bệnh truyền nhiễm
NỘI DUNG CỦA TIỂU LUẬN
Lịch sử địa lý về bệnh
2.1.1 Trên thế giới Được phát hiện vào giữa năm 1920, 1926, Kraneveld ở Jakarta (Indonesia) đã mô tả triệu chứng và bệnh tích của một loại bệnh ở gà, khác với đặc điểm của bệnh dịch tả gà Năm 1927 ở bang Tyne ngoại ô thành phố Newcastle nước Anh, lại phát hiện một số ổ dịch tả gà cổ điển, song khi nghiên cứu huyết thanh học lại thấy căn bệnh có đặc tính hoàn toàn khác và cũng trong năm này Doyle đã phân lập được virus ở gà và là người đầu tiên chứng minh virus phân lập được có tính kháng nguyên khác với virus dịch tả gà Để kỷ niệm nơi phát hiện ra bệnh, người ta đã gọi tên bệnh là Newcastle hay dịch tả gà châu Á (Nguyễn Như Thanh và cs, 1997) Còn bệnh dịch tả gà được tìm thấy trước kia được gọi là bệnh dịch tả gà cổ điển, dịch tả gà châu Âu hay dịch tả gà thật (Nguyễn Vĩnh Phước và cs, 1978) Dịch bệnh ở Anh xảy ra theo tài liệu ghi chép có liên quan đến một con tàu vận chuyển thịt đông lạnh, mang theo gà nuôi di chuyển từ châu Á đến cảng Newcastle (Alexander, 1988)
Bệnh Newcastle lần đầu tiên xuất hiện ở Hawaii và Canada vào năm 1951, sau đó lan rộng ra châu Âu và nhiều khu vực ở châu Phi, với chẩn đoán đầu tiên tại Angola vào năm 1957, gây thiệt hại nghiêm trọng cho đàn gà với tỷ lệ tử vong từ 50% đến 80% Tại châu Mỹ, ổ dịch virus cường độc đầu tiên được ghi nhận ở Paraguay vào năm 1970, làm chết một triệu con gà Năm 1971, bệnh bùng phát ở California, Mỹ, và tái xuất hiện vào năm 2002-2003, gây thiệt hại kinh tế lên đến 5 tỷ USD và làm chết hơn ba triệu con gia cầm Bệnh này có tính chất nghiêm trọng hơn ở châu Âu và Trung Đông, được các chuyên gia thú y Mỹ gọi là “Velogenic Viscerotropic Newcastle Disease”.
Nghiên cứu tại Atlanta, Mỹ, đã xác định rằng tất cả các chủng virus được phân lập từ California, Trung Đông và châu Âu đều thuộc cùng một serotype Tại Đài Loan, từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1984, bệnh đã bùng phát tại 245 trại gà.
II vùng với 2,76 triệu gả mắc bệnh và 0,57 triệu con chết (Lu và cs, 1986)
Bệnh xuất hiện trên toàn cầu, nhưng chủ yếu lưu hành ở châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ Tại châu Á và châu Phi, bệnh thường có triệu chứng nặng hơn so với các khu vực khác.
Bệnh dịch tả gà Đông Dương lần đầu tiên được Phạm Văn Huyến ghi nhận ở Việt Nam vào năm 1933 Năm 1938, triệu chứng của một vụ dịch ở Nam bộ được mô tả tương tự như bệnh Newcastle Jacotot và Le Louet đã phát hiện virus Newcastle tại Nha Trang vào năm 1949 thông qua nghiên cứu thực nghiệm trên gà Năm 1956, Notter và cộng sự phân lập thành công chủng virus Newcastle tại Sài Gòn, trong khi Nguyễn Lương và Trần Quang Nhiên khẳng định sự hiện diện của bệnh ở miền Bắc Từ năm 1955 đến 1957, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng virus Newcastle tồn tại ở 58 mẫu não gà bệnh, trong khi virus dịch tả gà không được phát hiện Kể từ năm 1940, bệnh dịch tả gà cổ điển không còn xuất hiện trên thế giới Nghiên cứu của Nguyễn Bá Huệ và Nguyễn Thu Hồng vào năm 1980 đã xác định virus Newcastle là nguyên nhân gây ra các trận dịch lớn ở An Khánh, Đông Anh và Hải Phòng trong những năm 1970 và 1974.
Trong giai đoạn 1984-1985, Trung tâm nghiên cứu Thụy Phương thuộc viện Chăn nuôi đã tiến hành giết và hủy 18.000 con gà do dịch bệnh Năm 1986, trại gà Phú Tịnh ở Đông Anh, Hà Nội đã ghi nhận 56.000 con gà tử vong do bệnh Newcastle (Lê Văn Năm, 2004) Theo báo cáo của Cục Thú y tại một hội thảo ở thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1994, tình hình dịch bệnh gia cầm vẫn đang gây ra những thiệt hại nghiêm trọng.
Trong giai đoạn 1991 - 1992, các cuộc điều tra về bệnh Newcastle cho thấy tỷ lệ mắc bệnh lên tới 30% và tỷ lệ tử vong dao động từ 15 - 20%, với một số tỉnh chịu thiệt hại lên đến 4 - 5 tỷ đồng (Cục Thú y và Công Ty Sanofi, 1994) Từ năm 1993 - 1995, theo số liệu từ phòng Kỹ thuật thuộc Sở Nông Lâm nghiệp Hà Nội, tỷ lệ gà chết do bệnh Newcastle chiếm từ 14 - 16% (Phạm Xuân Tý và cs, 2000).
Trương Quang và cộng sự (2005) chỉ ra rằng trong những năm gần đây, bệnh Newcastle xuất hiện ở các đàn gà nuôi tập trung trong hộ gia đình với triệu chứng không điển hình Nguyên nhân của tình trạng này bao gồm việc sử dụng vaccine không phù hợp, tỉ lệ gà có hàm lượng kháng thể thấp (7,59 - 13,15%) sau khi tiêm vaccine, và nguồn gốc giống gà không rõ ràng Tác giả khuyến cáo rằng những đàn gà trên ba tháng tuổi, nếu đã được tiêm vaccine Lasota ba lần vào các mốc 7, 21 và 35 ngày tuổi, sẽ an toàn trước bệnh Newcastle.
Năm 2007, Dương Nghĩa Quốc và cộng sự đã xác định mức độ độc lực của một số chủng virus Newcastle từ các ổ dịch tự nhiên trên đàn gà nuôi ở tỉnh Đồng Tháp Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 78 mẫu bệnh phẩm thu thập, có 37 trường hợp nhiễm virus Newcastle, chiếm 47,4% Điều này khẳng định virus Newcastle là nguyên nhân chính gây bệnh trong các ổ dịch ở tỉnh Đồng Tháp.
