MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xã hội càng văn minh, stress xuất hiện càng nhiều. Stress là trạng thái phức tạp của đời sống con người, chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố xã hội. Vấn đề stress đã được rất nhiều nhà khoa học đặc biệt là tâm lý học và y học quan tâm nghiên cứu. Thực chất stress không phải hoàn toàn có hại. Ở một mức độ nhất định, stress kích thích cơ thể hoạt động, huy động năng lượng dự trữ, tạo điều kiện cho hành động của con người đạt kết quả cao, đó là loại stress có lợi. Nhưng stress vượt quá ngưỡng sẽ làm cho cơ thể kiệt sức, căng thẳng, lo âu, suy giảm hệ miễn dịch, giảm khả năng lao động trí óc và chân tay… Đây là loại stress có hại nên cần có biện pháp khắc phục, giảm thiểu ảnh hưởng của nó đối với con người. Stress xuất hiện ở con người thuộc mọi lứa tuổi khác nhau, trên mọi bình diện của cuộc sống, ở tất cả các lĩnh vực, trong toàn bộ các mối quan hệ. Cùng với sự phát triển đó của xã hội, các căn bệnh mà cách đây mấy chục năm tưởng chừng như rất hiếm hoi thì dường như bây giờ đang trở thành “đại họa”. Một trong những căn bệnh đó là tự kỷ, mà nạn nhân chủ yếu là trẻ em. Các bậc cha mẹ ngày nay với lượng kiến thức dồi dào cùng kỹ năng xã hội nhuần nhuyễn ở mức độ nhất định cũng vẫn bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, không dám tin vào sự thật là con mình mắc hội chứng tự kỷ. Một số bậc cha mẹ ban đầu chấp nhận được sự thật đó, nhưng dường như những đau đớn, lo âu, căng thẳng xen lẫn cảm giác tội lỗi là họ đã gây ra căn bệnh này cho con mình… tất cả những điều đó sẽ không chỉ gây hại đến sức khỏe thể chất cũng như tinh thần của họ mà còn ảnh hưởng đến cả khả năng chữa trị cho những đứa con. Các bậc cha mẹ ở những nước phát triển khi biết thân nhân mắc hội chứng tự kỷ thường sẽ đi tìm tài liệu, tìm đến các dịch vụ , tham gia hiệp hội hoặc các nhóm tương trợ giành cho người có loại khuyết tật đó. Cha mẹ sẽ học hỏi cách dạy dỗ con cái, tìm sự giúp đỡ cũng như phục vụ và hướng dẫn, và không bỏ qua cơ hội để có những dịch vụ trên. Người Việt chúng ta thường gặp phải nhiều bất lợi hơn vì bệnh tự kỷ đã khá phổ biến ở Việt Nam nhưng tài liệu hay những dịch vụ liên quan vẫn còn xa lạ với các bậc cha mẹ. Những bất lợi đó dẫn tới nhiều mất mát và thiệt thòi, như cha mẹ không được sự cảm thông của cả hai bên gia đình, bạn bè, cộng đồng và xã hội, càng khiến họ cảm thấy đau khổ, tuyệt vọng và khép kín mình lẫn thân nhân mắc hội chứng tự kỷ sau khung cửa, cô lập với người xung quanh. Có bà mẹ đã vô cùng đau đớn khi các nhà hàng xóm khép kín cửa không muốn cho con cái họ chơi với đứa bé mắc hội chứng tự kỷ, họ sợ con mình bị làm đau và nhiều điều khác nữa. Đây là thực tế mà chúng tôi luôn mong muốn được tìm hiểu, nghiên cứu để thấy được rõ hơn những ảnh hưởng của Stress ở những bậc cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ, từ đó có thể vận dụng một số liệu pháp tâm lý để có thể giúp các bậc cha mẹ vượt qua được những khủng hoảng đó, đồng thời tạo cơ hội để họ có điều kiện tìm được những nguồn hỗ trợ trong việc chữa trị bệnh tự kỷ cho con mình, mà đặc biệt là chính họ sẽ giúp con mình thoát khỏi căn bệnh đó một cách tốt nhất khi có được tâm lý cân bằng và khỏe mạnh. Từ mong muốn đó, tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu Stress ở những bậc cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ”.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Mức độ và một số biểu hiện Stress ở các bậc cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ.
Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu với 30 cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ tại các cơ sở chẩn đoán và can thiệp bán hòa nhập cũng như chuyên biệt.
Giả thuyết khoa học
Cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ thường trải qua mức độ căng thẳng nghiêm trọng Tuy nhiên, nếu được hướng dẫn áp dụng một số liệu pháp thư giãn, họ có thể giảm bớt lo âu và căng thẳng trong quá trình điều trị cho con.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài về stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ cần tìm hiểu các vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm, biểu hiện và nguồn gốc của stress Việc hiểu rõ những yếu tố này sẽ giúp xác định ảnh hưởng của stress đối với cha mẹ và từ đó đưa ra các giải pháp hỗ trợ phù hợp.
Khảo sát thực trạng mức độ stress ở cha mẹ có con bị tự kỷ cho thấy nhiều biểu hiện đáng chú ý Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu nguyên nhân gây ra tình trạng căng thẳng này, từ áp lực chăm sóc con cái đến thiếu hỗ trợ từ cộng đồng Việc hiểu rõ những yếu tố này sẽ giúp xây dựng các giải pháp hỗ trợ hiệu quả hơn cho các bậc phụ huynh.
