1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

ĐỀ TÀI VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

36 79 4

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 36
Dung lượng 183,68 KB
File đính kèm CNXHKH_CĐ5.zip (184 KB)

Cấu trúc

  • PHẦN MỞ ĐẦU

    • 1. Lý do chọn đề tài

    • 2. Nhiệm vụ của đề tài

  • PHẦN NỘI DUNG

    • Chương 1. VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

      • 1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình

        • 1.1.1. Khái niệm gia đình

        • 1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội

        • 1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình

      • 1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 

        • 1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội

        • 1.2.3. Cơ sở văn hoá

        • 1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ

    • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

      • 2.1. Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới

        • 2.1.1. Khái niệm

        • 2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới 

      • 2.2. Thực trạng xây dựng, phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 

      • 2.3. Đề xuất giải pháp xây dựng và phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới 

        • 2.3.1. Xây dựng định hướng đến năm 2030

        • 2.3.2. Đề xuất các giải pháp nâng cao bình đẳng giới ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-2030

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

ĐỀ TÀI VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 4 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Nhiệm vụ của đề tài 4 PHẦN NỘI DUNG 6 Chương 1. VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 6 1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình 6 1.1.1. Khái niệm gia đình 6 1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội 7 1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình 9 1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 12 1.2.1. Cơ sở kinh tế xã hội 12 1.2.3. Cơ sở văn hoá 14 1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ 14 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 17 2.1. Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới 17 2.1.1. Khái niệm 17 2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới 18 2.2. Thực trạng xây dựng, phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 21 2.3. Đề xuất giải pháp xây dựng và phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới 27 2.3.1. Xây dựng định hướng đến năm 2030 27 2.3.2. Đề xuất các giải pháp nâng cao bình đẳng giới ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 20212030 28 KẾT LUẬN 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO 35 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 4 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Nhiệm vụ của đề tài 4 PHẦN NỘI DUNG 6 Chương 1. VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 6 1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình 6 1.1.1. Khái niệm gia đình 6 1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội 7 1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình 9 1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 12 1.2.1. Cơ sở kinh tế xã hội 12 1.2.3. Cơ sở văn hoá 14 1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ 14 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 17 2.1. Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới 17 2.1.1. Khái niệm 17 2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới 18 2.2. Thực trạng xây dựng, phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 21 2.3. Đề xuất giải pháp xây dựng và phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới 27 2.3.1. Xây dựng định hướng đến năm 2030 27 2.3.2. Đề xuất các giải pháp nâng cao bình đẳng giới ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 20212030 28 KẾT LUẬN 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO 35

Lý do chọn đề tài

Trước đây, Nho giáo đã định hình các mối quan hệ gia đình tại Việt Nam với những quan niệm về vai trò của nam và nữ, trong đó đàn ông là trụ cột và phụ nữ phải lệ thuộc Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, phụ nữ đã có cơ hội phát triển bản thân và đóng góp bình đẳng vào gia đình, cùng với nam giới xây dựng một mái ấm hạnh phúc và bền vững Tại TP Hồ Chí Minh, giới trẻ đang dần từ bỏ những quan niệm lạc hậu như trọng nam khinh nữ, hướng tới một xã hội bình đẳng Mặc dù vậy, áp lực từ cuộc sống hiện đại như căng thẳng công việc và gánh nặng tài chính đã dẫn đến tình trạng nhiều người chọn sống độc thân hoặc kết hôn nhưng không có con, gây ra những khó khăn trong hôn nhân và làm giảm tỷ lệ sinh, ảnh hưởng đến lực lượng lao động trong xã hội.

Nhóm tác giả chọn đề tài này nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong hôn nhân, từ đó góp phần nâng cao giá trị gia đình và xây dựng một xã hội phát triển bền vững, hướng tới việc xoá bỏ bất bình đẳng giới trong xã hội hiện đại.

Nhiệm vụ của đề tài

- Làm rõ khái niệm, vị trí và các chức năng của bình đẳng giới trong hôn nhân.

- Làm rõ những cơ sở xây dựng một mối quan hệ bình đẳng giới tính trong hôn nhân thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

- Nêu thực trạng biến đổi của vấn đề bình đẳng giới trong hôn nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

- Đánh giá thực trạng … (ưu điểm, hạn chế).

- Đề xuất một số giải pháp.

VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình

Gia đình là một cộng đồng quan trọng, đóng vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của xã hội C.Mác nhấn mạnh rằng gia đình hình thành từ hai mối quan hệ cơ bản: hôn nhân giữa vợ và chồng, và huyết thống giữa cha mẹ và con cái Những mối quan hệ này được xây dựng trên sự gắn bó, liên kết và phụ thuộc lẫn nhau, với nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm được quy định bởi pháp lý hoặc đạo lý.

Quan hệ hôn nhân đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các mối quan hệ gia đình và là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình Quan hệ huyết thống, phát sinh từ quan hệ hôn nhân, là mối liên kết tự nhiên giữa những người cùng dòng máu Đây chính là yếu tố mạnh mẽ nhất kết nối các thành viên trong gia đình với nhau.

Trong gia đình, ngoài mối quan hệ vợ chồng và cha mẹ với con cái, còn có nhiều mối quan hệ khác như ông bà với cháu, anh chị em, và các mối quan hệ với cô, dì, chú bác Hiện nay, Việt Nam và thế giới cũng công nhận quan hệ cha mẹ nuôi với con nuôi thông qua thủ tục pháp lý Những mối quan hệ này đều gắn liền với trách nhiệm chăm sóc và nuôi dưỡng, thể hiện sự quan tâm cả về vật chất lẫn tinh thần giữa các thành viên trong gia đình, đồng thời cũng là quyền lợi thiêng liêng của mỗi người.

1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H 1995, tập 3, tr 41.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của các thành viên trong gia đình Trong xã hội hiện đại, mặc dù hoạt động nuôi dưỡng và chăm sóc của gia đình được xã hội chú trọng và chia sẻ, nhưng không thể hoàn toàn thay thế được sự chăm sóc và nuôi dưỡng từ chính gia đình.

Các quan hệ này có sự gắn bó chặt chẽ và phát triển theo trình độ phát triển kinh tế cũng như thể chế chính trị - xã hội.

Gia đình là một dạng cộng đồng xã hội đặc biệt, hình thành và duy trì chủ yếu dựa trên hôn nhân, quan hệ huyết thống và nuôi dưỡng, cùng với các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên.

1.1.2 Vị trí của gia đình trong xã hội

Gia đình là tế bào của xã hội

Gia đình đóng vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của xã hội Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng nhân tố quyết định trong lịch sử là sản xuất và tái sản xuất đời sống Sự sản xuất này bao gồm hai loại: sản xuất tư liệu sinh hoạt và sản xuất con người, tức là sự truyền nòi giống Các trật tự xã hội được hình thành từ mức độ phát triển của lao động và gia đình Gia đình, như một tế bào tự nhiên, là đơn vị cơ sở tạo nên xã hội Nếu không có gia đình để tái tạo con người, xã hội sẽ không thể tồn tại Do đó, để xây dựng một xã hội phát triển lành mạnh, cần chú trọng vào việc xây dựng gia đình tốt, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Hạt nhân của xã hội chính là gia đình.”

Mức độ tác động của gia đình đối với xã hội chịu ảnh hưởng bởi bản chất của từng chế độ xã hội, cùng với đường lối và chính sách của giai cấp cầm quyền.

3 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H 1995, tập 21, tr 44.

