NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1 Tổ chức cơ sở Đảng
1.1.1 Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng
Tổ chức cơ sở Đảng, được định nghĩa rõ ràng trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, là nền tảng và hạt nhân chính trị tại địa phương Tại các xã, phường, thị trấn, khi có từ ba đảng viên chính thức trở lên, sẽ thành lập tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc cấp ủy huyện Tương tự, ở các cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã và đơn vị khác, nếu có từ ba đảng viên trở lên, cũng sẽ hình thành tổ chức Đảng Nếu số lượng đảng viên chưa đủ ba, cấp ủy cấp trên sẽ giới thiệu đảng viên tham gia tổ chức phù hợp Tổ chức cơ sở Đảng dưới ba mươi đảng viên sẽ lập chi bộ cơ sở, trong khi tổ chức có từ ba mươi đảng viên trở lên sẽ lập đảng bộ cơ sở Các trường hợp đặc biệt như lập đảng bộ cơ sở với số lượng đảng viên chưa đủ hoặc lập chi bộ với số lượng vượt mức yêu cầu phải được cấp ủy cấp trên đồng ý trước khi thực hiện.
Theo quy định hiện hành, tổ chức cơ sở Đảng bao gồm cả chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở, tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ của từng đơn vị.
1.1.2 Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng
Ngay từ khi thành lập tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò đặc biệt của chi bộ Đảng trong việc dẫn dắt phong trào cách mạng.
Tổ chức cơ sở Đảng
1.1.1 Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng
Tổ chức cơ sở Đảng, theo Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, là nền tảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở, được thành lập khi có từ ba đảng viên chính thức trở lên tại xã, phường, thị trấn hoặc các đơn vị khác như cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã Tổ chức này có thể là chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở, tùy thuộc vào số lượng đảng viên Nếu tổ chức cơ sở Đảng có dưới ba mươi đảng viên, sẽ lập chi bộ cơ sở và các tổ đảng trực thuộc; nếu có từ ba mươi đảng viên trở lên, sẽ lập đảng bộ cơ sở với các chi bộ trực thuộc Việc thành lập tổ chức cơ sở Đảng trong những trường hợp đặc biệt cần được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý.
Theo quy định, tổ chức cơ sở Đảng bao gồm cả chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở, tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ của từng đơn vị cơ sở.
1.1.2 Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chi bộ Đảng ngay từ khi thành lập tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân Họ đã tham gia cải tổ “Đồng minh những người chính nghĩa” vào năm 1836, thể hiện vai trò đặc biệt của các chi bộ trong việc phát triển phong trào công nhân.
Liên đoàn những người cộng sản (1847-1852) đã khởi thảo điều lệ, trình bày đầy đủ các quan điểm và tư tưởng của C Mác và Ph Ăngghen về xây dựng Đảng Lần đầu tiên, luận điểm xây dựng Đảng được xác định với cấu trúc gồm liên đoàn, chi bộ, khu bộ, tổng bộ, Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội Tổ chức và hoạt động của Liên đoàn được quy định chặt chẽ; để trở thành hội viên, cần có sự đồng ý của một chi bộ và việc kết nạp phải được thực hiện bởi chủ tịch chi bộ cùng hội viên giới thiệu Điều này cho thấy hội viên phải sinh hoạt tại chi bộ, với quy định chi bộ tối thiểu gồm 3 thành viên.
Liên đoàn cần đảm bảo lãnh đạo được thực hiện một cách dân chủ và kịp thời, bắt đầu từ các chi bộ Mỗi chi bộ sẽ bầu ra Chủ tịch và Phó Chủ tịch, từ đó các Chủ tịch và Phó Chủ tịch này sẽ họp thành Ban Chấp hành khu bộ Ban Chấp hành có trách nhiệm bầu người lãnh đạo trong số ủy viên của mình và duy trì liên lạc với các chi bộ cũng như tổng bộ Ban Chấp hành khu bộ đóng vai trò là cơ quan quyền lực đối với tất cả các chi bộ trong khu vực.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chi bộ trong tổ chức Đảng, khẳng định rằng để không trở thành những người chỉ biết vỗ tay cho các phong trào dân chủ tư sản, công nhân cần phải thành lập một tổ chức Đảng riêng biệt, vừa bí mật vừa công khai Mỗi chi bộ phải được xem như là trung tâm và hạt nhân của các Hội liên hiệp công nhân, từ đó thúc đẩy sự phát triển của phong trào công nhân.
VI.Lênin đã vận dụng, phát triển sáng tạo những tư tưởng quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen, xây dựng hệ thống những tư tưởng, quan điểm về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga Cơ sở của Đảng vô sản của nước Nga là “Liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân” do V.I.Lênin thành lập năm 1895 Trong tác phẩm “Về việc cải tổ Đảng” và nhiều tác phẩm khác của Người, cũng như trong bài báo “Đi vào con đường thẳng”, Người đã thể hiện tư tưởng xuyên suốt là các chi bộ Đảng ở các công xưởng, nhà máy là nền tảng, trên đó cả tòa nhà của Đảng Bônsêvích được xây dựng V.I Lênin đã nhấn mạnh và đặc biệt quan tâm đến việc thành lập chi bộ Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga ở nhà máy, công xưởng, các địa phương và coi trọng việc xây dựng các chi bộ đã trở thành hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở “Những chi bộ Đảng ở các địa phương và nhất là ở các nhà máy dưới sự lãnh đạo của các phần tử tiên tiến xuất thân ngay từ hàng ngũ công nhân và sâu sát với quần chúng Đó là cơ sở mà trên đó chúng ta đã xây dựng và xây dựng hạt nhân vững chắc không gì lay chuyển nổi của phong trào công nhân cách mạng và dân chủ - xã hội”.
Với V.I.Lênin, tổ chức Đảng được xây dựng ở nhà máy, công xưởng phải trở thành chỗ dựa cho công tác tuyên truyền, cổ động và công tác tổ chức thực tiễn trong quần chúng Chính từ đặc điểm đó, chi bộ Đảng đã trở thành cầu nối Đảng với các cơ quan cấp trên của Đảng với quần chúng, trực tiếp liên hệ với quần chúng, là nơi phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị chính đáng của quần chúng với Đảng Đến Cách mạng tháng Mười Nga, ngoài những chi bộ ở nhà máy, công xưởng còn có các chi bộ theo lãnh thổ, ở các câu lạc bộ Chính điều này, đã thể hiện quan điểm nhất quán của Người và là một đòn giáng vào những lời nói ấu trĩ của bọn tư sản cho rằng Đảng Bônsêvích hình như được xây dựng không phải như một Đảng của giai cấp công nhân mà chỉ là một Đảng trí thức. Để khẳng định quan điểm, tư tưởng nhất quán đó, Hội nghị lần thứ VIII toàn Nga của Đảng Cộng sản Nga (Đây là hội nghị đầu tiên sau khi cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi và chính quyền Xô Viết được thành lập), Điều lệ Đảng đã được bổ sung và khẳng định: “Cơ sở của tổ chức Đảng là chi bộ Đảng”. Điều lệ còn nói rõ: “Các chi bộ được thành lập ở các xí nghiệp, các làng, các đơn vị Hồng quân và các cơ quan”.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930, được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chứng tỏ sự trưởng thành của giai cấp vô sản Trong hơn 87 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã trung thành với tư tưởng Mác-Lênin, đồng thời vận dụng một cách sáng tạo và phù hợp với thực tế Việt Nam Đảng cũng thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, bổ sung và làm phong phú thêm lý thuyết về xây dựng Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc vị trí và vai trò của chi bộ, nhấn mạnh rằng "chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt" Ông cho rằng chất lượng của chi bộ có mối quan hệ chặt chẽ với chất lượng toàn Đảng, và để lãnh đạo cách mạng hiệu quả, Đảng phải mạnh mẽ, điều này phụ thuộc vào sự vững mạnh của chi bộ Mỗi chi bộ cần trở thành hạt nhân lãnh đạo quần chúng tại cơ sở, thực hiện đúng đường lối, chính sách của Trung ương Chi bộ được xem là gốc rễ của Đảng trong quần chúng; chi bộ tốt giúp chính sách của Đảng được thi hành hiệu quả, ngược lại, chi bộ yếu kém sẽ gây khó khăn trong công việc Đảng ta luôn xác định chi bộ có vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo chính trị và kết nối giữa Đảng với quần chúng.
Cố Tổng Bí thư của Đảng nhấn mạnh rằng việc xây dựng Đảng bắt đầu từ việc củng cố chi bộ, vì chi bộ là tổ chức cơ sở quan trọng nhất, kết nối Đảng với quần chúng Đây là nơi thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng và giáo dục, rèn luyện Đảng viên Tài năng của Đảng thường khởi nguồn từ chi bộ, từ đó được phát triển và nâng lên các cấp lãnh đạo từ huyện, tỉnh đến Trung ương.
Quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã áp dụng thành công vào công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là tổ chức cơ sở Đảng, giúp Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua thử thách Trong bối cảnh đổi mới hiện nay, vai trò của chi bộ Đảng càng được khẳng định Điều này được thể hiện rõ qua các Đại hội Đảng toàn quốc và được quy định trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh rằng tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng và hạt nhân chính trị tại cơ sở.
Mỗi tổ chức cơ sở Đảng là tế bào sống, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của toàn Đảng, gắn liền với đời sống xã hội Tổ chức cơ sở Đảng không chỉ là hạt nhân lãnh đạo chính trị mà còn là cầu nối đưa đường lối của Đảng đến quần chúng, đồng thời phản ánh nguyện vọng của nhân dân Đây cũng là nơi đảng viên sinh hoạt, học tập và rèn luyện, từ đó sàng lọc và giới thiệu quần chúng ưu tú Trong thời kỳ đổi mới, những tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, đoàn kết sẽ thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, nâng cao kinh tế - xã hội và củng cố lòng tin của dân Ngược lại, tổ chức yếu kém, mất đoàn kết sẽ làm giảm sút lòng tin đối với Đảng, không khai thác được tiềm năng địa phương và vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
1.1.3 Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
1.1.3.1 Chức năng của tổ chức cơ sở Đảng
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI, XII) đã xác định rõ chức năng của tổ chức cơ sở Đảng Theo Quy định số 94, 95-QĐ/TW ngày 03/3/2004, Đảng bộ và chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn đóng vai trò là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước Họ có nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đồng thời động viên nhân dân thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Tổ chức cơ sở Đảng có chức năng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ theo đúng đường lối và chủ trương của Đảng, đồng thời tuân thủ chính sách và pháp luật của Nhà nước Mục tiêu là đạt hiệu quả cao trong công việc, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
1.2.1 Khái niệm năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Năng lực lãnh đạo của Đảng bao gồm khả năng đề ra chủ trương và đường lối, xây dựng nghị quyết và chỉ thị, tổ chức thực hiện các đường lối đã đề ra, cũng như kiểm tra, phát hiện và xử lý các vấn đề phát sinh.
Năng lực đề ra chủ trương, đường lối của Đảng thể hiện qua việc xây dựng cương lĩnh, chiến lược và sách lược cụ thể, đồng thời định hướng phát triển cho các giai đoạn lịch sử Để đạt được điều này, Đảng cần nghiên cứu và am hiểu thực tiễn, dự báo và tổng kết nhằm khái quát lý luận thành các chủ trương và giải pháp đồng bộ, phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế, liên quan đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Năng lực xây dựng nghị quyết và chỉ thị của Đảng là quá trình nghiên cứu, thảo luận và thống nhất ý chí của tập thể Nghị quyết được đặc trưng bởi sự biểu quyết tập thể, thể hiện trí tuệ và ý chí chung, đồng thời rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đảm bảo quyền dân chủ được tôn trọng.
Năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng là khả năng nắm vững và vận dụng sáng tạo các nội dung, quan điểm vào thực tiễn địa phương, đơn vị Điều này giúp tìm ra những biện pháp hiệu quả nhất để đạt được các mục tiêu đề ra.
Năng lực kiểm tra và xử lý vi phạm là khả năng đánh giá thực tiễn các chủ trương, đường lối của Đảng, nhằm phát huy những ưu điểm và khắc phục nhược điểm Điều này giúp phát hiện các biểu hiện tiêu cực và vi phạm trong quá trình thực hiện đường lối, từ đó góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch và vững mạnh.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng thể hiện ở khả năng nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, cũng như chính sách và pháp luật của Nhà nước Đồng thời, lãnh đạo cần vận dụng một cách sáng tạo và chính xác những nhiệm vụ cấp trên giao, phù hợp với điều kiện thực tiễn tại địa phương.
1.2.2 Tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
Hiện nay việc đánh giá năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng thực hiện dựa trên các quy định của Đảng như:
Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng là yêu cầu quan trọng được đề ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) Điều này nhằm củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng tại cơ sở, đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả trong công tác tổ chức, từ đó góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đẩy mạnh xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng là nhiệm vụ quan trọng, gắn liền với việc củng cố chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cơ sở Điều này cần được thực hiện đồng bộ với các phong trào cách mạng của quần chúng, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX).
+ Điều 23, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW, ban hành ngày 25/9/2014 bởi Ban Tổ chức Trung ương, quy định quy trình kiểm điểm tập thể và cá nhân, đồng thời hướng dẫn cách đánh giá và phân loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng cùng với đảng viên hàng năm Hướng dẫn này nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm điểm, đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong đánh giá, góp phần xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh.
Nghị quyết số 12-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đề cập đến những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời yêu cầu các cấp ủy đảng phải thực hiện nghiêm túc các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng Việc này không chỉ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Quy định số 220-QĐ/TU ngày 27/12/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc cho huyện ủy, quận ủy, thị ủy và thành ủy trực thuộc tỉnh ủy Quy định này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan đảng, đảm bảo sự lãnh đạo và quản lý thống nhất trong hệ thống chính trị tại địa phương.
Do vậy, để đánh giá năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng hiện nay cần dựa trên những tiêu chí chủ yếu sau:
Đảng có nhiệm vụ chính trị quan trọng trong việc triển khai và thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, cùng với các nhiệm vụ được giao từ cấp ủy cấp trên Đảng đóng vai trò là "sức lực của bản thân Đảng" để vượt qua những trở ngại từ các thế lực thù địch và những khó khăn trong xã hội Sự mạnh mẽ của Đảng thể hiện qua sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tạo nên sức bền nội tại và khả năng đấu tranh kiên định với các thế lực thù địch Đảng viên cần thể hiện tính tiên phong, gương mẫu, đồng thời gắn kết chặt chẽ với quần chúng, từ đó nâng cao uy tín của Đảng trong cộng đồng.
+ Bản lĩnh chính trị, sự vững vàng của Đảng trước những khó khăn và thách thức trong và ngoài nước.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta kiên định theo đuổi mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội Quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng là động lực chính trong sự phát triển bền vững của đất nước.
Kiên quyết loại bỏ các phần tử cơ hội chủ nghĩa và tham nhũng ra khỏi Đảng, đồng thời ngăn chặn ảnh hưởng của tư tưởng phản động để bảo vệ sự trong sạch nội bộ.
+ Tính tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết nội bộ, ý thức tập thể trong lãnh đạo và sinh hoạt Đảng.
+ Phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ năng lực thực tế và vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên.
+ Lối sống, phương pháp công tác và phong cách lãnh đạo của cán bộ đảng viên.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng được thể hiện qua sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cùng với sự thống nhất trong ý chí và hành động Điều này cho phép tổ chức cơ sở Đảng đấu tranh hiệu quả chống lại các tác động làm suy yếu và gắn kết chặt chẽ với quần chúng, từ đó thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội và tổ chức cơ sở Đảng huyện Thới Lai, thành phố Cần thơ
cơ sở Đảng huyện Thới Lai, thành phố Cần thơ
2.1.1 Điều kiện tự nhiên của huyện Thới Lai, thành phố Cần thơ
Huyện Thới Lai, thuộc thành phố Cần Thơ, được thành lập theo Nghị định số 12/NĐ-CP ngày 23/12/2008, tách từ huyện Cờ Đỏ và chính thức hoạt động từ ngày 01/3/2009 Huyện có diện tích tự nhiên 25.566,5 ha, với 27.858 hộ và dân số khoảng 122.610 người.
Thới Lai là huyện ven đô thuộc thành phố Cần Thơ, nằm ở phía đông giáp quận Ô Môn, phía tây giáp huyện khác, phía nam giáp huyện Giồng Giềng – Kiên Giang, và phía bắc giáp huyện Cờ Đỏ Huyện Thới Lai bao gồm 13 đơn vị hành chính, bao gồm thị trấn Thới Lai và 12 xã: Trường Xuân, Trường Xuân B, Trường Xuân A, Đông Bình, Đông Thuận, Thới Tân, Xuân Thắng, Thới Thạnh, Định Môn, Trường Thành, Trường Thắng, cùng với 108 ấp.