5.3 Thử nghiệm một số liệu pháp thư giãn để giải tỏa Stress cho các bậc cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu các biểu hiện stress ở cha mẹ trong độ tuổi từ 25 đến 35 có con bị hội chứng tự kỷ.
Nghiên cứu này tập trung vào các bậc phụ huynh trong độ tuổi từ 25 đến 35 có con bị hội chứng tự kỷ, đang nhận can thiệp tại bệnh viện và các trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật từ tháng 12/2009 đến tháng 9/2010.
Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia
- Phương pháp phân tích những trường hợp điển hình
7.3 Phương pháp thực nghiệm tác động làm giảm stress
7.4 Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ STRESS VÀ STRESS Ở CHA MẸ CÓ CON MẮC HỘI CHỨNG TỰ KỶ………………………… 4 1.1 Lịch sử nghiên cưú vấn đề stress
Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong lịch sử phát triển của khoa học, con người đã nhận thức được những tác hại của stress đối với sức khỏe, mặc dù chưa hiểu rõ bản chất và cơ chế của nó Nhờ vào những trải nghiệm thực tiễn, nhiều phương pháp chống lại stress có hại đã được đề xuất.
Từ thời Xuân thu Chiến Quốc (403 – 221 TCN), các danh y người Trung Quốc với hơn 2000 năm kinh nghiệm, đã đúc kết những nguyên nhân dẫn đến bệnh tật là do:
- Nguyên nhân bên ngoài: “lục khí – ngũ vận”, (tức là gió – rét, nắng - ẩm thấp, khô hanh và nóng).
- Nguyên nhân bên trong: do rối loạn 7 loại cảm xúc, còn gọi là “thất tình” tức là: vui, giận, sầu bi, khoái lạc, yêu, ghét, đam mê.
- Nguyên do những biến cố trong đời sống như: thiên tai, tai nạn giao thông, bị con vật cắn, ăn nhầm phải chất độc, thất nghiệp…(Dẫn theo 32, tr.21).
Dựa trên những nguyên nhân đã nêu, con người đã xác định hai nguyên lý cơ bản trong phòng chống bệnh tật là "Thiên – Nhân tương ứng" và "điều – hòa theo thuật số" Hai nguyên lý này phản ánh đầy đủ ba biện pháp mà Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị: dinh dưỡng hợp lý, thể dục thể thao cho mọi người và đề cao trách nhiệm cá nhân.
Vào thế kỷ XIII, danh y Tuệ Tĩnh trong tác phẩm “Nam dược thần hiệu” đã chỉ ra rằng nguyên nhân chính của bệnh tật là do thất tình, đồng thời đề xuất phương pháp trị bệnh thông qua việc sử dụng ám thị với cảm xúc đối lập Cùng thời điểm này, danh y Hải Thượng Lãn Ông cũng nhấn mạnh mối liên hệ giữa tình trạng bệnh lý và yếu tố “thất tình”, khuyến nghị rằng việc phòng bệnh cần được thực hiện thông qua chế độ ăn uống, làm việc và nghỉ ngơi hợp lý.
Thế kỷ XVII, Hooke đưa ra thuyết “tương đồng cấu trúc” đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu stress Cũng từ thuyết này, từ
Stress, trong ngữ cảnh khoa học, được hiểu qua nghiên cứu của Hooke về khả năng chịu đựng của các cấu trúc hạ tầng trước những khối nặng lớn mà không bị sụp đổ Ông phân tích các khái niệm "load" (khối nặng), "stress" (phần bị đè nén) và "strain" (sự biến dạng do tác động của khối nặng) Tất cả những khái niệm này đều chỉ ra rằng stress là những tác động từ yếu tố bên ngoài, yêu cầu hệ sinh – tâm lý – xã hội phải có sự đáp ứng thích hợp.
Sự đóng góp của Hooke bởi thuyết “tương đồng cấu trúc” và ý tưởng
“cơ thể như một cỗ máy” đặt nền móng cho hai ý tưởng khác có ảnh hưởng sâu sắc đến khái niệm về stress Đó là:
Cơ thể con người được ví như một cỗ máy có thể bị hư tổn và bào mòn theo thời gian Năm 1956, H Selye đã khẳng định rằng stress có tác động tiêu cực, dẫn đến sự hư tổn và bào mòn của cơ thể.
Cơ thể con người giống như một cỗ máy cần nhiên liệu để hoạt động, trong đó năng lượng do hệ thần kinh sản sinh đóng vai trò quan trọng Mức độ năng lượng này quyết định hiệu quả hoạt động của cơ thể; nếu năng lượng cạn kiệt, cơ thể có thể hoạt động kém hiệu quả hoặc ngừng hoạt động hoàn toàn Các nhà khoa học đã đưa ra các khái niệm như "sự cạn kiệt năng lượng thần kinh" và "những rối loạn thần kinh" để mô tả tình trạng này.
René Descartes (1546-1650) đã để lại ảnh hưởng đáng kể trong lĩnh vực tâm lý học nghiên cứu stress, mặc dù ông không trực tiếp đề cập đến khái niệm này Ông đã giải thích mối quan hệ giữa tâm trí và cơ thể, nhấn mạnh rằng "tinh thần phi vật chất có thể ảnh hưởng đến cơ thể vật chất" Đến nay, mối quan hệ giữa tinh thần và cơ thể vẫn là một vấn đề chưa có lời giải đáp rõ ràng, nhưng cách tiếp cận của Descartes vẫn tiếp tục được nghiên cứu và thảo luận trong các nghiên cứu hiện đại về stress.
Mọi người đều trải qua những trải nghiệm về thể chất và tinh thần, và ngày càng nhiều người nhận thức được rằng chúng có ảnh hưởng lẫn nhau.
Vào thế kỷ XVII, nhiều nhà khoa học đã xem xét lại các "cảm xúc mạnh" như trạng thái tinh thần bị kích động, chứng hysteri và ảo tưởng, dẫn đến kết luận rằng "ít nhất 1/3 căn bệnh đều có nguồn gốc thần kinh" Đồng thời, các nhà lý luận phê bình xã hội cũng nhận định rằng "hệ thần kinh của con người thích nghi kém và không thể đương đầu với tính phức tạp ngày càng tăng của cuộc sống hiện đại".
Vào thế kỷ XIX, bác sĩ thần kinh George Beard đã chỉ ra rằng áp lực cuộc sống là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng "suy nhược thần kinh", với các triệu chứng như lo âu, mệt mỏi không rõ nguyên do và nỗi sợ vô lý Ông nhấn mạnh rằng tình trạng này phát sinh từ sự không khả thi của hệ thần kinh trong việc đáp ứng yêu cầu hàng ngày Beard cũng cho rằng suy nhược thần kinh là hệ quả của một tổ chức xã hội nhất định, đồng thời làm nổi bật vai trò của xã hội trong việc hình thành các căn bệnh tâm thần Nghiên cứu của ông vẫn giữ được giá trị cho đến ngày nay.
Năm 1859, nhà sinh lý học Pháp, Claude Bernard, đã đưa ra khái niệm
Môi trường bên trong cơ thể con người được xem như một hệ thống phức tạp, nơi sự hòa hợp và ổn định của nó phụ thuộc vào môi trường bên ngoài Sự thay đổi quá mức của môi trường bên ngoài có thể dẫn đến đau ốm hoặc thậm chí tử vong nếu cơ thể không thể bù trừ và duy trì sự cân bằng Hệ thần kinh đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết hoạt động của cơ thể, và chỉ những động vật cao cấp mới có khả năng này Claude Bernard đã mở ra những khám phá về sự thích ứng và ổn định, trong khi Walter Cannon, nhà sinh lý học Harvard, đã nghiên cứu tác động của stress lên cơ thể và đưa ra khái niệm "homeostasis" và "chống trả hoặc bỏ chạy" Ông nhận thấy rằng khi đối mặt với đe dọa, cơ thể sẽ kích hoạt một chuỗi phản ứng thần kinh và nội tiết để bảo vệ tính mạng Trung tâm đáp ứng với stress nằm ở vùng dưới đồi, nơi kiểm soát hệ thần kinh tự chủ và tuyến yên, và nghiên cứu của Cannon đã đặt nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo về phản ứng stress.
Năm 1932, I.P Pavlov đã mô tả khái niệm “Tự điều chỉnh, cân bằng nội môi” với nội dung rằng cơ thể là một hệ thống tự điều chỉnh cao nhất, có khả năng tự duy trì, tự hiệu chỉnh, tự cân bằng và hoàn thiện bản thân.
Sau Thế chiến II, bác sĩ tâm thần và nhà nhân chủng học W.H Rivers đã đặt nền tảng cho nghiên cứu hiện đại về rối loạn stress sau sang chấn Công trình của ông đã mở ra hướng đi mới cho các nhà khoa học trong việc hiểu và điều trị tình trạng này.
Năm 1936, Hans Selye, một nhà nội tiết học người Canada, đã mở rộng nghiên cứu của Cannon và trở thành người đầu tiên nghiên cứu một cách hiện đại về ảnh hưởng của stress nặng kéo dài lên cơ thể Ông đã mô tả stress thông qua khái niệm "Hội chứng thích nghi chung" (GAS: General Adaptation Syndrome), bao gồm ba giai đoạn: báo động, kháng cự và kiệt sức.
Sơ đồ 1: Hội chứng thích nghi chung (Dẫn theo 8, tr 9)
Giai đoạn thứ nhất của phản ứng stress, được gọi là giai đoạn báo động và huy động sức lực, xảy ra khi con người nhận thức được sự hiện diện của tác nhân gây stress Trong giai đoạn này, hệ thần kinh giao cảm được kích thích, nhưng nếu tình trạng này kéo dài, nó có thể dẫn đến các rối loạn trong hệ tuần hoàn máu, bệnh loét dạ dày, và làm tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh tật khác.
Mức kháng cự bình thường
Báo động cơ thể huy động đối phó với tác nhân gây stress
Kháng cự cơ thể cố gắng đối phó hoặc thích nghi với tác nhân gây stress
Kiệt sức, cơ thể mất khả năng đối phó và dẫn tới nguy cơ tử vong
Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XX, nghiên cứu về stress đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học, chủ yếu trong lĩnh vực sinh lý học và y học Giáo sư Tô Như Khuê là người tiên phong trong việc nghiên cứu stress từ góc độ sinh lý và y học, với những công trình quan trọng được thực hiện trong thời kỳ chiến tranh.
Sự tri giác stress cá nhân
Nguồn gốc gây ra stress trước đây và mới xuất hiện
Tri giác sự khủng hoảng, các nguồn gốc gây stress
Trong giai đoạn 1967-1975, không có kết quả tranh, chủ yếu phục vụ cho việc tuyển dụng, huấn luyện và nâng cao sức chiến đấu cho bộ đội và các binh chủng đặc biệt của Quân đội nhân dân Việt Nam Từ năm 1975 đến nay, các nghiên cứu về stress và phương pháp chống stress của ông đã được công bố trong một đề tài cấp Nhà nước mang tên “Tìm hiểu tác dụng dưỡng sinh của võ thuật”.
Tác giả Nguyễn Văn Nhận cùng các bác sĩ Phạm Ngọc Rao và Nguyễn Hữu Nghiêm trong tác phẩm “Stress trong thời đại văn minh” đã cảnh báo về nguy cơ stress và những hậu quả nghiêm trọng của nó trong xã hội hiện đại Đồng thời, các tác giả Đặng Phương Kiệt và Nguyễn Khắc Viện cũng nghiên cứu lý thuyết stress, nhưng chủ yếu tập trung vào vấn đề stress ở trẻ em Nhiều bài viết của họ đã được tổng hợp trong các bài giảng tại Trung tâm nghiên cứu trẻ em (N-T) Các tác phẩm sau này của Đặng Phương Kiệt chủ yếu là tổng hợp và chuyển dịch từ các tài liệu nước ngoài như Tâm lý và sức khỏe, Cơ sở tâm lý học ứng dụng, và Stress và sức khỏe.
Những công trình của các ông đã góp phần làm cơ sở lý luận để nghiên cứu stress tại Việt Nam.
Tháng 11 năm 1997, Viện sức khỏe tâm thần thuộc Bệnh viện Bạch Mai đã tổ chức thành công hội nghị khoa học về “Những rối loạn có liên quan đến stress ở trẻ em và thanh thiếu niên” với sự tham gia của nhiều nhà
Tại hội nghị, các nhà tâm lý học như Ngô Công Hoàn, Mạc Văn Trang, và Nguyễn Kim Quý đã có những đóng góp quan trọng trong các báo cáo về stress ở trẻ em và học sinh – sinh viên, cùng với sự tham gia của các nhà khoa học từ nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tâm lý học nghiên cứu stress vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển, với những đóng góp quan trọng từ các bác sĩ như Đặng Phương Kiệt và Nguyễn Khắc Viện Họ đã ghi nhận ảnh hưởng của stress đến các rối nhiễu tâm lý ở trẻ em trong quá trình khám chữa Tương tự, Nguyễn Công Khanh cũng đã chỉ ra mối liên hệ giữa stress và các rối nhiễu tâm lý trong tác phẩm của mình.
Ngày, 17-18/8/2000, tại Hội thảo Việt – Pháp về tâm lý học: “Trẻ em, văn hóa, giáo dục”, một số tác giả như: Nguyễn Công Khanh (18,tr.80-83),
Lã Thị Bưởi và cộng sự (3,tr.115-121)…đã có những báo cáo về stress ở tuổi thanh thiếu niên.
Nhiều nghiên cứu ở cấp độ cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ đã được thực hiện và nghiệm thu, trong đó có công trình "Nghiên cứu stress ở cán bộ quản lý" (2001) của Nguyễn Thành Khải Đây là nghiên cứu đầu tiên về stress ở tuổi trung niên, tập trung vào nhóm đối tượng đặc thù của độ tuổi này Tuy nhiên, nghiên cứu chưa xem xét đầy đủ các yếu tố tâm lý và gia đình liên quan đến lứa tuổi này.
Luận văn thạc sỹ tâm lý học của Phạm Thị Thanh Hương với đề tài:
“Stress trong học tập của sinh viên” (2003) Đề tài nghiên cứu: “Căng thẳng và bệnh tim”(2006) của Phạm Mạnh Hùng – Trường Đại học Y Hà Nội.
Luận văn thạc sỹ tâm lý của tác giả Phạm Thị Hồng Định với đề tài:
“Nghiên cứu stress ở những trẻ em vị thành niên qua đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567”(2007).
Luận văn thạc sỹ tâm lý học của tác giả Nguyễn Thị Hải với đề tài:
“Nghiên cứu stress ở người trưởng thành”(2008).
Vấn đề stress tại Việt Nam đang được nghiên cứu từ góc độ tâm lý học, nhằm nâng cao đời sống nhân dân trong bối cảnh hiện đại hóa và công nghiệp hóa Mặc dù hội chứng tự kỷ đang gia tăng trên toàn cầu, chưa có nghiên cứu nào về stress ở cha mẹ có con bị hội chứng này Điều này cần được chú trọng, vì stress ở cha mẹ có thể ảnh hưởng lớn đến trẻ em, đặc biệt là trẻ có hội chứng tự kỷ.
Một số vấn đề lí luận về stress
đề tài “ Nghiên cứu stress ở các bậc cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
1.2 Một số vấn đề lý luận về stress
* Cách hiểu theo một số từ điển
Theo Encarta và các từ điển tâm lý học Mỹ, từ "stress" có hai nghĩa chính Thứ nhất, stress là sự căng thẳng không thể tránh khỏi trong cơ thể, phản ứng lại các tác động bên ngoài, dẫn đến tình trạng khó chịu và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe thể chất, biểu hiện qua nhịp tim tăng, huyết áp cao, và cảm giác lo âu Thứ hai, stress có thể được hiểu là một kích thích thể chất hoặc tâm lý gây ra căng thẳng tinh thần và các phản ứng sinh lý, có thể dẫn đến bệnh tật Động từ "stress" chỉ hành động chịu áp lực và căng thẳng cả về thể chất lẫn tinh thần.
Theo từ điển tâm lý học của Nga do V.P Dintrenko và B.G Mesiriakova biên soạn, ô stress được định nghĩa là trạng thái căng thẳng tâm lý xuất hiện ở con người trong quá trình hoạt động dưới những điều kiện phức tạp và khó khăn của cuộc sống hàng ngày, cũng như trong các tình huống đặc biệt.
Theo từ điển Tâm lý học của Andrew M Colman (2003), stress được định nghĩa là sự căng thẳng cả về thể chất lẫn tâm lý, phát sinh từ những tình huống, sự kiện hoặc trải nghiệm khó khăn mà con người khó có thể chịu đựng hoặc vượt qua, bao gồm các biến cố liên quan đến nghề nghiệp, kinh tế, xã hội, cảm xúc hoặc thể chất.
Theo "Từ điển Y học Anh – Việt" (2007), stress được định nghĩa là bất kỳ yếu tố nào đe dọa sức khỏe cơ thể hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến các chức năng của cơ thể, bao gồm tổn thương, bệnh tật và trạng thái lo lắng.
*Theo quan niệm của một số nhà nghiên cứu:
Bác sĩ Eric Albert, nhà tâm lý học và sáng lập Viện nghiên cứu stress, định nghĩa stress là nỗ lực của cơ thể để thích nghi với những thay đổi Nhà sinh vật học Canada, Hans Selye, cho rằng stress là phản ứng của cơ thể trước các tác động từ môi trường Ông đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau, trong đó định nghĩa phổ biến nhất là stress là trạng thái thể hiện trong một hội chứng bao gồm tất cả các biến cố không đặc hiệu trong một hệ thống sinh học Cuối đời, ông nhấn mạnh rằng stress có tính chất tổng hợp, không chỉ thể hiện trong trạng thái bệnh lý, mà là mọi đáp ứng của cơ thể trước các yêu cầu hay đòi hỏi tác động lên cơ thể.
Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, tác giả L.A.Kitaepxmưx đã nhận định rằng ô stress là những phản ứng không đặc hiệu của cơ thể, bao gồm cả biểu hiện sinh lý và tâm lý Ông cho rằng tính không đặc hiệu này của các quá trình thích nghi tâm lý và sinh lý thể hiện qua cả những phản ứng tiêu cực lẫn tích cực, tùy thuộc vào cường độ, trường độ và tầm quan trọng của các tác động mà cơ thể gặp phải.
Hầu hết các nhà nghiên cứu về stress tại Việt Nam thường dựa vào các khái niệm từ các tác giả quốc tế Tuy nhiên, vẫn có một số tác giả đưa ra quan điểm riêng, đóng góp vào việc hiểu biết về stress trong bối cảnh Việt Nam Một số tác giả tiêu biểu có những ý kiến đáng chú ý trong lĩnh vực này.
Tác giả Tụ Như quan niệm rằng stress chính là những phản ứng không đặc hiệu xảy ra do các yếu tố tâm lý có hại trong những tình huống mà con người cảm thấy bất lợi hoặc rủi ro Trong đó, vai trò quyết định không chỉ phụ thuộc vào các tác nhân kích thích mà chủ yếu do sự đánh giá chủ quan về tác nhân đó Định nghĩa này nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố nhận thức và thái độ của con người trong việc trải nghiệm stress.
Một số nhà tâm lý học như Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy và Lê Khanh đã chỉ ra rằng xúc cảm là thành phần quan trọng của stress Họ cho rằng stress xuất hiện trong các tình huống nguy hiểm, hẫng hụt, hoặc khi con người phải chịu đựng nặng nhọc về thể chất và tinh thần Ngoài ra, stress cũng xảy ra khi cần phải đưa ra quyết định nhanh chóng và quan trọng.
Theo Nguyễn Thành Khải, stress được hiểu là trạng thái căng thẳng tâm lý mà con người trải qua trong quá trình hoạt động và trong cuộc sống hàng ngày.
Ô stress được Trần Anh Thụ định nghĩa là trạng thái gây khó chịu hoặc tổn thương về cảm xúc và tinh thần, xảy ra khi cá nhân phản ứng với những kích thích hoặc tình huống căng thẳng và áp lực từ bên ngoài Tình trạng này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, với các dấu hiệu dễ nhận thấy như nhịp tim tăng, cảm giác căng thẳng, khó chịu và ưu phiền.
Hiện nay, stress được hiểu theo nhiều cách khác nhau Một số người xem stress như nguyên nhân gây ra vấn đề, trong khi những người khác lại coi nó là hậu quả Ngoài ra, có người tiếp cận stress từ góc độ sinh học, coi đây là một phản ứng sinh lý của cơ thể, trong khi các nhà tâm lý học lại nhấn mạnh sự kết hợp giữa yếu tố sinh học và tâm lý.
Stress cần được nhìn nhận một cách tổng thể, vừa là một yếu tố kích thích, vừa là hậu quả của nhiều yếu tố khác nhau Nó liên quan đến các khía cạnh sinh học, xã hội và tâm lý trong quá trình ứng phó của con người.
Stress được hiểu là trạng thái căng thẳng tâm lý, thường xuất hiện khi con người đối mặt với những biến cố và khó khăn trong cuộc sống hàng ngày Các dấu hiệu của stress bao gồm nhịp tim tăng, huyết áp cao, cảm giác mệt mỏi, khó chịu, và tâm trạng ưu phiền, chán nản Hậu quả của stress có thể khác nhau tùy thuộc vào khả năng ứng phó của từng người.
1.2.2 Một số mô hình lý thuyết về stress
Hiện nay, có nhiều mô hình lý thuyết và cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu về stress, được phát triển từ các công trình nghiên cứu đa dạng.
1.2.2.1 Cách tiếp cận sinh học
Khái niệm hội chứng tự kỷ
Tự kỉ, xuất phát từ từ Hy Lạp "Autism", có nghĩa là tự động và tự thân, lần đầu tiên được Bleuler sử dụng để chỉ triệu chứng cơ bản của bệnh tâm thần phân liệt Triệu chứng tự kỉ thể hiện sự mất mát lớn trong khả năng giao tiếp và tương tác xã hội, với người bệnh thường thu mình vào thế giới riêng, gặp khó khăn trong việc giao tiếp và kết nối với môi trường xung quanh.
Năm 1943, bác sĩ tâm thần học Leo Kanner đã phát hiện và mô tả hội chứng Tự kỷ thời kỳ ấu nhi, với các đặc điểm như khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ, chậm nói, không sử dụng ngôn ngữ hiệu quả, hành vi lặp lại, thiếu trí tưởng tượng và ám ảnh với sự lặp lại, trong khi vẫn có ngoại hình bình thường Đến nay, hiểu biết về trẻ tự kỷ đã phát triển đáng kể.
“Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tâm thần” đã đưa ra những tiêu chí chẩn đoán Tự kỉ như sau:
Một tập hợp gồm sáu hoặc nhiều hơn các tiêu chí của nhóm (1), (2), và
(3), trong đó có ít nhất hai tiêu chí từ nhóm (1) và một tiêu chí từ mỗi nhóm
* Nhóm (1) gồm các tiêu chí sau:
- Giảm khả năng định tính trong tương tác xã hội thể hiện ở ít nhất hai trong số các biểu hiện sau:
Giảm khả năng sử dụng hành vi phi ngôn ngữ đa dạng như ánh mắt, nét mặt, tư thế cơ thể và cử chỉ có thể ảnh hưởng đến khả năng tạo dựng mối liên hệ xã hội.
- Không có khả năng xây dựng mối quan hệ đối với các bạn đồng trang lứa phù hợp với các mức độ phát triển.
Thiếu sự chia sẻ tự nhiên về niềm vui, sở thích, mối quan tâm và thành tích với người khác có thể dẫn đến sự cô lập Ví dụ, không bao giờ mang hoặc chỉ cho người khác xem những thứ mình yêu thích có thể làm giảm kết nối xã hội và cảm giác thân thuộc Việc không chia sẻ những điều này không chỉ ảnh hưởng đến bản thân mà còn làm mất đi cơ hội tạo dựng mối quan hệ gắn bó với những người xung quanh.
- Thiếu sự trao đổi về tình cảm xã hội.
* Nhóm (2) gồm các tiêu chí sau:
- Giảm khả năng định tính trong giao tiếp thể hiện ở ít nhất một trong số những biểu hiện sau:
Trẻ em có thể gặp khó khăn trong việc phát triển khả năng nói, thể hiện qua việc chậm hoặc hoàn toàn không phát triển ngôn ngữ Điều này có thể đi kèm với việc thiếu ham muốn giao tiếp bằng các hình thức khác, chẳng hạn như cử chỉ hay điệu bộ giống như trong kịch câm.
- Với những cá nhân có thể nói được thì lại suy giảm khả năng thiết lập và duy trì đối thoại.
- Sử dụng ngôn ngữ trùng lặp và rập khuôn hoặc sử dụng ngôn ngữ khác thường.
- Thiếu hụt những hoạt động, cách chơi bắt chước mang tính xã hội phù hợp với mức độ phát triển.
* Nhóm (3) gồm các tiêu chí sau:
- Những kiểu hành vi, những mối quan tâm và hành động lặp đi lặp lại,hoặc rập khuôn, thể hiện ít nhất một trong những biểu hiện sau:
Việc quá bận tâm đến một hoặc một số mối quan hệ rập khuôn có thể dẫn đến sự tập trung và cường độ cảm xúc bất thường, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống cá nhân và tinh thần.
- Gắn kết cứng nhắc với những thủ tục hoặc nghi thức riêng biệt và không mang tính chức năng.
Các biểu hiện lặp đi lặp lại hoặc rập khuôn có thể bao gồm những hành động như gõ tay, vặn tay, hoặc di chuyển toàn thân một cách phức tạp, chẳng hạn như đi trên đầu ngón chân.
- Bận tâm dai dẳng đối với các bộ phận của vật thể.
- Chậm hoặc thực hiện một cách không bình thường các chức năng ở ít nhất một trong các lĩnh vực sau, với mốc khởi đầu trước tuổi lên 3:
2 Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội.
3 Chơi/ hoạt động mang tính biểu tượng hoặc tưởng tượng.
- Hội chứng không phải rối loạn RETT hay rối loạn bất hoà nhập thời kỳ ấu thơ.
Rối loạn Tự kỉ được chẩn đoán qua những đặc điểm nổi bật như khó khăn trong phối hợp và giao tiếp xã hội, cùng với sự xuất hiện của các hành động và sở thích hạn hẹp Biểu hiện của rối loạn này rất đa dạng, tùy thuộc vào mức độ phát triển và độ tuổi của từng cá nhân.
Theo tiến sĩ Trần Thu Hà từ Bệnh viện Nhi Trung ương, tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển thâm nhập, tác động đến nhiều khía cạnh của sự phát triển, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp và mối quan hệ xã hội.
Người mắc hội chứng tự kỷ thường không có khuyết tật thể chất và có vẻ ngoài giống như người bình thường, điều này khiến cha mẹ gặp khó khăn trong việc chẩn đoán và phát hiện sớm tình trạng của con Sự không rõ ràng này dẫn đến những thách thức trong việc chấp nhận tình trạng tật của trẻ.
Tự kỷ là một khuyết tật phát triển kéo dài suốt đời, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng giao tiếp, quan hệ xã hội, tưởng tượng và hành vi của trẻ.
Trẻ hay người mắc hội chứng Tự kỉ thường có khiếm khuyết về ba lĩnh vực sau:
Trẻ tự kỷ thường gặp khó khăn trong việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ xã hội, sống trong thế giới riêng và tách biệt với những người xung quanh Nhiều bậc phụ huynh cảm thấy buồn khi con cái không thể hiện tình cảm hay thái độ với họ Dù có một số trẻ tự kỷ cố gắng giao tiếp, nhưng cách thức giao tiếp của chúng thường kỳ quặc, như liếm hay ngửi cơ thể người khác, khiến người khác cảm thấy khó chấp nhận Ngoài ra, trẻ tự kỷ thường tránh giao tiếp mắt và gặp khó khăn trong việc duy trì tình bạn bên ngoài gia đình, thường bị xem là kỳ lạ trong các mối quan hệ xã hội.
Trẻ tự kỷ thường gặp khó khăn trong giao tiếp xã hội do chậm phát triển ngôn ngữ, với nhiều trẻ không có khả năng nói Việc hiểu ngôn ngữ cũng là một thách thức lớn, dẫn đến trở ngại trong việc tương tác với người khác Hơn nữa, trẻ tự kỷ thường hạn chế trong việc hiểu và sử dụng các công cụ phi ngôn ngữ, như cử chỉ, điệu bộ, biểu cảm khuôn mặt, ngữ điệu và lời nói Nhiều nghiên cứu cho thấy, dù có khả năng nói, trẻ tự kỷ thường rất thụ động trong việc sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp Giọng điệu của trẻ thường cứng nhắc và phẳng, thiếu sự nhấn nhá, điều này càng làm tăng khó khăn trong giao tiếp với người khác.
Trẻ em tự kỷ gặp khó khăn trong việc phát triển khả năng chơi tưởng tượng, khác với trẻ mẫu giáo bình thường, những trẻ này thường tham gia vào các hoạt động chơi đóng vai phong phú và sáng tạo Trẻ tự kỷ thường chỉ chơi với đồ vật theo cách rập khuôn và kỳ quặc, chỉ chú ý đến một số chi tiết nhất định mà không hiểu rõ chức năng của chúng.
Trẻ em thường hiểu lời nói theo nghĩa đen và gặp khó khăn trong việc nắm bắt nghĩa chuyển hay nghĩa bóng Do đó, người trưởng thành mắc chứng tự kỷ thường phù hợp với các công việc đơn giản, ít phức tạp và yêu cầu sự tỉ mỉ.
Đặc điểm stress ở người trưởng thành
Hầu hết các phụ huynh có con bị tự kỷ thường phải khẳng định vị trí của mình trong gia đình và xã hội, dẫn đến việc họ phải nỗ lực hết mình trong công việc và cuộc sống Tuy nhiên, áp lực này cũng gây ra những căng thẳng, mệt mỏi và lo âu Biểu hiện của stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ có nhiều điểm tương đồng với các lứa tuổi khác, cho thấy sự cần thiết phải nhận diện và quản lý căng thẳng trong giai đoạn này.
Chứng bệnh tâm thể có thể biểu hiện qua nhiều dấu hiệu khác nhau, bao gồm đau nhức mãn tính mà không có tổn thương thực thể, nhức đầu do căng thẳng, và các triệu chứng như chân tay lạnh, đau nhức cơ xương Ngoài ra, các vấn đề về tim mạch như huyết áp thấp hoặc cao, rối loạn tiêu hóa như đau dạ dày, buồn nôn, tiêu chảy hay táo bón, cũng như các bệnh hô hấp như viêm xoang, ho hen, khó thở, và các vấn đề về da như viêm da hay dị ứng đều có thể liên quan đến chứng bệnh này Thậm chí, một số bệnh nhiễm trùng hoặc ung thư cũng có thể là hệ quả của tình trạng tâm thể.