Năm 2011, Phạm Hồng Sơn và cộng sự đã áp dụng phương pháp trắc định xê lệch ngưng kết gián tiếp chuẩn (SSIA) để khảo sát sự lưu hành của virus Newcastle ở gà tại tỉnh Thừa Thiên Huế qua hai mùa Xuân - Hè và Thu - Đông Kết quả cho thấy hơn 20% gà ở Thừa Thiên Huế trong mùa Xuân - Hè 2011 mang virus Newcastle, với tỷ lệ dao động từ 14% ở Hương Trà đến 25% ở A Lưới Trong vụ Thu - Đông năm 2011, tỷ lệ mẫu phân gà mang virus Newcastle lên tới 46% Đặc biệt, tỷ lệ mang virus ở vùng cao (miền núi) và vùng thấp (đồng bằng) không có mối tương quan thuận.
Nghiên cứu của Hồ Thị Việt Thu (2012) đã khảo sát tình hình bệnh Newcastle trên các giống gà thả vườn thông qua việc quan sát dấu hiệu lâm sàng và triệu chứng bệnh.
Trong năm 2011, một nghiên cứu tại tỉnh Hậu Giang đã thực hiện 7 xét nghiệm bằng phản ứng ngưng kết hồng cầu (HA) và ức chế ngưng kết hồng cầu (HI) từ 47 đàn gà bệnh, phát hiện 23 đàn mắc bệnh Newcastle trong số 35 đàn nghi ngờ Tỷ lệ tử vong ở gà mắc bệnh Newcastle đạt 20,02%, cao hơn so với gà mắc bệnh khác (18,09%) Bệnh thường xảy ra chủ yếu ở các đàn gà không được tiêm ngừa, đặc biệt là những đàn chỉ tiêm ngừa một lần hoặc hai lần Đến nay, bệnh Newcastle vẫn thường xuyên xuất hiện tại Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi gà, đặc biệt trong bối cảnh chăn nuôi gà công nghiệp phát triển mạnh.
Đặc điểm căn nguyên phân loại
2.2.1 Cấu tạo hình thái virus
Là 1 ARN virus, sợi đơn, có vỏ bọc bằng lipid, thuộc họ Paramyxoviridae họ phụ là Paramyxovirinae, giống Rubulavirus, loài Newcastle Disease Virus
Virion có đường kính từ 150 đến 300nm, lớn hơn một chút so với các orthomyxovirus, thường có hình dạng cầu hoặc đa hình thái Áo ngoài của virion dày khoảng 10nm, với các gai glycoprotein được sắp xếp chặt chẽ trên bề mặt Tuy nhiên, do tính không bền vững, áo ngoài có thể bị ảnh hưởng khi trải qua quá trình đông giá và tan giá hoặc trong quá trình tinh chế.
Hình 2.1: Hình thái và cấu tạo virus newcastle
Virus thường dễ bị phá hủy, dẫn đến việc nucleocapsid thường lộ ra dưới kính hiển vi điện tử Nucleocapsid có cấu trúc đối xứng xoắn dạng sợi thừng với chiều rộng từ 14-18nm và chiều dài khoảng 1μm (Phạm Hồng Sơn và cs, 2002) Virus cú thể có khả năng đi qua ống lọc Berkefeld, Chamberland và màng lọc Seitz (Nguyễn Như Thanh và cs, 2006).
The virus responsible for red blood cell agglutination features two glycoprotein spikes on its envelope: F protein (fusion) and HN (haemagglutinin-neuraminidase) The neuraminidase enzyme is associated with the haemagglutinin molecule.
Virus sinh sản hiệu quả trên môi trường tế bào phôi gà 1 lớp (CEF) và tế bào thận phôi gà, với bệnh tích tế bào đặc hiệu là tạo syncytia và chết tế bào Tất cả các paramyxovirus gia cầm đều có khả năng nhân lên trên phôi gà, và khi nuôi cấy virus Newcastle trên phôi gà 9 - 11 ngày tuổi, mức độ và thời gian gây chết phôi khác nhau tùy thuộc vào độc lực của từng chủng virus Các chủng có độc lực cao và vừa thường gây chết phôi trong vòng 60 giờ, trong khi các chủng có độc lực thấp có thể mất hơn 90 giờ Bệnh tích điển hình bao gồm phôi còi cọc, xuất huyết dưới da vùng đầu, cổ và toàn thân, cùng với màng phôi sưng dày lên Phôi càng non thì khả năng nhiễm và tỷ lệ chết phôi càng cao Qua quá trình cấy chuyển nhiều lần, có thể thu được giống virus Newcastle nhược độc để chế tạo vaccine phòng bệnh.
Hình 2.2: Nuôi cấy trên phôi gà 9-11 ngày tuổi với đường tiêm xoang niệu mô
Hình 2.3: Kết quả nuôi cấy: tỉ lệ chết phôi cao
Tóm lại Newcastle Desease virus chia thành 3 nhóm:
Nhóm cường độc (Velogene) có thời gian chết phôi dưới 60 giờ, với tính hướng phủ tạng (VVND) và hướng phổi, thần kinh Nhóm độc lực vừa (mesogene) gây chết phôi trong 60-90 giờ, có thể có dấu hiệu thần kinh Nhóm độc lực yếu (Lentogene) thường không gây chết phôi hoặc mất trên 90 giờ, chủ yếu có tính hướng phổi và không có triệu chứng ở thể ruột Ngoài ra, vi rút còn được nuôi cấy trên môi trường tế bào và động vật.
*Nuôi cấy trên môi trường tế bào
Virus Newcastle có khả năng nhân lên trong nhiều loại môi trường tế bào như tế bào thận lợn, thận khỉ và tế bào xơ phôi gà một lớp Sau 24 - 72 giờ nhiễm virus, bệnh tích tế bào xuất hiện, làm biến đổi hình thái tế bào, khiến chúng co tròn hoặc vỡ, tạo thành các tế bào khổng lồ đa nhân Độc lực của virus Newcastle có thể được xác định dựa trên sự hình thành, kích thước và hình thái của các đám bệnh tích tế bào Các chủng virus có độc lực thấp không tạo ra bệnh tích tế bào nếu môi trường nuôi cấy không bổ sung diethylaminoethyl (DEAE) và ion Mg2+ hoặc trypsin.
*Nuôi cấy trên động vật
Virus Newcastle có khả năng gây bệnh cho nhiều loài động vật, nhưng gà là loài thường được sử dụng trong nghiên cứu do dễ mắc bệnh tự nhiên Để tạo ra vaccine, virus cường độc được tiêm truyền qua não chuột lang nhiều đời nhằm giảm độc lực, biến nó thành nhược độc.
* Dễ bị phá hủy bởi các tác nhân vật lý, hóa học
Virus Newcastle tồn tại trong tự nhiên chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố môi trường như nhiệt độ, hóa chất và bức xạ Sự bền vững của virus Newcastle phụ thuộc vào những yếu tố này, ảnh hưởng đến khả năng lây lan và tồn tại của nó trong môi trường.
11 có thể xác định được trên cơ sở thay đổi khả năng gây nhiễm virus, ngưng kết hồng cầu và đặc tính miễn dịch (Nguyễn Như Thanh và cs, 1997)
Virus Newcastle có khả năng tồn tại đến một tuần trong môi trường ẩm ướt, như trong phân và các vật liệu khác Tuy nhiên, virus này có sức đề kháng tương đối yếu trong điều kiện khô ráo, chỉ sống được vài tháng Đặc biệt, trong thịt thối rữa và phân xác chết ủ kỹ, virus không tồn tại lâu dài.
24 giờ, trong ổ rơm và nền chuồng ẩm ướt virus bị diệt nhanh (Nguyễn Vĩnh Phước và cs, 1978)
Virus có thể tồn tại độc lực trong nước uống lên đến 165 ngày và trong nước chứa chất đệm phosphate với độ pH 7,2 là 320 ngày Ở nhiệt độ lạnh, virus sống lâu trong thịt, đặc biệt là trong hệ thần kinh trung ương tủy sống, và có thể tồn tại vô thời hạn trong vật liệu đông lạnh Khi được bảo quản ở nhiệt độ 1 - 2°C, virus có thể duy trì ít nhất 3 tháng, trong khi ở 20°C, thời gian tồn tại là ít nhất 1 năm Khả năng gây bệnh của virus kéo dài từ 134 đến 180 ngày.
Virus mất hoạt tính trong 3 ngày ở nhiệt độ phòng Khi nhiệt độ tăng lên, virus bị tiêu diệt nhanh chóng: ở 56°C trong 3 giờ, 60°C trong 30 phút, 65°C trong 5 phút, và 100°C chỉ trong 1 phút Ngoài ra, virus cũng bị phá hủy nhanh chóng bởi tia cực tím từ ánh sáng mặt trời.
Virus có màng bọc lipid rất nhạy cảm với ether, formalin, các chất hoạt tính bề mặt, nhiệt độ cao và môi trường khô Chúng dễ dàng bị tiêu diệt bởi các chất sát trùng như formol 1%, NaOH 2%, crezyl 2%, iodin 1%, nước muối 10%, kedin 5%, cồn và phenol (Phạm Hồng Sơn, 2013; Phạm Sĩ Lăng và Lê Thị Tài, 2009) Đặc biệt, dung dịch glycerin 50% có khả năng bảo quản virus trong bệnh phẩm lên đến 7 ngày ở nhiệt độ 37°C (Phạm Sĩ Lăng và Lê Thị Tài, 2009).
Virus Newcastle là virus có áo ngoài và có các gai glycoprotein, có hoạt tinh bề mặt nên có một số đặc tính sinh học đặc trưng sau
Virus Newcastle có khả năng gây ngưng kết hồng cầu ở một số loại gia súc và gia cầm Trên bề mặt virus, các kháng nguyên gắn với thụ thể của hồng cầu, khiến chúng kết dính lại với nhau Kháng nguyên này đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán bệnh (Đinh Thị Bích Lân, 2007).
Ngưng kết hồng cầu diễn ra qua hai giai đoạn: đầu tiên, virus gắn vào thể thụ cảm trên bề mặt tế bào, sau đó enzyme neuraminidase sẽ phá hủy thể thụ cảm, cho phép virus tách ra khỏi bề mặt tế bào (Nguyễn Thu Hồng, 1983).
Năm 2006, nhóm nghiên cứu gồm Lê Văn Phan, K Imai, Tô Long Thành và Trương Văn Dũng đã tiến hành khảo sát miễn dịch của kháng thể đơn dòng kháng virus Newcastle tại viện Thú y Kết quả cho thấy kháng thể đơn dòng SEI có khả năng ngăn cản sự ngưng kết hồng cầu, tuy nhiên không phát hiện được hoạt tính trung hòa virus của kháng thể SEI và 10C4.
Truyền nhiễm học, dịch tễ học và cơ chế sinh bệnh
Virus Newcastle gây bệnh cho nhiều loài gia cầm, bao gồm gà, gà tây, chim, cút và bồ câu Tất cả các lứa tuổi gia cầm đều có khả năng nhiễm bệnh, nhưng gia cầm non thường nhạy cảm hơn so với gia cầm trưởng thành.
Gà là loài động vật cảm thụ bệnh mạnh nhất, tiếp theo là gà tây, và khả năng cảm thụ bệnh giảm dần theo tuổi tác (Nguyễn Vĩnh Phước và cs, 1978) Trong tự nhiên, một số loài chim như bồ câu và chim sẻ cũng có khả năng mắc bệnh Các loài thủy cầm như ngỗng rất dễ bị nhiễm bệnh Ngoài ra, con người và một số động vật có vú như chó và chuột cũng có thể mắc bệnh (Nguyễn Văn Hành, 1983).
Vịt, ngan và ngỗng đều có khả năng nhiễm virus Newcastle, nhưng mức độ bệnh nhẹ hơn so với gà, thường không có hoặc rất ít dấu hiệu bệnh Khi mắc bệnh, ngỗng và vịt có thể xuất hiện triệu chứng liệt chân, cánh nhưng không có triệu chứng hô hấp.
Tỷ lệ nhiễm của ngỗng, ngan và vịt khoảng 10% hoặc ít hơn Tỷ lệ chết ở vịt và ngỗng chỉ khoảng 10% (Asplin, 1986; Higgins, 1971),
Bệnh Newcastle ở gà gây ra viêm dạ dày - ruột, viêm não và viêm phổi, dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng trong chăn nuôi Tỷ lệ chết và mức độ bệnh trạng phụ thuộc vào loại virus và loài chim ký chủ Ở gà, thể viêm dạ dày - ruột thường diễn ra cấp tính với tỷ lệ chết cao, trong khi thể viêm phổi - não thường mãn tính và có tỷ lệ chết thấp nhưng làm giảm sản lượng trứng Chim hoang và chim nhỏ thường âm tính với virus này Nếu con người nhiễm virus Newcastle, họ có thể bị viêm kết mạc và các triệu chứng giống như cúm.
Sau 1 đến 4 ngày ủ bệnh, viêm kết mạc thường xuất hiện ở một bên mắt, với 50% trường hợp có hạch phản ứng xung quanh mắt Tình trạng viêm kéo dài từ 3 đến 5 ngày, hiếm khi kéo dài đến 2-3 tuần và thường sẽ khỏi hoàn toàn Trong một số trường hợp hiếm, bệnh nhân có thể gặp phải triệu chứng nhiễm trùng toàn thân kèm theo sốt và hội chứng cúm, có thể có hoặc không có viêm kết mạc Viêm kết mạc là triệu chứng phổ biến ở người mắc bệnh Newcastle, thường do tiếp xúc với gà bệnh hoặc qua dụng cụ nhiễm virus Virus có thể lây truyền vào mắt qua tay bẩn hoặc không khí.
