bền vững của chi nhánh.
Trong luận văn, tác giả đã phân tích cơ sở lý luận về thẻ và phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng thương mại, đặc biệt là tại Vietcombank Quy Nhơn Mặc dù đã đưa ra giải pháp mở rộng phát hành và thanh toán thẻ, nhưng các giải pháp này còn sơ sài và chung chung, thiếu đánh giá về rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ Tác giả đề xuất tăng cường biện pháp hạn chế rủi ro như theo dõi chi tiêu thẻ, gửi sao kê hàng kỳ và phối hợp với cơ quan công an để điều tra nhân thân khách hàng Tuy nhiên, nhiều phương pháp này không khả thi hoặc đã được áp dụng rộng rãi, cho thấy rằng các giải pháp hạn chế rủi ro còn mang tính lý thuyết hơn là thực tiễn.
Bài viết “Rủi ro thẻ - những cảnh bảo” của tác giả Hồng Phúc trên trang: http://www.thesaigontimes.vn/ ngày 19/07/2016
Tác giả đã trình bày các dẫn chứng thực tiễn từ báo cáo của MasterCard về tình hình gian lận thẻ tại Việt Nam trong giai đoạn 2014-2016 Bài viết cũng đề cập đến hoạt động của Hiệp hội Thẻ Ngân hàng Việt Nam và các báo cáo liên quan đến rủi ro trong thanh toán và kinh doanh thẻ, bao gồm vấn nạn skimming ATM và tình hình thẻ tín dụng đen cũng như các đơn vị chấp nhận thẻ này Từ những thông tin trên, tác giả đưa ra nhiều ý kiến về hoạt động thẻ tại Việt Nam trong giai đoạn 2014-2016.
Tác giả lựa chọn đề tài “Quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam” trong giai đoạn 2014-2016, khi lĩnh vực kinh doanh thẻ tại Techcombank phát triển mạnh mẽ Luận văn nhấn mạnh sự tăng trưởng đáng kể trong kinh doanh thẻ tại ngân hàng này và đánh giá các nguy cơ rủi ro liên quan đến hoạt động này Đồng thời, tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ.
Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Tổng quan về thẻ của Ngân hàng Thương mại
1.2.1.1 Nguồn gốc ra đời và phát triển của thẻ thanh toán
Sau nhiều giai đoạn thử nghiệm và phát triển, lĩnh vực thẻ thanh toán đã cho ra đời nhiều sản phẩm đa dạng Tuy nhiên, kinh doanh thẻ vẫn là một ngành tương đối mới, bắt đầu hình thành và phát triển từ những năm đầu thế kỷ 20 cho đến nay.
Thói quen cho khách hàng mua chịu dựa trên uy tín đã tồn tại lâu đời tại các cửa hàng bán lẻ ở Mỹ, nơi chủ tiệm thường theo dõi khoản nợ của từng khách hàng Tuy nhiên, khi vốn của cửa hàng không đủ lớn, các chủ tiệm dần nhận ra rằng việc cho khách nợ liên tục không còn khả thi Điều này đã thúc đẩy các tổ chức tài chính phát triển sản phẩm thẻ tín dụng, với khả năng cung cấp khoản vay miễn lãi trong một khoảng thời gian nhất định nhờ vào nguồn lực tài chính và kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng.
Vào năm 1914, Western Union, tổ chức chuyển tiền nổi tiếng của Mỹ, đã lần đầu tiên giới thiệu dịch vụ thanh toán trả chậm cho các khách hàng đặc biệt Công ty phát hành những tấm kim loại in nổi, không chỉ giúp nhận diện và phân biệt khách hàng mà còn cung cấp và cập nhật thông tin về tài khoản cũng như các giao dịch của họ.
Nhiều tổ chức đã nhận thấy giá trị của hình thức kinh doanh trả chậm, dẫn đến việc nhiều đơn vị như nhà ga, khách sạn và cửa hàng trên khắp nước Mỹ áp dụng mô hình này Đặc biệt, vào năm 1924, tập đoàn xăng dầu Mỹ đã phát hành thẻ mua xăng đầu tiên, cho phép người tiêu dùng sử dụng thẻ để mua xăng tại các cửa hàng trên toàn quốc.
Vào năm 1950, Diners Club đã giới thiệu thẻ tín dụng đầu tiên bằng nhựa, đánh dấu một bước ngoặt trong ngành tài chính Ý tưởng ra đời từ trải nghiệm thực tế của Frank McNamara, người sáng lập Diners Club, khi ông gặp tình huống khó xử vì quên mang ví khi đi ăn tại một nhà hàng ở New York.