Thới Lai có một lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, với truyền thống đoàn kết chống giặc và bảo vệ quê hương Người dân nơi đây đã sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do, góp phần quan trọng vào cuộc chiến chống xâm lược Huyện Thới Lai luôn tri ân những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Thới Lai là căn cứ cách mạng quan trọng Sau ngày giải phóng, khu vực này đã được đầu tư xây dựng nhiều công trình lớn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Huyện Thới Lai hướng đến xây dựng con người theo tiêu chí của Cần Thơ: trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch, góp phần làm cho thành phố Cần Thơ trở nên văn minh, hiện đại và là động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong giai đoạn 2012-2016, huyện Thới Lai đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, với tăng trưởng kinh tế cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp Huyện đã hình thành các cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa chất lượng cao, phát triển thương mại - dịch vụ, và duy trì chỉ số giá tiêu dùng ổn định Đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện Mặc dù gặp khó khăn trong đầu tư công, huyện đã huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, dẫn đến sự thay đổi rõ nét về diện mạo hạ tầng, môi trường và không gian sống Nhiều công trình lớn như trường học và giao thông đã được đầu tư mở rộng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Thới Lai.
2.1.2 Phát triển kinh tế - xã hội của huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ
Kinh tế huyện Thới Lai đang trên đà ổn định và phát triển, với cơ cấu kinh tế gồm khu vực I chiếm 50-51%, khu vực II 23-24% và khu vực III 27-28% Nhịp độ tăng trưởng bình quân đạt 12-13%, GDP bình quân đầu người vào năm 2016 đạt 33,525 triệu đồng Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng đã giúp giá trị sản xuất công nghiệp, thương mại - dịch vụ năm 2016 đạt 3.419 tỷ đồng, trong khi tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 2.065 tỷ đồng và sản lượng lúa hàng năm đạt 355 ngàn tấn Giao thông đường bộ đã được cải thiện với 13/13 xã, thị trấn có xe ô tô đến trung tâm xã, thực hiện bê tông hóa ấp liền ấp và xã liền xã theo tiêu chí nông thôn mới.
Thương mại và dịch vụ cùng với kinh tế nông nghiệp tại huyện Thới Lai là những ngành kinh tế mũi nhọn có tiềm năng phát triển lớn, thu hồi vốn nhanh và thu hút đầu tư từ nhiều doanh nghiệp Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn như giá cả và thị trường cạnh tranh gay gắt, nhưng ngành này vẫn duy trì mức tăng trưởng cao Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ, trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế của huyện Nhiều công trình dịch vụ và thương mại được đầu tư xây dựng đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, dần thay đổi thói quen tiêu dùng và phương thức thanh toán của người dân từ năm 2012.
Năm 2016, trên địa bàn đã có hơn 200 cơ sở, công ty, doanh nghiệp mới thành lập với tổng vốn đăng ký vượt 2.500 tỷ đồng, tạo ra hơn 3.800 việc làm và 500 hộ cá thể đăng ký kinh doanh với vốn đầu tư trên 1.432 tỷ đồng Hoạt động mua bán và trao đổi hàng hóa phục vụ đời sống nhân dân ngày càng phát triển, với số lượng chợ xã, thị trấn tăng từ 8 lên 10 chợ, được sắp xếp theo hướng văn minh và kiểm tra chất lượng giá cả hàng hóa, kịp thời phát hiện vi phạm Thị trường hàng hóa trở nên dồi dào, đa dạng về chủng loại và phong phú về mẫu mã, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng Đồng thời, cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" cũng được tích cực phát động Giao thông được mở rộng và cải thiện, cùng với dịch vụ cung cấp điện, nước ngày càng tăng.
Ngân sách hàng năm của huyện đạt khoảng 55-60 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, với chi tiêu tiết kiệm và công khai theo đúng quy định pháp luật Công tác quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước được thực hiện nghiêm túc, ngày càng chặt chẽ và hiệu quả Nguồn thu ngân sách do huyện quản lý liên tục tăng trưởng qua các năm.
Để quản lý hiệu quả ngân sách 5 tỷ đồng, cần thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm soát chi tiêu, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí Điều này sẽ đảm bảo đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên và tập trung vào đầu tư phát triển.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ ngày càng phát triển với chất lượng cao, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa và đời sống tinh thần của người dân Các thiết chế văn hóa như nhà văn hóa, thư viện và phòng đọc sách được đầu tư và nâng cấp, đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa và nghệ thuật của cộng đồng Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với nếp sống văn minh đô thị và xây dựng nông thôn mới tiếp tục phát triển, với 100/108 ấp và 7/13 xã đạt tiêu chuẩn văn hóa Hoạt động thể dục, thể thao cũng phát triển mạnh mẽ, với số lượng người tham gia luyện tập thường xuyên tăng lên, cùng với sự ra đời của hàng trăm sân bóng đá mini và khu tập thể dục phục vụ nhu cầu của nhân dân.
Công tác giáo dục - đào tạo đã được cải thiện về nội dung, phương pháp và chất lượng, với cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư, giúp nâng cao điều kiện dạy và học Đến cuối năm 2016, đã có 25/45 trường đạt chuẩn, tương đương 55%, tỷ lệ học sinh đến lớp hàng năm đạt 99,7% Chất lượng học tập và đạo đức của học sinh liên tục tăng, trong khi số học sinh lưu ban và bỏ học giảm đáng kể Phong trào thi đua “2 tốt” đạt nhiều kết quả tích cực, và thành quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi cũng như phổ cập trung học cơ sở được duy trì và nâng cao Công tác xã hội hóa giáo dục và đào tạo nghề, giới thiệu việc làm đã có những bước phát triển mới.
Chăm sóc sức khỏe nhân dân đã đạt nhiều thành tựu, đặc biệt trong công tác tiêm chủng mở rộng với hơn 99% trẻ em được tiêm ngừa đầy đủ Quản lý y tế có nhiều tiến bộ, hệ thống dịch vụ y tế được mở rộng, nâng cao y đức và y thuật của cán bộ y tế, tỷ lệ bệnh nhân được chăm sóc tăng, an toàn vệ sinh thực phẩm được đảm bảo Công tác y tế dự phòng và vệ sinh phòng dịch được tăng cường, giúp phát hiện và dập tắt dịch bệnh kịp thời Hoạt động phòng chống HIV/AIDS và điều trị Methadone cho người nghiện ma túy cũng được chú trọng Kết quả công tác dân số kế hoạch hóa gia đình đã hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 11%, với nhiều xã không có người sinh con thứ 3 trở lên Sự xã hội hóa trong lĩnh vực y tế có chuyển biến tích cực, các cơ sở y tế tư nhân phát triển, trong khi đội ngũ y bác sĩ và cơ sở vật chất tại các trạm y tế được cải thiện để phục vụ tốt hơn cho sức khỏe cộng đồng.
Công tác chính sách, đền ơn đáp nghĩa và an sinh xã hội luôn được chú trọng, với hơn 135 căn nhà tình nghĩa và 400 nhà đại đoàn kết được trao tặng trong nhiệm kỳ qua Chương trình giảm nghèo và tạo việc làm cho người lao động đã đạt nhiều kết quả tích cực, giải quyết trên 4.500 lao động/năm thông qua dạy nghề, cho vay từ quỹ quốc gia và các phong trào hỗ trợ Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn 4,49% vào năm 2016, trong khi số hộ khá và hộ giàu tăng đáng kể Các chính sách bảo hiểm tự nguyện và bắt buộc được triển khai rộng rãi, nâng cao lòng tin của nhân dân, với tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 75% vào năm 2016 Công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng được quan tâm, với tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm dần, đạt dưới 15% vào năm 2016.
2.1.3 Tổ chức cơ sở Đảng huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ Đảng bộ huyện Thới Lai hiện có 55 chi, đảng bộ trực thuộc Huyện ủy (trong đó 16 đảng bộ, 13 đảng bộ xã thị trấn, và đảng bộ Công an, Quân sự huyện, Viện Lúa đồng bằng Sông Cữu Long, 39 chi bộ), 227 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở với 3.300 đảng viên, đảng viên nữ 996 chiếm 30,18% Đảng viên là cán bộ hưu trí, mất sức 203 (trong đó có 87 đảng viên được miễn sinh hoạt). đảng viên người dân tộc 60, đảng viên tôn giáo 79 Các tổ chức cơ sở Đảng huyện Thới Lai có những đặc điểm cơ bản giống như các tổ chức cơ sở Đảng của các quận, huyện trên địa bàn thành phố, tuy nhiên vẫn có một số đặc điểm riêng như sau:
Thới Lai, huyện Anh hùng trong kháng chiến, nổi bật với truyền thống yêu nước và cách mạng lâu đời của nhân dân, cùng sự cần cù lao động Nơi đây có nhiều di tích lịch sử quan trọng như khu căn cứ Huyện ủy ở Lò Mo xã Trường Thành, khu di tích chiến thắng Ông Đưa xã Định Môn, và nhà cách mạng Châu Văn Liêm ở xã Thới Thạnh, người đã thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Ông xuất thân từ một trí thức yêu nước và là tấm gương của một nhà giáo mẫu mực, hết lòng vì lợi ích của nhân dân và lý tưởng cao cả của Đảng.