Theo Acha và Szyfres (1987), bệnh này hiếm khi xảy ra ở người, chủ yếu xuất hiện ở những cá nhân có nghề nghiệp liên quan như công nhân lò mổ, nhân viên phòng thí nghiệm, hoặc những người tham gia vào việc tiêm chủng vaccine sống.
Virus Newcastle có khả năng gây nhiễm cho 236 loài chim thuộc 27 bộ khác nhau, theo nghiên cứu của Kaleta và Baldauf (1988) Các triệu chứng lâm sàng của bệnh này rất đa dạng và khác nhau giữa các loài chim bị nhiễm, như được chỉ ra bởi Phan Chí Thông (2015).
Hiện nay, virus NDV đã được phân lập từ cả chim hoang dã và gia cầm trên toàn cầu Virus này chủ yếu tập trung ở phổi và não, bên cạnh đó, hầu hết các cơ quan nội tạng và chất bài tiết cũng chứa virus, mặc dù máu chỉ chứa virus không thường xuyên.
Trong tự nhiên, gà là loài có khả năng cảm thụ virus mạnh mẽ, đặc biệt là ở gà non Các loài như chó, mèo, chồn và chuột có thể thải virus ra ngoài khoảng 72 giờ sau khi ăn xác chết bị bệnh Con người có thể mắc các bệnh nhẹ như viêm kết mạc mắt, với virus được thải ra qua nước bọt và nước tiểu.
Gà sau khi tiêm vaccine sẽ bài thải virus trong khoảng 6 - 9 ngày, trong khi vẹt và chim cốc, chim bồ câu có thời gian bài thải dài hơn Nếu gà mẹ mắc bệnh, trứng sẽ mang virus, dẫn đến việc phôi chết hoặc gà con bài thải virus qua phân Ruồi được xem là vector truyền bệnh hiệu quả.
Mầm bệnh thường xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa, với thời gian ủ bệnh từ 2 - 5 ngày ở gà, 4 - 18 ngày ở bồ câu, và 2 - 15 ngày ở chim cút, trung bình là 5 - 6 ngày Virus Newcastle xâm nhiễm vào tế bào, sinh sản trong mô bào vùng hầu họng, sau đó vào máu gây nhiễm trùng huyết Virus này lan truyền qua máu đến các tổ chức khác, đặc biệt là gan và cơ quan sinh dục của gia cầm mái, gây viêm hoại tử Nhiễm trùng huyết lần hai xảy ra trong thời kỳ nung bệnh.
Nội mô thành huyết quản bị tổn thương dẫn đến xuất huyết và dịch thẩm xuất vào các xoang trong cơ thể Mặc dù virus không trực tiếp gây viêm phổi, nhưng bệnh gia cầm thường gây ra khó thở nghiêm trọng Nguyên nhân chính là do virus gây rối loạn tuần hoàn và ảnh hưởng đến trung khu hô hấp của hệ thần kinh trung ương Virus xâm nhập vào cơ thể và gây ra những biến chứng nghiêm trọng.
Virus gây bệnh ở gà có thể nhân lên và gây tổn thương tế bào, sau đó được thải ra ngoài và phát hiện trong phân từ ngày thứ 3 đến 5 sau khi nhiễm Phần lớn gà nhiễm bệnh thường chết trong giai đoạn nhiễm trùng huyết, được gọi là thể cấp tính Nếu bệnh kéo dài, đặc biệt ở giai đoạn cuối dịch hoặc ở những loài ít nhạy cảm như thủy cầm, virus sẽ biến mất khỏi máu và xâm nhập vào các cơ quan, ký sinh trong tổ chức thần kinh trung ương, dẫn đến thể bệnh mạn tính Phản ứng thuốc khi tiêm vaccine cũng phản ánh trạng thái của thể bệnh này.
Triệu chứng
Thời gian nung bệnh dao động từ 2 đến 15 ngày, trung bình từ 5 đến 6 ngày sau khi nhiễm virus Thời gian này phụ thuộc vào chủng virus, lứa tuổi, sức đề kháng của cơ thể, cũng như các yếu tố như nhiễm trùng kế phát, điều kiện môi trường, stress, đường xâm nhập và số lượng virus.
Bệnh Newcastle ở gà thường biểu hiện qua các triệu chứng hô hấp, thần kinh và tiêu hóa (Phạm Sỹ Lăng, 1999) Các triệu chứng này có thể khác nhau ở từng cá thể, với một trong ba loại triệu chứng có thể nổi bật hơn Đặc biệt, gà từ 1 đến 2 tháng tuổi thường gặp tình trạng nặng ở đường tiêu hóa và có thể tử vong trong vòng 4 đến 7 ngày.
Gà trưởng thành mắc bệnh Newcastle thường biểu hiện triệu chứng thần kinh, với một số ít gà hồi phục nhưng vẫn mang di chứng suốt đời như nghẹo cổ và đi lại khập khiễng Bệnh Newcastle trên gà được phân thành 4 dạng khác nhau (Nguyễn Xuân Bình và cộng sự, 1999).
1) Dạng gây ra do chủng độc lực cao (nhóm Velogenic) có đặc điểm như bệnh xuất hiện đột ngột, lây lan nhanh và chết cấp tính trong vòng 3 - 4 ngày Thường không biểu hiện rõ triệu chứng và bệnh tích, chỉ thấy một số triệu chứng như đầu tiên gà lờ đờ, hô hấp tăng, ho, đi phân lỏng đôi khi có máu (Nguyễn Xuân Bình và cs, 2005) Một số có chảy dịch nhờn ở mắt, mào, mồng, tích bị tím, có thể phủ quanh đầu Thường xuất hiện ở đầu ổ dịch, bệnh tiến triển rất nhanh, con vật ủ rũ cao độ, sau vài
Sau 16 giờ nhiễm bệnh, gà có thể chết mà không có triệu chứng lâm sàng rõ rệt Nếu không tử vong trong vòng 4 - 5 ngày, gà sẽ bắt đầu xuất hiện triệu chứng thần kinh như đi vòng tròn và mổ lung tung Ngoài ra, gà đang trong giai đoạn đẻ sẽ giảm sản lượng, và vỏ trứng trở nên mềm Tỷ lệ chết có thể dao động từ 50% đến 90% tùy thuộc vào từng bầy.
2) Dạng gây ra do chủng độc lực vừa (nhóm Mesogenic) có đặc điểm bệnh xảy ra đột ngột, lây lan nhanh với các triệu chứng giảm ăn, ho, tiêu chảy, trạng thái run rẩy Sau 2 tuần triệu chứng thần kinh sẽ nặng như bại liệt hoặc đi quay tròn Gà đang đẻ giảm đẻ, tỷ lệ trứng non nhiều Đây là thể bệnh phổ biến, trong đàn gà xuất hiện một số con ủ rũ, kém hoạt động, lông xù lên, cánh sã như khoác áo tơi Gà con chậm chạp, thường đứng tụ lại thành đám Gà lớn tách đàn thích đúng một mình, ngẩn ngơ, con trống thôi gáy, con mái ngừng đẻ Gà bệnh thường sốt cao 42,5 - 43°C (Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013; Nguyễn Vĩnh Phước và cs, 1978) Sau khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên, gà lờ đờ rồi trở nên khó thở trầm trọng, từ mũi chảy ra một chất nhớt màu đỏ nhạt hoặc trắng xám hơi nhớt Gà bệnh hắt hơi, vảy mỏ liên tục thường kêu thành tiếng “toác toác” để dễ thở Bệnh nặng gà không thở được bằng mũi Nếu kiểm tra có thể thấy màng giả fibrin màu xám sẫm ở niêm mạc miệng, hầu và họng (Nguyễn Thu Hồng, 1983), do có nhiều fibrin màu xám sẫm ở niêm mạc hầu, họng, xoang mũi cho nên gà phải vườn cổ, há mỏ ra để thở Xung quanh mắt và đầu thường bị phù thũng (Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013; Nguyễn Vĩnh Phước và es, 1978)
Gà mắc bệnh rối loạn tiêu hóa nghiêm trọng sẽ có biểu hiện bỏ ăn, uống nước nhiều, và thức ăn trong diều không tiêu, nhão ra do lên men, cảm giác như sờ vào túi bột Khi nâng chân gà lên, có thể thấy chất lỏng nhớt chảy ra từ miệng với mùi chua Sau vài ngày, gà sẽ bị tiêu chảy, phân ban đầu đặc có thể lẫn máu, màu nâu sẫm, xanh hoặc hơi vàng, sau đó trở nên loãng và có màu trắng xám do chứa nhiều muối urate Lông đuôi gà bẩn, dính phân, và niêm mạc hậu môn có thể xuất huyết với tia máu đỏ Mào và yếm của gà bị ứ máu màu tím bầm trong thời gian khó thở, sau đó chuyển sang màu tái do mất máu Gà cũng có thể xuất hiện triệu chứng run cơ, ngoẹo cổ, và liệt chân cánh.
Bại huyết là một bệnh nguy hiểm ở gà, có thể gây chết đến 17 con chỉ sau vài ngày Tỷ lệ tử vong dao động từ 5-50%, nhưng đối với những đàn gà nhạy cảm, tỷ lệ này có thể lên tới 100% (Nguyễn Bá Hiện và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013; Nguyễn Vĩnh Phước và cs, 1978).
3) Dạng bệnh do chủng độc lực yếu (nhóm Lentogenic) có triệu chứng chủ yếu trên đường hô hấp như ho, thở khò khè về ban đêm Gà giảm đẻ sau 1 tuần rồi trở lại bình thường Gà lớn không chết, trong khi gà con có tỷ lệ chết thấp (từ 1 - 10%) Thường xuất hiện ở cuối ổ dịch với các triệu chứng nhẹ hơn, kéo dài kèm theo các bệnh biến do rối loạn hệ thần kinh trung ương Do tổn thương tiểu não, gà bệnh có những chuyển động bất bình thường: vặn đầu ra sau, đang đi bỗng dừng lại, đi vòng tròn, đi giật lùi Có khi gà mổ nhiều lần vẫn không trúng được thức ăn Khi bị kích thích bởi tiến động hay sự va chạm thì đột nhiên gà ngã lăn ra đất, lên cơn động kinh co giật, các cơn động kinh này thường mãnh liệt vào lúc sáng sớm khi mới mở cửa chuồng (Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013; Nguyễn Vĩnh Phước và cs,
Gà có thể giảm tỷ lệ đẻ và trải qua bệnh mạn tính kéo dài từ vài ngày đến vài tuần Trong trường hợp nghiêm trọng, gà có thể chết do đói, rối loạn hô hấp hoặc thần kinh, và kiệt sức Nếu được chăm sóc đúng cách, gà có thể phục hồi nhưng thường để lại di chứng thần kinh lâu dài Những con gà đã lành bệnh sẽ có miễn dịch suốt đời, tuy nhiên, chúng vẫn có thể là nguồn lây nhiễm mầm bệnh cho những con khác.
4) Dạng mang trùng trên những gia cầm tồn trữ mầm bệnh, không gây chết nhưng nguy hiểm là làm lây nhiễm cho đàn gà mới nhập Để loại trừ những con mang trùng, người ta làm phản ứng huyết thanh học hoặc phân lập virus (Nguyễn Xuân Bình và cs, 2005)
2.4.1 Hướng nội tạng (thể Doyle, 1926)
Bệnh thường xuất hiện đột ngột ở gà, có thể dẫn đến việc chết mà không có triệu chứng rõ ràng, đặc biệt là ở thể quá cấp tính Những con gà thường có thể trạng mập mạp và không biểu hiện suy kiệt Một số triệu chứng chung dễ nhận thấy bao gồm buồn bã, sốt cao (đến 43°C), bỏ ăn, khát nước, khó thở, xù lông và sã cánh.
Triệu chứng đặc trưng của bệnh có thể xuất hiện ở phổi và hệ tiêu hóa, bao gồm khó thở, thở khò khè, sưng phù ở vùng mắt và đầu, cùng với phân có màu xanh và thỉnh thoảng có vết máu Cần phân biệt các triệu chứng này với các bệnh khác như cầu trùng và nhiễm ký sinh trùng đường ruột.
Sau khi các thể bệnh xuất hiện, động vật sẽ phát triển triệu chứng thần kinh như co giật, rung cơ, vẹo cổ, ưỡn người ra sau, và liệt chân cùng cánh Tỷ lệ mắc bệnh đạt 100%, trong khi tỷ lệ tử vong ở thể này có thể lên tới 90-100%.
2.4.2 Hướng hô hấp – thần kinh (thể Beach)
Thể bệnh này, thường gọi là thể Mĩ, chủ yếu xuất hiện ở Mĩ và lây lan nhanh chóng Gà mắc bệnh biểu hiện khó thở, thở gấp, ho và giảm ăn, sau đó giảm sản lượng trứng và ngừng đẻ Không giống như thể Doyle, bệnh này không có triệu chứng tiêu chảy Sau 1-2 ngày, có thể xuất hiện dấu hiệu thần kinh Tỷ lệ mắc bệnh đạt 100%, với gà con nhỏ nhạy cảm hơn, có thể chết nhanh chóng, trong khi gà lớn có sức đề kháng tốt hơn, tỷ lệ chết khoảng 50% Gà nhỏ có tỷ lệ chết lên đến 90%.