Ý tưởng kinh doanh thẻ đã nảy sinh từ cam kết thanh toán của Frank NcNamara Ông đã thuyết phục 14 nhà hàng ở New York chấp nhận thanh toán bằng thẻ Diner Club cho mình, 200 đồng nghiệp và người thân Kết quả là câu lạc bộ ăn tối ra đời và phát triển nhanh chóng, chỉ sau một năm đã có 20.000 thẻ được cấp phát.
Năm 1958, American Express gia nhập thị trường thẻ thanh toán, nhanh chóng khẳng định vị thế trong lĩnh vực giải trí và du lịch đang phát triển mạnh mẽ sau chiến tranh thế giới Đến trước năm 1970, thẻ tín dụng trở nên phổ biến, không chỉ dành cho người giàu mà trở thành phương tiện thanh toán thông dụng, giúp người dân dễ dàng du lịch mà không lo về tiền mặt Bank of America, thông qua hợp đồng với các ngân hàng khác phát hành thẻ BankAmerican, đã tăng cường phát hành thẻ và mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ trên toàn quốc và quốc tế Thương hiệu BankAmerican với ba màu xanh, trắng, vàng trở nên quen thuộc, và đến năm 1977, thẻ của ngân hàng này được chấp nhận toàn cầu, đánh dấu sự ra đời của tên gọi thẻ Visa.
Năm 1966, ba ngân hàng lớn ở phía đông nước Mỹ đã hợp tác thành lập Interbank Card Association (ICA), sau này được biết đến với tên gọi MasterCard ICA thiết lập các quy định về cấp phép giao dịch, thanh toán bù trừ, marketing, bảo mật và các vấn đề pháp lý để đảm bảo hoạt động hiệu quả.
Thẻ thanh toán đã trở thành một phần thiết yếu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, phản ánh sự tiến bộ của khoa học công nghệ và văn minh xã hội Được phát triển từ nhu cầu thanh toán và dựa trên công nghệ hiện đại, hệ thống thẻ ngày càng hoàn thiện Các Tổ chức thẻ quốc tế đã xây dựng mạng lưới toàn cầu để xử lý giao dịch, từ phát hành đến quản lý rủi ro Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ USD mỗi năm, thẻ thanh toán đang cạnh tranh mạnh mẽ với tiền mặt và séc trong hệ thống thanh toán toàn cầu, đánh dấu thành công ấn tượng của một ngành nghề chỉ mới hình thành vài thập kỷ.
1.2.1.2 Khái niệm và phân loại thẻ thanh toán a Khái niệm
Thẻ thanh toán là công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, do ngân hàng, tổ chức tài chính hoặc công ty phát hành, cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch mua sắm, thanh toán dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại ngân hàng, đại lý ngân hàng và máy rút tiền tự động Thẻ thanh toán được phân loại thành nhiều loại khác nhau, phục vụ nhu cầu sử dụng đa dạng của người tiêu dùng.
Thẻ tín dụng (Credit Card)
Thẻ tín dụng cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch trong giới hạn tín dụng đã được cấp theo thỏa thuận với tổ chức phát hành.
Thẻ tín dụng được phát hành bởi ngân hàng với hạn mức tín dụng xác định dựa trên khả năng tài chính và tài sản thế chấp của chủ thẻ Chủ thẻ chỉ được phép chi tiêu trong giới hạn của hạn mức này và phải thanh toán toàn bộ hoặc một phần số tiền đã sử dụng cho ngân hàng theo định kỳ hàng tháng Lãi suất tín dụng sẽ khác nhau tùy thuộc vào quy định của từng ngân hàng phát hành.
Thẻ ghi nợ (Debit Card)
Chủ thẻ ghi nợ có quyền thực hiện giao dịch trong giới hạn số dư tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản thanh toán mà họ mở tại tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn.
Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng, mà số tiền chi tiêu phụ thuộc vào số dư hiện tại trong tài khoản của chủ thẻ Mỗi lần giao dịch, số tiền sẽ được trừ ngay lập tức từ tài khoản của người dùng.
Có 2 loại thẻ ghi nợ cơ bản:
Thẻ Online cho phép giao dịch được kết nối trực tiếp từ thiết bị điện tử tại các cơ sở chấp nhận thẻ hoặc điểm rút tiền mặt đến ngân hàng phát hành Giá trị giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ.