1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

ĐẠO CAO ĐÀI – DẤU ẤN TÔN GIÁO VÙNG NAM BỘ

20 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đạo Cao Đài – Dấu Ấn Tôn Giáo Vùng Nam Bộ
Trường học Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
Thể loại Tiểu luận
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 20
Dung lượng 1,14 MB

Nội dung

Tôn giáo đƣợc coi là lĩnh vực về tinh thần ảnh hƣởng không nhỏ tới cuộc sống của con ngƣời. Trong quá trình hình thành và phát triển, tôn giáo đã tác động khá sâu sắc và toàn diện từ đời sống văn hóa, xã hội đến tâm lý, đạo đức, lối sống. Đến các quan điểm triết học nhận định thế giới hay cách ứng xử xã hội, ảnh hƣởng cả các dạng nghệ thuật hay phong tục, tập quán… của nhiều quốc gia, dân tộc. Bản thân mỗi tôn giáo chứa đựng một kho tàng kiến thức phong phú về lịch sử, tƣ tƣởng, triết học, đạo đức, văn hóa…Việc tìm hiểu chúng để có cái nhìn đúng đắn về các tôn giáo để củng cố, phát triển tôn giáo đó. Đó là điều cần thiết trong xã hội hiện nay, khi cả thế giới và nƣớc ta đang trong quá trình hội nhập, giao lƣu kinh tế, văn hóa thì việc thiết yếu nhất trong thời kỳ này là hội nhập mà không hòa tan các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tôn giáo cũng là một phần trong đó. Đặc biệt là với một tôn giáo địa phƣơng nhƣ đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Ta cần phát huy các giá trị nhân văn, tốt đẹp của các tôn giáo vì mục đích chung phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc chọn đề tài nghiên cứu này là vì đạo Cao Đài đã kết hợp đƣợc những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới để tạo nên một nét văn hóa tôn giáo riêng biệt, sau đó trở thành một trong những tôn giáo lớn ở nƣớc ta nói chung và ở Nam Bộ nói riêng. Để góp phần làm rõ hơn các giá trị văn hóa mà đạo Cao Đài và những tác động của nó trong đời sống cƣ dân Nam Bộ, nên đã lựa chọn đề tài mong muốn qua đó có thể phát huy tốt các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài ở Nam Bộ hiện nay.

Trang 1

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

ĐẠO CAO ĐÀI – DẤU ẤN TÔN GIÁO VÙNG

NAM BỘ

NĂM 2020 _

Trang 2

MỤC LỤC

1.2 Bối cảnh Nam Bộ tác động đến sự hình thành đạo Cao Đài 6

III G IÁO LÝ , SỰ THỜ PHỤNG , LUẬT LỄ VÀ LỄ NGHI CỦA ĐẠO C AO Đ ÀI 11

Trang 3

ĐẠO CAO ĐÀI – DẤU ẤN TÔN GIÁO VÙNG NAM BỘ

_

PHẦN TỔNG QUÁT

I Lý do chọn đề tài

Tôn giáo được coi là lĩnh vực về tinh thần ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của con người Trong quá trình hình thành và phát triển, tôn giáo đã tác động khá sâu sắc

và toàn diện từ đời sống văn hóa, xã hội đến tâm lý, đạo đức, lối sống Đến các quan điểm triết học nhận định thế giới hay cách ứng xử xã hội, ảnh hưởng cả các dạng nghệ thuật hay phong tục, tập quán… của nhiều quốc gia, dân tộc

Bản thân mỗi tôn giáo chứa đựng một kho tàng kiến thức phong phú về lịch sử, tư tưởng, triết học, đạo đức, văn hóa…Việc tìm hiểu chúng để có cái nhìn đúng đắn về các tôn giáo để củng cố, phát triển tôn giáo đó Đó là điều cần thiết trong xã hội hiện nay, khi cả thế giới và nước ta đang trong quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hóa thì việc thiết yếu nhất trong thời kỳ này là hội nhập mà không hòa tan các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tôn giáo cũng là một phần trong đó Đặc biệt là với một tôn giáo địa phương như đạo Cao Đài ở Nam Bộ Ta cần phát huy các giá trị nhân văn, tốt đẹp của các tôn giáo vì mục đích chung phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc chọn đề tài nghiên cứu này là vì đạo Cao Đài

đã kết hợp được những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới để tạo nên một nét văn hóa tôn giáo riêng biệt, sau đó trở thành một trong những tôn giáo lớn ở nước ta nói chung và ở Nam Bộ nói riêng Để góp phần làm rõ hơn các giá trị văn hóa mà đạo Cao Đài và những tác động của nó trong đời sống cư dân Nam Bộ, nên đã lựa chọn đề tài mong muốn qua đó có thể phát huy tốt các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài ở Nam

Bộ hiện nay

II Mục đích và đối tượng nghiên cứu

1 Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về quá trình hình thành cũng như các giáo lý, lễ nghi của đạo Cao Đài

để qua đó thấy được nét đặ sắc, ý nghĩa, vai trò của nó trong đời sống cư dân Nam Bộ góp phần khẳng định và phát huy các giá trị văn hóa của nó trong đời sống cư dân Nam Bộ hiện nay

2 Đối tượng nghiên cứu

Trang 4

Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các luật lệ, lễ nghi hành đạo… những vấn đề đã làm hình thành nên các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam

Bộ trước đây và hiện nay

III Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp là tổng hợp và phân tích tài liệu, tức là sử dụng thông tin trong các tài liệu để rút ra thông tin cần thiết cho mục đích nghiên cứu của đề tài Phương pháp này chủ yếu thực hiện thông qua các tài liệu sách báo, luận văn… Hiện nay, sự bùng

nổ của khoa học công nghệ giúp nguồn thông tin thêm đa dạng, phong phú tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nghiên cứu thu thập và xử lý thông tin khi không thể tiếp xúc trực tiếp với đối tượng cần nghiên cứu

IV Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn

a Cở sở lý luận

Theo wikepidia “Tôn giáo hay giáo phái có thể được định nghĩa là một hệ thống các văn hoá, tính ngưỡng, đức tin bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định

cụ thể, các quan niệm về thế giới, thể hiện thông qua các kinh sách, khải thị, các địa điểm linh thiêng, lời tiên tri, quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh” (wikipedia.org/wiki/Tôn_giáo) Hay theo Nguyễn Thanh Xuân “Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay, và sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời gian khó mà đoán định trước được” (Nguyễn Thanh Xuân , Một Số Tôn Giáo Ở Việt

Nam, Nxb Tôn Giáo, 2007, tr.5)

Tôn giáo là một điều thiết yếu trong đời sống con người, khi mọi thứ vượt sự hiểu biết của con người thì chúng ta thường sẽ tìm đến tốn giáo, tín ngưỡng-những cái siêu nhiên Đó như là một nguồn sáng giúp con người có thêm sức mạng niềm tin vượt qua mọi khó khăn, thử thách Dù bạn có theo đạo hay không đạo thì cũng không thể phủ nhận lợi ích, vai trò, ý nghĩa mà tôn giáo đem lại cho chúng ta Từ đó có thể thấy tầm quan trọng của mỗi tôn giáo đối với cư dân mỗi quốc gia, dân tộc từ quá khứ cho đến hiện tại và tương lai

b Cở sở thực tiễn

Mấy thập kỷ gần đây, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo được nhiều người quan tâm, theo dõi trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo và đang có xu hướng ngày càng phát triển Việt Nam hiện có 06 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo Khác với các tôn giáo khác chủ yếu là du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam thì Cao Đài và Hòa Hỏa là tôn giáo bản địa

Trang 5

Đạo Cao Đài được hình thành tại Việt Nam, là sự dung hòa các tin hoa văn hóa của các tôn giáo lớn trên thế giới và được biến đổi để phù hợp với tryền thống, văn hóa dân tộc Việt Nam Đạo Cao Đài ra đời trong khoảng thời gian đất nước gặp khó khăn, điều đó cũng ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình hình thành của đạo.Có thời gian đạo tan rã nhưng với lòng tin của những người theo đạo để đến hôm nay thì Cao Đài

là một trong sáu tôn giáo lớn ở Việt Nam và là một tôn giáo tiêu biểu đại diện cho cư dân Nam Bộ

PHẦN NỘI DUNG

Đạo Cao Đài hay Cao Đài giáo là một tôn giáo địa phương, được thành lập ở Miền Nam của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, năm 1926 Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị, cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ

là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Để tỏ lòng tôn kính, một số các tín đồ

Cao Đài thường gọi tôn giáo của mình là Đạo Trời Hiện nay, đạo Cao Đài có khoảng 2,5 triệu tín đồ thuộc 10 hệ phái, 01 pháp môn tu hành, trên 10.000 chức sắc, hơn 1.200 cơ sở thờ tự hoạt động ở 37 tỉnh, thành phố

I Sự hình thành của đạo Cao Đài ở Nam Bộ

1 Bối cảnh Nam Bộ

1.1 Dân cư Nam Bộ

Nam Bộ được hình thành qua quá tình lịch sử với nhiều tên gọi khác nhau như: Nam Kỳ, Nam Kỳ Lục Tỉnh, Nam Việt, Gia Định,… Về vị trí thì Nam Bộ ở cuối bản

đồ Việt Nam, có diện tích hơn 67km2

, có 19 tỉnh thành, và được người Việt (chiếm

đa số) và một số dân tộc người khác khai phá cách đây 300 năm Nam Bộ đất rộng người thưa với cư dân chủ yếu di cư từ nơi khác đến Đây là vùng đất ngự cư của nhiều dân tộc như Viêt, Khmer, Hoa, Chăm…nên cũng là nói tụ hội của nhiền nền văn hóa khác nhau giữa các dân tộc

Nhưng trong đó nổi trội nhất vẫn là văn hóa của người Việt, là những người nghèo khổ không sống nổi ở “Đàng Trong” nên di cư vào đây Trong đó còn có một phần các binh lính, quan lại mang nhiệm vụ vào đây khai hoang, gìn giữ biên giới, nên mang theo gia đình vào vùng đất mới Cũng có một phần là tù nhân, bị lưu đầy và những người bị truy nã về chính trị Vì chiếm dân số đông nhất khu vực Nam Bộ, nên

họ giữ vai trò chủ yếu về kinh tế, chính trị từ hàng trăm năm qua đã làm cho yếu tố văn hóa Việt có sự ảnh hưởng mạnh mẽ trên toàn vùng đất Nam Bộ Sau mới đến văn hóa của người Hoa, họ cũng di cư vào nước ta do chính trị từ nước họ.Tiếp đến là

Trang 6

Khmer, tuy là dân bản địa nhưng lại thưa thớt, ngoài ra còn có văn hóa các dân tộc thiểu số khác nhưng không phổ biến nhiều

1.2 Bối cảnh Nam Bộ tác động đến sự hình thành đạo Cao Đài

Cũng chính sự đa dạng, pha trộn văn hóa ấy mà Nam Bộ trở thành nơi có nhiều tôn giáo bản địa nhất cả nước, trong đó tiêu biểu phải kể đến các tôn giáo như Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Hòa Hảo, hay Cao Đài – một tôn giáo dung hòa văn hóa của các tôn giáo lớn trên thế giới Đạo Cao Đài ra đời trong thời kỳ đất nước đang trải qua khó khăn, thời gian là giữa hai cuộc thế chiến thế giới, thực dân Pháp đang đẩy mạnh khai thác thuộc địa lần hai ở nước ta, với các phong trào yêu nước đang diễn ra sôi nổi trên cả nước

Nguyên nhân ra đời của đạo Cao Đài một phần cũng liên quan đến yếu tố kinh tế, chính trị Trong cả nước Nam Bộ là nơi thực dân Pháp vơ vét, bóc lột Khi các cuộc đấu tranh nổ ra liên tục nhưng cũng nhanh chống thất bại, do lúc đó chưa có sự dìu dắt của Đảng Cộng Sản, người dân rơi vào sự đau khổ, tuyệt vọng Thất bại, bế tắc trong cuộc sống và trong cuộc đấu tranh khiến một bộ phận quần chúng nhan dân tìm đến các tôn giáo, đến với đạo Cao Đài như một sự an ủi, che chở

Lúc bấy giờ tuy liên tục thất bại, nhưng do không chịu được áp bức bóc lột, cộng với tinh thần yêu nước luôn sục sôi của cư dân Nam Bộ, các cuộc đấu tranh vẫn liên tục nổ ra, dù dưới bất cứ hình thức nào, kể cả tín ngưỡng, tôn giáo cũng gây tiếng

vang rất lớn Do đó “Điều này làm rõ thêm đạo Cao Đài lúc mới ra đời mang nội dung chống Pháp, đã thu hút đông đảo quần chúng tin theo”(Nguyễn Thanh Xuân , Một Số Tôn Giáo Ở Việt Nam, Nxb Tôn Giáo, 2007, tr.308)

Theo Nguyễn Thanh Xuân thì “Một vấn đề tư tưởng quan trọng dẫn đến việc ra đời và sự phát triển của đạo Cao Đài là sự khủng hoảng, suy thoái của các tôn giáo, đạo ly đương thời.” (Nguyễn Thanh Xuân , Một Số Tôn Giáo Ở Việt Nam, Nxb Tôn

Giáo, 2007, tr.309) Trước đó đa số cư dân Nam Bộ theo đạo Phật, đạo Nho và một số

ít theo đạo Công Giáo Do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan mà Phật giáo dần

bị suy thoái, người dân phê phán Phật giáo mạnh mẽ, chùa chiền thì không được sửa sang, kinh sách không được xuất bản, tông mông bị lu mờ Còn đối với Công Giáo người dân cho rằng nó gắn liền với thực dân Pháp xâm lực, nên họ khinh thường, căm ghép Nho giáo thì là do các tư tưởng, đạo lý đã lỗi thời, sớm không còn phù hợp với các nhu cầu xã hội thời bấy giờ của Việt Nam nói riêng và Nam Bộ nói chung

Lịch sử của đạo Cao Đài còn gắn liền với sự phổ biến Cơ bút (Đàn cơ) tại Việt Nam đầu thế kỷ XX “Đàn cơ (hoặc Cơ bút) là một phương tiện để qua đó người ta tiến hành cầu cơ Cầu cơ là những hoạt động để con người liên hệ trực tiếp với thần linh, qua đó cầu xin các đấng siêu nhiên ban cho người ta những điều cơ mật, như bài

Trang 7

thuốc chữa bệnh…” (Nguyễn Đức Lữ chủ biên, Lý Luận Về Tôn Giáo và Chính Sách Tôn Giáo Ở Việt Nam, Nxb Tôn Giáo, 2007, tr.259) Cơ bút là nền tảng căn bản cũng như mọi yếu tố liên quan đến quá trình hình thành và phát triển của tôn giáo Cao Đài

từ quá khứ đến hiện tại, từ việc thu nhận tín đồ, phong chức sắc, ban hành luật đạo, các nghi thức cúng tế, phẩm phục, kinh điển, thậm chí đến các thiết kế cơ sở thờ tự cũng được thông qua bởi hình thức Cơ bút.Hai hình thức Cơ bút ảnh hưởng đến sự ra đời của tôn giáo Cao Đài là thuật Xoay Bàn theo thuyết Thông linh học ở Phương Tây

và tục cầu hồn, cầu tiên ở Phương Đông

2 Sự ra đời của đạo Cao Đài

Ngày 28/09/1926, 28 người sáng lâp đạo Cao Đài làm đơn, kèm theo chữ ký của

247 tín đồ, gửi thống đốc Nam Kỳ xin phép khai đạo Được sự đồng ý của chính quyền thức dân, trong 3 ngày, từ ngày 18-20/11/1926 lễ khai đạo Cao Đài được tổ chức long trọng tại tại chùa Từ Lâm (hay còn gọi là chùa Gò Đen) thuộc huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh Ngay khi mới thành lập, đạo Cao Đài đã thu hút được sự

hưởng ứng của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giai cấp nông dân tham gia đông đảo, bởi tinh thần dung hợp giáo lý, lễ nghi nhiều tôn giáo của Cao Đài vừa gần gũi trong đời sống văn hóa, vừa mang tính huyền bí phù hợp với tâm linh của người dân Nam Bộ

Số liệu cho thấy “Tín đồ đạo Cao Đài, vào cuối năm 1926 có 50 ngàn người, đến năm sau đã lên tới gần 300 ngàn, năm 1954 có khoảng trên dưới 2 triệu tín đồ và năm

1975 khoảng gần 3 triệu người” (Nguyễn Đức Lữ chủ biên, Lý Luận Về Tôn Giáo và Chính Sách Tôn Giáo Ở Việt Nam, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2007, tr.259) Tuy từ khi

ra đời cho đến nay số tín đồ cũng như sức ảnh hưởng của đạo Cao Đài không ngừng

mở rộng, nhưng trên thực tế đạo Cao Đài chỉ hoạt động chủ yếu ở vùng Nam Bộ, càng

đi dần ra phía Bắc tín đồ càng ít

Khi ra đời, đạo Cao Đài là một tổ chức thống nhất với cơ quan đầu não là Tòa Thánh Tây Ninh Nhưng ra đời được ít năm, đạo Cao Đài đã có mâu thuẫn giẵ các cá nhân có chức sắc dẫn đến sự rạn nút nội bộ Tuy nhiên phải đến năm 1934 mới chính thức chia thành các chi phái Bằng việc ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang – hai chức sắc cấp cao vì bất đồng với hai ông Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc về việc điều hành Giáo hội đã rời khỏi Tòa thánh Tây Ninh về Bến Tre lập chi phái

riêng Trong khoảng thời gian những năm 1930, 1940 đạo Cao Đài chia rẽ thành các chi phái tồn tại cho đến ngày nay và không có thay đổi là mấy Cụ thể là các chi phái: Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh (gốc của đạo Cao Đài, có Tòa Thánh Tây Ninh), Cao Đài Ban Chỉnh Đạo ( có Tòa thánh Tổ đình ở Bến Tre), Cao Đài Tiên Thiên (có Tòa Thánh Tổ đình ở Bến Tre), Cao Đài Minh Chơn Ly ( có Tòa Thánh Tổ đình ở Mỹ

Trang 8

Tho), Cao Đài Minh Chơn Đạo (có Tòa Thánh Tổ đình ở Bạc Liêu), Cao Đài Bạch y Liên đoàn Chơn Lý (có Tòa Thánh Tổ đình ở Rạch Giá), Truyền giáo Cao Đài (có Tòa Thánh Tổ Đình ở Đà Nẵng), Cao Đài Cầu Kho Tam Quan (có Tòa Thánh Tổ đình

ở Bình Định) và Cao Đài Chiếu Minh (có Tòa Thánh Tổ đình ở Cần Thơ)

II Nhưng tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài

Quá trình hình thành đạo Cao Đài gắn với một số nhân vật đến nay đã đi vào lịch

sử của đạo Cao Đài như những bậc sáng lập đạo như Vương Quan Kỳ, Cao Quỳnh

Cư, Cao Hoài Sang, Nếu kể ra hết thì rất nhiều nên chỉ liệt kê một vài nhân vật tiêu biểu được coi là tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài

1 Ông Ngô Văn Chiêu

Chân dung ông Ngô Văn Chiêu Nguồn: https://sites.google.com/site/thienchaucom/ tieu-su-dhuc-ngo-van-chieu

Tên thật của ông là Ngô Văn Chiêu (có sách gọi Ngô Minh Chiêu), sinh ngày 8 tháng 2 năm 1878 tại làng Bình Tây, tổng Tân Phong Hạ, hạt Chợ Lớn trong một ngôi nhà nhỏ ở phía sau chùa Quan Đế,trong một gia đình nghèo, dòng dõi quan lại Huế Năm 1902 ông được bổ nhiệm làm tri phủ ở Phú Quốc Chịu ảnh hưởng của người dượng rể vốn là một tín đồ Minh Sư đạo, từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với văn hóa Đạo giáo, nên rất tôn sùng các vị thần tiên, đặc biệt rất hâm mộ hình thức cơ bút để giao tiếp với giới thần tiên, vốn khá thịnh hành bấy giờ Từ đó ông sống cuộc đời như một tín đồ Đạo giáo, thường xuyên tổ chức hoặc tham gia các đàn cơ bút để hình thành đường lối tu luyện Qua những buổi cầu cơ đó, ông Chiêu đã đặt niềm tin vào

“thế giới siêu linh”, một thế giới “hư ảo” mà nội dung tôn giáo đề cập

Trang 9

Thế giới hư ảo đó là nơi tồn tại của các đấng siêu linh, trong đó “Cao Đài Tiên Ông” giảng đàn ở Tân An đã chở thành một trong những đấng siêu linh quan trọng trong “thế giới hư ảo” của đạo Cao Đài Sau đó , đấng siêu linh này thường xuất hiện trong các buổi cầu cơ của ông Chiêu tại Hà Tiên và Phú Quốc Năm 1921, thông qua các buổi cầu cơ tại Phú Quốc, đáng “Cao Đài Tiên Ông” đã nhận ông Chiêu làm đệ

tử, khuyên ông ăn chay trường và luyện tâm pháp Cũng trong năm này, ông Chiêu dã bắt đầu thờ Thiên Nhãn (Mắt trời) và đã cụ thể hóa “thế giới hư ảo” bằng cảnh “Bồng Lai” hi cho rằng mình đã được “Tiên ông” tưởng thưởng cho công phu tu hành bằng việc cho thấy “Tiên cảnh” (có nghĩa là ông Ngô Văn Chiêu thờ Cao Đài khi Cao Đài chưa ra đời) Ông thường gặp gỡ trao đổi với bạn bè về thuyết này và tổ chức cầu cơ, hình thành nhóm cơ bút do ông và ông Vương Quan Kỳ làm nồng cốt, gọi là nhóm Cơ bút Chiêu – Kỳ Ông thường gặp bạn bè loan báo về sự phát hiện của mình về Đấng Cao Đài à được mọi người, nhất là ông Lê Văn Trung và Phạm Cong Tắc, nhiệt liệt hưởng ứng

Tuy nhiên, đến cuối năm 1926, khi phong trào Cao Đài phát triển rầm rộ, ông Ngô Văn Chiêu không muốn có sự rắc rối, ồn ào nên nhường sự lãnh đạo Cao Đài cho ông Lê Văn Trung để trở về Cần Thơ tu luyện và cầu cơ,sau này hình thành phái Cao Đài Chiếu Minh Tam thanh Vô vi Ông Ngô Văn Chiêu qua đời năm 1933 tại Cần Thơ

2 Ông Lê Văn Trung

Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung Nguồn:

https://36hn.wordpress.com/2016/07/08/hinh-anh-hiem-co-ve-dao-cao-dai-o-tay-ninh-nam-1930/

Trang 10

Ông Lê Văn Trung 1875 trong một gia đình tiểu nông, ở làng Phước Lâm, tổng Phước Điền Trung, tỉnh Chợ Lớn Thân phụ của ông là Lê Văn Thanh, mất khi ông mới được vài tháng Thân mẫu là Văn Thị Xuân, một người đàn bà nhân hậu Năm

1893, ông tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat và đucợ bổ nhiệm làm thư

ký ở phủ Thống đốc Nam Kỳ Năm 1920 ông bị thua lỗ trong kinh doanh và đến năm

1924 thì bị phá sản Sau khi thất bại trong doanh nghiệp, ông quay vào hoạt động tô giáo

Theo tài liệu của tôn giáo Cao Đài thì ngày 7 tháng 1 năm 1926 (tức 23 tháng 11 năm Ất Sửu), các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đem Đại Ngọc Cơ đến nhà ông Trung để cầu cơ Tại lần cầu cơ này, ông được nhận làm môn đồ Từ đó, ông bắt đầu lập bàn thờ đạo tại tư gia, dốc lòng cùng với các ông Phạm Công Tắc và Cao Quỳnh Cư lo việc mở đạo Nhờ sự thông minh, tài ngoại giao, kiến thức đạo giáo sâu sắc, ông đã nhanh chóng tiếp thu sứ mệnh khai đạo của ông Ngô Văn Chiêu và trở thành một trong những nhân vật sáng lập đạo Cao Đài.Ông chính là người chủ chốt cùng 27 đệ tử Cao Đài khác, gởi Tờ Khai Đạo, kèm danh sách 247 tín đồ đầu tiên, lên Thống đốc Nam Kỳ vào ngày 7/10/1926 Sau đó, ngày 15/10/1926, ông cùng các môn

đồ chủ chốt khác tổ chức Lễ Khai Đạo rất trọng thể tại chùa Gò Kén (Tây Ninh) Ông trực tiếp đảm nhận làm Giáo tôn đứng đầu Cửu Trùng đài- cơ quan hành pháp của đạo Cao Đài

3 Ông Phạm Công Tắc

Chân dung ông Phạm Công Tắc Nguồn:

https://36hn.wordpress.com/2016/07/08/hinh-anh-hiem-co-ve-dao-cao-dai-o-tay-ninh-nam-1930/

Ngày đăng: 12/03/2022, 10:55

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w