2.4.3 Hướng hô hấp (thể Beaudette - 1946)
Bệnh tích
Bệnh tích đại thể ở gà bệnh thay đổi tùy theo chủng virus, loài vật mắc bệnh và các yếu tố khác Các triệu chứng tiêu hóa bao gồm xuất huyết và loét ở thực quản, dạ dày tuyến, mề, manh tràng, ruột già và hậu môn, kèm theo mảng lympho viêm đỏ Niêm mạc mũi và khí quản có dấu hiệu viêm cata với dịch nhầy và đôi khi xuất huyết lấm tấm Buồng trứng thường sung huyết và có một số trứng bị teo, trong khi màng não có thể bị xuất huyết điểm Ở thể quá cấp tính, bệnh tích thường không rõ ràng, nhưng có thể thấy xuất huyết ở ngoại tâm mạc, màng ngực và niêm mạc đường hô hấp.
Thể cấp tính của bệnh có đặc trưng bởi xác chết gầy và mào yếm tím bầm Trong xoang mũi và miệng thường chứa nhiều dịch nhớt màu đục Bệnh tích đại thể không phải lúc nào cũng quan sát được ở đường hô hấp, mà có thể thấy xuất huyết ở niêm mạc miệng, hầu và họng.
20 viêm và phủ màng giả fibrin Túi khí sưng dày, nếu bị nhiễm trùng kế phát sẽ túi khi bị viêm cata hoặc có dịch thủy thũng
Trong một số trường hợp, tổ chức liên kết vùng đầu, cổ và hầu bị phù thũng và thâm nhiễm dịch thẩm xuất màu vàng, có khả năng đông đặc như gelatin Ngoài ra, cũng có trường hợp dịch thẩm xuất màu vàng tích tụ ở xoang bao tìm hoặc xoang ngực, dễ đông đặc khi tiếp xúc với không khí (Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013).
Hình 2.5: Niêm mạc khí quản có nhiều xuất huyết điểm, khoang miệng có nhiều dịch nhớt
Hướng nội tạng (Viscerotropes – thể Doyle)
Bệnh tích đặc trưng của bệnh bao gồm xuất huyết đỏ đậm và hoại tử trên các mảng lympho của thành ruột và ngã ba van hồi manh tràng Xuất huyết cũng xuất hiện trên bề mặt các tuyến của dạ dày và có thể xảy ra trên dạ dày cơ Ngoài ra, bệnh còn gây xuất huyết trực tràng và hậu môn, đồng thời làm tổn thương hệ thống sinh sản, với buồng trứng trở nên mềm nhão, thoái hóa và dễ vỡ khi bị tác động Xuất huyết có thể dẫn đến việc làm bể lòng đỏ vào trong xoang bụng.
Hình 2.6: Niêm mạc dạ dày tuyến xuất huyết trên các đầu tuyến
Bệnh tích trên đường hô hấp của gia cầm, đặc biệt là ở gà con, bao gồm tình trạng tích dịch viêm ở mũi, thanh quản và khí quản, có thể dẫn đến xuất huyết và xung huyết khí quản, làm tăng nguy cơ viêm phổi Túi khí dày đục thường thấy ở gà con cũng có thể chứa dịch viêm và casein.
Hình 2.7: Niêm mạc trực tràng xuất huyết, Nang trứng xung huyết, hoại tử
Bệnh tích vi thể có sự biến đổi tùy thuộc vào chủng virus, loài vật bị nhiễm và nhiều yếu tố khác, đặc biệt là cách thức xâm nhập của virus (Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013).
Hệ thần kinh, đặc biệt là tiểu não, cho thấy những biến đổi bệnh tích rõ rệt, bao gồm hiện tượng thoái hóa và viêm không có mủ của neuron thần kinh Các nốt hoại tử xuất hiện ở dây thần kinh đệm, kèm theo sự thâm nhiễm của các tế bào lympho quanh mạch quản và tế bào biểu mô phình to Tình trạng bệnh tích tương tự cũng được ghi nhận ở các tế bào thần kinh vùng tủy sống (Nguyễn Thu Hồng, 1983).
Mạch quản: bị sung huyết, phù thũng, xuất huyết, chứng huyết khối ở các mao mạch và hoại tử nội mô huyết quản
Hệ lympho đặc trưng bởi sự biến mất của các mô lympho và sự tăng sinh tế bào đơn nhân ở nhiều cơ quan, đặc biệt là gan Tế bào lympho bị phá hủy hoặc hình thành không bào tại miền vỏ và miền tủy của lách và tuyến ức Ngoài ra, các tế bào miền tùy túi Fabricius cũng bị tổn thương.
Hệ tiêu hóa: xuất huyết và hoại tử tế bảo niêm mạc ruột
Hệ hô hấp có dấu hiệu viêm nhiễm khi niêm mạc đường hô hấp trên bị sung huyết và phù thũng, với sự xâm nhiễm của tế bào lympho và đại thực bào, đặc biệt rõ ràng trong các trường hợp bệnh lây qua đường hô hấp Ngoài ra, túi khí cũng bị phù thũng, dày lên và có sự xâm nhiễm tế bào.
Hệ sinh dục: chủ yếu buồng trứng bị ảnh hưởng, không hình thành vỏ trứng trong ống dẫn trứng, hình thành các nang lympho
Các cơ quan khác: hoại tử ở gan, lách, xuất huyết túi mật, tim Tụy bị xâm nhiễm tế bào lympho (Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013).
Chẩn đoán
Chẩn đoán bệnh Newcastle ở gà thường gặp khó khăn do có nhiều triệu chứng và bệnh tích đa dạng Các dấu hiệu nghi ngờ bao gồm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao, lây lan mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, cùng với triệu chứng rối loạn tiêu hóa, hô hấp, và có thể kết hợp với triệu chứng thần kinh Bệnh tích điển hình là xung huyết, xuất huyết và lở loét ở đường tiêu hóa.
Hoặc tử số thấp cùng với triệu chứng hô hấp hay thần kinh Trên gà đẻ cần xem thêm tỷ lệ đẻ, chất lượng trứng, …
Bệnh Newcastle là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi và có tỷ lệ tử vong cao Triệu chứng bao gồm rối loạn hô hấp, tiêu hóa và thần kinh, với các tổn thương đặc trưng như xuất huyết và hoại tử ở các mảng lympho trên ruột, hạch amygdale và dạ dày tuyến Bệnh thường gây ra tình trạng gà chết tăng giảm bất thường trong thời gian kéo dài vài tuần, trong khi xuất huyết bên ngoài cơ thể xảy ra rất ít.
Thiếu vitamine B1: Có biểu hiện thần kinh Không sốt, không rối loạn hô hấp, tiêu hóa, không có bệnh tích trên đường hô hấp và tiêu hóa
Bệnh Gumboro thường xảy ra ở gà từ 3 đến 8 tuần tuổi, với triệu chứng đặc trưng là xuất huyết ở cơ đùi, cơ ngực, và hai rìa dạ dày tuyến, kèm theo tình trạng sưng hoặc teo túi bursa Tỷ lệ gà chết tăng dần sau 6 đến 8 ngày rồi giảm dần Đối với bệnh Xoắn trùng (spyrochetosis) và phó thương hàn, không có triệu chứng hô hấp và thần kinh như ở Newcastle, nhưng lách luôn sưng to và gan có thể xuất hiện các nốt hoại tử li ti trắng ngà, với sự hiện diện của Spyrochetis trong máu Bệnh Viêm thanh khí quản truyền nhiễm (ILT) phát triển chậm ở gà từ 5 đến 12 tuần tuổi, tỷ lệ chết không cao và không có triệu chứng rõ ràng.
Bệnh ILT có triệu chứng đặc trưng là khí quản xuất huyết màu đỏ, trong khi bệnh Viêm khí quản truyền nhiễm (IB) ở gà con dưới 1 tháng tuổi không có dấu hiệu viêm loét hay xuất huyết đường ruột, cũng như không xuất hiện triệu chứng thần kinh như ở Newcastle Đối với gà đẻ, mặc dù có hiện tượng giảm đẻ, gà vẫn khỏe mạnh và vỏ trứng thường có dấu hiệu xù xì và dị dạng Trong khi đó, bệnh Newcastle gây ra sự giảm đẻ, thậm chí ngưng đẻ hoặc sản xuất nhiều trứng non với vỏ mỏng, dễ dập vỡ, đi kèm với các triệu chứng và diễn biến bệnh rõ rệt.
2.6.3 Chẩn đoán phi lâm sàng
Bệnh phẩm ở gia cầm sống bao gồm phân, chất chứa trong đường tiêu hóa, hoặc dịch ngoáy ổ nhớp và khí quản; trong khi đó, bệnh phẩm từ gà bệnh mới chết gồm não, gan, lách và phổi Để xử lý, bệnh phẩm được nghiền với nước sinh lý theo tỷ lệ 1/10, sau đó thêm kháng sinh chiếm 20% thể tích Quá trình này cần thực hiện ở nhiệt độ phòng trong 1 - 2 giờ trước khi ly tâm ở tốc độ 1.000 vòng/phút.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2013), để gây bệnh cho phôi gà, bệnh phẩm được tiêm vào phôi trứng gà từ 9 - 11 ngày tuổi, ưu tiên sử dụng phôi gà SPF hoặc nuôi cấy trên môi trường tế bào thận phôi gà Mỗi mẫu tiêm 0,2ml vào xoang niệu mô của 5 phôi Sau 4 - 7 ngày, phôi sẽ chết và được bảo quản ở 4°C để thu hoạch nước trứng Sự hiện diện của virus gây chết phôi hoặc tạo bệnh tích đặc hiệu có thể được phát hiện qua phản ứng ngưng kết hồng cầu (HA) và khẳng định bằng phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI) với kháng thể chuyên biệt Virus Newcastle thường giết chết phôi trong khoảng 30 - 48 giờ sau khi tiêm, kèm theo các triệu chứng như xuất huyết trên da và tổ chức liên kết dưới da, đồng thời kiểm tra nước trứng cho thấy hiện tượng ngưng kết hồng cầu.
Trong nghiên cứu về gà, những bào thai sống quá 48 giờ cần được kiểm tra khả năng ngưng kết hồng cầu do một số chủng virus yếu, có thể không giết chết bào thai sau nhiều lần tiêm truyền đầu tiên Nếu kết quả kiểm tra âm tính, cần tiếp tục thực hiện thụ động thêm vài lần trong bào thai trứng (Nguyễn Vĩnh Phước và cs, 1978).
Phương pháp gây nhiễm virus vào tế bào xơ phôi gà một lớp là kỹ thuật phổ biến trong nghiên cứu virus Sau 72 giờ, nếu mẫu bệnh phẩm chứa virus, quan sát dưới kính hiển vi sẽ thấy lớp tế bào trên thành ống nghiệm không đồng đều, nguyên sinh chất bị tan rã và nhân tế bào vón lại thành từng đám Các chỉ số này được sử dụng để xác định độc lực của virus Phản ứng HA từ dịch nuôi cấy tế bào sẽ cho kết quả dương tính (Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013).
Để gây bệnh cho gà, cần sử dụng những con gà khỏe mạnh, không thuộc vùng có dịch và chưa tiêm vaccine phòng bệnh Newcastle Tiến hành tiêm 1 ml vaccine vào dưới da hoặc bắp thịt, với mỗi mẫu tiêm cho 2 - 3 con gà Sau khoảng 3 - 5 ngày, sẽ xuất hiện các dấu hiệu đầu tiên của bệnh, và sau 7 - 10 ngày, gà sẽ chết, khi mổ khám sẽ thấy bệnh tích tương tự như gà mắc bệnh ngoài tự nhiên (Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013).
Chim bồ câu có thể bị bệnh khi tiêm huyễn dịch bệnh phẩm từ óc và tủy xương của gà bệnh dưới da Sau 6-7 ngày, chim sẽ có dấu hiệu ủ rũ, sốt cao lên đến 43°C, bỏ ăn và sã cánh Đến ngày 11-12, chim uống nhiều nước, có hiện tượng ỉa phân trắng lỏng rồi chuyển sang xanh, đồng thời bị bại liệt chân và thân trước khi chết Nếu tiêm dung dịch nước trứng chứa virus, chim sẽ ỉa lỏng và phân trắng vào ngày thứ 8, sau đó phân xanh và chết vào ngày thứ 11-13 Khám nghiệm cho thấy niêm mạc miệng có chất màu trắng, cuống mề tụ máu và xuất huyết (Lê Văn Tạo, 2005).
Tiêm dung dịch nước trứng chứa virus ở nồng độ 10 vào bắp thịt đùi chim trĩ dẫn đến tình trạng tê liệt gần như tử vong, thời gian chết dao động từ 7 đến 13 ngày Kết quả mổ khám cho thấy có sự tích tụ máu toàn thân, mặt chim sưng và khí quản chứa chất nhầy.
2.6.3.2 Chẩn đoán huyết thanh học
Chẩn đoán virus Newcastle hiện nay chủ yếu sử dụng kỹ thuật RT-PCR (phản ứng chuỗi polymerase phiên ngược) hoặc real-time RT-PCR để phát hiện virus trong các mẫu bệnh phẩm như tổ chức cơ thể, dịch hầu họng và phân gia cầm (Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2013).