Các chứng rối loạn tâm lý như lo âu, ám ảnh và dễ tức giận trước những kích thích nhỏ có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống hàng ngày Những triệu chứng như căng thẳng kéo dài, khó khăn trong việc tập trung, chán nản và mất ngủ làm giảm hiệu quả công việc và chất lượng cuộc sống.
*Ảnh hưởng của stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ:
- Ảnh hưởng đối với cá nhân:
Rối loạn hoạt động nhận thức là hậu quả của các sự kiện gây stress trong cuộc sống, với biểu hiện từ lo âu nhẹ đến loạn thần phản ứng Theo "phân loại bệnh tật quốc tế lần 10 (ICD-10)", các rối loạn thích nghi được xác định bởi các triệu chứng hành vi hoặc cảm xúc có ý nghĩa lâm sàng, phản ứng với các tác nhân gây stress tâm lý và xã hội có thể nhận diện Những rối loạn này khác biệt với rối loạn stress cấp dựa trên cả tác nhân gây stress và triệu chứng.
Theo DSM-IV, rối loạn sau sang chấn thuộc nhóm rối loạn lo âu, với nguyên nhân chính là phản ứng sinh học của cơ thể trước stress tâm lý Hệ thần kinh tự chủ và các hệ thống như vỏ thượng thận, tuyến yên, và đồi thị đóng vai trò quan trọng trong các phản ứng của cơ thể trước những tác động này.
Stress cấp tính thường gây ra cảm giác khó chịu và phát sinh những cảm xúc tiêu cực Việc không kiểm soát stress có thể dẫn đến trầm cảm.
Stress bất ngờ có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm Theo các nhà tâm thần học, bệnh nhân trầm cảm thường nhắc đến các yếu tố gây stress gần đây Stress thường gặp trong các trường hợp trầm cảm nhẹ, được gọi là "trầm cảm phản ứng" Do tính phổ biến của nó, stress có thể xảy ra đồng thời với sự khởi phát của trầm cảm.
Khi gặp phải tình huống gây stress, con người thường cảm thấy bất lực và mất khả năng kiểm soát, thay vì tìm cách đối phó Cảm giác này dần dần dẫn đến việc họ mất đi năng lực và khả năng học hỏi để phản ứng một cách hiệu quả với những tình huống căng thẳng có thể kiểm soát.
Rối loạn cảm xúc do stress cao có thể ngăn cản khả năng ứng phó của con người với cuộc sống, dẫn đến những phản ứng cảm xúc nghiêm trọng khiến họ không thể hoạt động bình thường Stress làm cho người ta cảm thấy tách biệt, khó chịu, nóng nảy, và không thể thư giãn, dẫn đến trạng thái lo âu và dễ xúc động Những người bị stress thường có thay đổi trong hành vi, tính khí và dễ gây gổ, cũng như có cảm giác không hạnh phúc và chán nản Hơn nữa, stress có thể gây hại cho sức khỏe thông qua việc gia tăng thói quen xấu như hút thuốc, uống rượu bia, ăn uống không điều độ và thiếu ngủ.
Rối loạn hành vi ứng xử do stress gây ra có thể dẫn đến giảm sút trí tuệ, khả năng tư duy phê phán và sự phân bố chú ý Người bị stress thường gặp khó khăn trong việc ghi nhớ, đưa ra quyết định chính xác và duy trì bình tĩnh, dễ cáu gắt hoặc trở nên thờ ơ Cảm giác và tri giác trở nên kém nhạy bén, khiến việc tiếp thu thông tin chậm chạp và không rõ ràng Hệ quả là các rối loạn cảm giác vận động, tư thế lúng túng và cứng nhắc xuất hiện, làm giảm sự linh hoạt trong các động tác Stress cũng ảnh hưởng đến trí nhớ ngắn hạn, khiến người bị stress không thể suy nghĩ rõ ràng, tập trung hoặc giao tiếp mạch lạc, thường xuyên quên tên người khác.
Khi một thành viên trong gia đình trải qua stress, bầu không khí gia đình trở nên nặng nề và có thể dẫn đến rạn nứt trong các mối quan hệ Sự căng thẳng giữa các thành viên gia tăng, gây đảo lộn sinh hoạt gia đình và ảnh hưởng đến sức khỏe của những người phải chăm sóc người bị stress Điều này không chỉ gây tổn hại về tinh thần mà còn có thể dẫn đến kiệt quệ kinh tế cho gia đình.
Stress có ảnh hưởng lớn đến xã hội khi gia tăng chi phí cho việc điều trị các bệnh lý liên quan, bao gồm thuốc men và chăm sóc sức khỏe Ngoài ra, stress có thể dẫn đến hành vi gây rối và tham gia vào các tệ nạn xã hội, tạo ra gánh nặng cho gia đình trong việc giải quyết những hậu quả này.
Stress không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cá nhân mà còn tác động đến những người xung quanh, gia đình và toàn xã hội Hậu quả của stress có thể lan rộng, gây ra những vấn đề tâm lý và xã hội phức tạp.