Virus Newcastle được phát hiện qua phản ứng ngưng kết hồng cầu HA (Haemagglutinin test) và xác định bằng phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu HI (Haemagglutinin inhibition test) với kháng thể chuyên biệt Ngoài ra, các kỹ thuật khác như ELISA, phản ứng trung hòa, phản ứng miễn dịch huỳnh quang, và phản ứng kết tủa khuyếch tán trên thạch cũng được sử dụng, nhưng phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI) là phương pháp phổ biến nhất để phát hiện kháng thể trong huyết thanh.
2013) a) Phản ứng ngưng kết hồng cầu (HA) và ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI)
Virus Newcastle và cúm gia cầm đều có khả năng ngưng kết hồng cầu gà, cho phép sử dụng phản ứng ngưng kết hồng cầu gà (HA) để phát hiện các virus này cũng như các virus khác trong bệnh phẩm Mặc dù không phải là phản ứng huyết thanh học, nhưng đặc tính sinh học của các virus này được tận dụng để xác định và định lượng kháng thể đặc hiệu trong huyết thanh thông qua phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI) Khi huyết thanh chứa kháng thể được trộn với virus, nếu có kháng thể, virus sẽ bị trung hòa, ngăn chặn khả năng ngưng kết hồng cầu Độ pha loãng huyết thanh càng cao, nồng độ kháng thể càng lớn Do đó, có thể bán định lượng hoặc xác định hiệu giá kháng thể Sau khi gà được tiêm phòng vaccine Newcastle, máu gà có thể được lấy để chắt huyết thanh và xác định hàm lượng kháng thể chống virus Newcastle tại các thời điểm khác nhau bằng phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu gà.
Phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu HI là một phương pháp phổ biến trong chẩn đoán bệnh Newcastle, như đã được đề cập bởi Vesna và các cộng sự vào năm 1992 Giá trị của phản ứng này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Phòng trị
Bệnh Newcastle hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, do đó việc phòng ngừa là rất quan trọng Vệ sinh thú y và tiêm phòng vaccine đầy đủ là những biện pháp đảm bảo an toàn dịch bệnh Ngoài ra, có thể sử dụng kháng huyết thanh kết hợp với thuốc trợ sức, giúp cân bằng điện giải và tăng cường sức đề kháng cho cơ thể Việc tiêm vaccine cũng có thể can thiệp trực tiếp vào ổ dịch để kiểm soát bệnh hiệu quả.
Để phòng bệnh hiệu quả, cần cắt đứt các khâu trong quá trình truyền lây, bao gồm mầm bệnh, động vật cảm thụ và môi trường truyền lây thông qua các biện pháp an toàn sinh học Bên cạnh đó, việc sử dụng vaccine cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng bệnh, tùy thuộc vào tình hình dịch tễ và áp lực bệnh, chúng ta có thể lựa chọn vaccine sống (nhược độc) hoặc vaccine chết (bất hoạt).
Vaccine sống nhược độc gồm các loại như độc lực yếu (live lentogene) như HB1 và La-Sota, có thể sử dụng cho mọi lứa tuổi thông qua các phương pháp nhỏ mắt, nhỏ mũi, uống, tiêm bắp, chích màng cánh hoặc phun sương Ngoài ra, còn có vaccine độc lực trung bình (live mesogene).
M (Mukteswar) chỉ chủng ngừa cho gà từ 2 tháng tuổi trở lên Đường tiêm là dưới da (SC), bắp (IM)
Vaccine chết (vaccine inactivated) là loại vaccine được sản xuất từ virus đã được bất hoạt bằng các chất như formol, crystal violet và propiolactone Để kéo dài thời gian miễn dịch cho gà, chất bổ trợ thường được sử dụng là keo phèn hoặc nhũ tương dầu, ví dụ như vaccine Imopest Loại vaccine này thường được tiêm cho gà đẻ hoặc tiêm kết hợp với vaccine sống tại những khu vực có nguy cơ mắc bệnh cao Đường tiêm thường là dưới da (SC) hoặc bắp (IM).
Bệnh do virus không có thuốc điều trị đặc hiệu, nhưng có thể tăng cường sức đề kháng cho gà bằng cách bổ sung vitamin C và B Complex Đồng thời, sử dụng kháng sinh phổ rộng để phòng ngừa sự xâm nhiễm của vi khuẩn kế phát.
Tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế
Bệnh Newcastle ở Việt Nam đã tồn tại từ lâu, nhưng chỉ đến năm 1949, Jacotot và Le Louet mới xác nhận sự hiện diện của virus Newcastle tại Nha Trang thông qua các nghiên cứu thực nghiệm trên gà Đến năm 1956, Nguyễn Lương và Trần Quang Nhiên đã tiến hành nghiên cứu trên nhiều tỉnh và khẳng định bệnh Newcastle có mặt ở nước ta Từ cuối năm 1955 đến 1957, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện ở miền Bắc về dịch tả gà và bệnh Newcastle, với 189 mẫu bệnh phẩm não gà từ 20 tỉnh cho thấy sự hiện diện của virus Newcastle, trong khi virus dịch tả gà không được phát hiện Thông tin này cũng phù hợp với báo cáo của ủy ban quốc tế phân loại virus gà, cho rằng từ năm 1940, dịch tả gà cổ điển đã không còn tồn tại trên toàn cầu.
Năm 1980, nghiên cứu đã chỉ ra rằng virus cường độc Newcastle là nguyên nhân gây ra các trận dịch lớn tại nông trường An Khánh vào năm 1970 và ở Đông Anh, Hà Nội, Hải Phòng vào đầu năm 1974.
Nghiên cứu về bệnh Newcastle trên gà thả vườn tại tỉnh Hậu Giang năm 2011 cho thấy 23 trong số 35 đàn gà nghi ngờ mắc bệnh Tỷ lệ chết ở gà mắc bệnh Newcastle là 20,02%, cao hơn so với 18,09% ở các bệnh khác Bệnh thường xảy ra nhiều hơn ở các đàn gà không tiêm phòng, tiếp theo là đàn chỉ tiêm một lần và cuối cùng là đàn được tiêm hai lần (Hồ Thị Việt Thu, 2012).
Bệnh Newcastle vẫn là một vấn đề nghiêm trọng tại Việt Nam, gây ra tổn thất lớn cho ngành chăn nuôi gà, đặc biệt trong bối cảnh chăn nuôi gà công nghiệp đang phát triển mạnh mẽ (Dương Nghĩa Quốc, 2008).
(Nguồn: http://chicucthuydnai.gov.vn/Tint%E1%BB%A9c/tabid/138/isd_news_ news/599/Default.aspx)