Mô hình và cấu trúc của mỗi hình gia đình trong lịch sử có ảnh hưởng lớn đến vai trò của gia đình trong xã hội Sự tác động này không giống nhau qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt trong các xã hội có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nơi mà bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và gia đình đã hạn chế ảnh hưởng của gia đình Chỉ khi con người sống trong hòa thuận và yên ấm, họ mới có thể tập trung lao động, sáng tạo và đóng góp cho xã hội Do đó, việc xây dựng quan hệ xã hội và gia đình bình đẳng, hạnh phúc là rất quan trọng trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời mỗi cá nhân, bắt đầu từ khi còn trong bụng mẹ cho đến suốt cuộc sống Đây là môi trường lý tưởng để con người được yêu thương, nuôi dưỡng và phát triển Sự ổn định và hạnh phúc trong gia đình là yếu tố then chốt cho sự hình thành nhân cách, thể lực và trí lực, giúp mỗi cá nhân trở thành công dân tốt cho xã hội Chỉ trong không khí ấm áp của gia đình, con người mới cảm thấy bình yên và có động lực để phấn đấu trở thành những thành viên có ích cho xã hội.

Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội

Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân Trong gia đình, mối quan hệ tình cảm giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, cũng như tình anh em, thể hiện sự gắn bó sâu sắc và thiêng liêng mà không một cộng đồng nào khác có thể thay thế.

Mỗi cá nhân không chỉ sống trong mối quan hệ gia đình mà còn có nhu cầu kết nối xã hội với những người khác Họ vừa là thành viên của gia đình, vừa là phần của xã hội rộng lớn hơn Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng phản ánh mối quan hệ xã hội, cho thấy rằng không có cá nhân nào tồn tại tách biệt khỏi gia đình hay xã hội Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu giao tiếp và quan hệ xã hội của mỗi cá nhân, đồng thời là môi trường đầu tiên giúp họ học hỏi và thực hiện các mối quan hệ xã hội.

Gia đình không chỉ là một đơn vị xã hội mà còn là một môi trường mà xã hội tác động đến cá nhân, ảnh hưởng đến sự phát triển tư tưởng, đạo đức và nhân cách Qua lăng kính gia đình, xã hội có thể hiểu rõ hơn về mỗi cá nhân và các mối quan hệ xã hội của họ Các vấn đề quản lý xã hội thường phải thông qua gia đình để tác động đến cá nhân, nơi mà nghĩa vụ và quyền lợi được thực hiện với sự hợp tác của các thành viên Do đó, việc xây dựng và củng cố gia đình luôn được các giai cấp cầm quyền coi trọng Đặc điểm của gia đình thay đổi theo từng chế độ xã hội; trong xã hội phong kiến, có những quy định khắt khe đối với phụ nữ nhằm duy trì chế độ bóc lột Ngược lại, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mục tiêu là tạo ra sự bình đẳng và giải phóng phụ nữ, với quan điểm rằng việc giải phóng phụ nữ là điều kiện cần thiết để xây dựng xã hội chủ nghĩa toàn diện Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ đạt được một nửa, phản ánh rõ nét sự khác biệt trong mối quan hệ gia đình trong chế độ xã hội này.

1.1.3 Chức năng cơ bản của gia đình

Chức năng tái sản xuất con người là đặc thù của gia đình, không thể bị thay thế bởi bất kỳ cộng đồng nào Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm lý và sinh lý tự nhiên của con người, mà còn duy trì nòi giống, cung cấp sức lao động và bảo đảm sự tồn tại của xã hội Mặc dù việc thực hiện chức năng này diễn ra trong từng gia đình, nhưng nó còn là vấn đề xã hội quan trọng, ảnh hưởng đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của quốc gia Chức năng tái sản xuất con người gắn liền với sự phát triển toàn diện của đời sống xã hội, và tùy thuộc vào nhu cầu của từng địa phương.

Hồ Chí Minh, trong Toàn tập (Nxb CTQG, H 2011, t p.9, tr.531), nhấn mạnh rằng sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng nguồn lực lao động mà các gia đình cung cấp Điều này cho thấy xu hướng hạn chế hay khuyến khích trong việc phát triển nguồn lực lao động phụ thuộc vào trình độ phát triển của từng lĩnh vực.

Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục

Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

1.2.1 Cơ sở kinh tế - xã hội

Trong chế độ cộng sản chủ nghĩa, xã hội không có giai cấp và sự bóc lột, với tư liệu sản xuất thuộc về chung toàn xã hội Mọi người sống hòa thuận, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, loại bỏ tư hữu và lợi ích cá nhân Trong xã hội này, trách nhiệm chăm sóc con cái và công việc gia đình không chỉ thuộc về phụ nữ mà là nhiệm vụ chung của tất cả thành viên, hướng tới sự công bằng giữa nam và nữ.

Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm sự phát triển của lực lượng sản xuất và thiết lập quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa Quan hệ sản xuất này nhằm xác lập vị trí thống trị về kinh tế đối với nhân dân lao động Để thành công trong việc xây dựng gia đình trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cần xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất V.I Lênin đã nhấn mạnh rằng việc thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, công xưởng và nhà máy là bước thiết yếu để giải phóng hoàn toàn phụ nữ và thay thế nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã hội hóa quy mô lớn.

Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất giúp loại bỏ sự thống trị của nam giới trong gia đình và giảm bất bình đẳng giới, đồng thời giải phóng phụ nữ khỏi tình trạng nô dịch Điều này cũng tạo điều kiện để lao động tư nhân trong gia đình trở thành lao động xã hội, với sự đóng góp của phụ nữ cho sự phát triển của xã hội Hơn nữa, việc này khuyến khích hôn nhân dựa trên tình yêu thay vì lý do kinh tế hay địa vị xã hội.

1.2.2 Cơ sở chính trị - xã hội

Cơ sở xây dựng gia đình phụ thuộc nhiều vào điều kiện chính trị - xã hội Trong xã hội phong kiến, với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, vai trò của phụ nữ bị xem nhẹ, đàn ông có quyền có nhiều vợ Phụ nữ phải tuân theo “tam tòng, tứ đức” và thường bị xã hội khinh miệt nếu vi phạm Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng và thiếu vững chắc trong gia đình Hệ thống chính sách và pháp luật chưa hoàn thiện sẽ hạn chế việc xây dựng gia đình hạnh phúc.

6 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.1977, tập42, tr.464.

Cơ sở chính trị cho việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, với sự bình đẳng giữa nam và nữ Nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quan trọng trong việc xóa bỏ các luật lệ lạc hậu, giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình Hệ thống pháp luật, đặc biệt là Luật Hôn nhân và Gia đình, cùng với các chính sách xã hội, đảm bảo quyền lợi của công dân và các thành viên trong gia đình, thúc đẩy bình đẳng giới, chính sách dân số, việc làm, y tế và bảo hiểm xã hội Những chính sách này không chỉ định hướng mà còn thúc đẩy sự hình thành gia đình mới trong quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đời sống văn hóa và tinh thần của xã hội đang trải qua những biến đổi sâu sắc, với các giá trị văn hóa mới được hình thành dựa trên hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân Những yếu tố văn hóa lạc hậu từ xã hội cũ dần bị loại bỏ, nhường chỗ cho sự phát triển của hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, nâng cao trình độ dân trí và kiến thức của cộng đồng Việc xây dựng nền tảng văn hóa vững chắc, gắn liền với cơ sở kinh tế và chính trị, là điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự hiệu quả trong việc xây dựng gia đình.

1.2.4 Chế độ hôn nhân tiến bộ

Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân dựa trên tình yêu giữa nam và nữ, phản ánh quan điểm của Ph.Ăngghen rằng tình yêu nam nữ chỉ thực sự trở thành quy tắc trong các mối quan hệ khi xuất phát từ các giai cấp bị áp bức, đặc biệt là giai cấp vô sản Hôn nhân xuất phát từ tình yêu dẫn đến sự tự nguyện, đánh dấu một bước phát triển tự nhiên trong mối quan hệ giữa nam và nữ.

Trong tác phẩm "Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước," Ph Ăngghen nhấn mạnh rằng nghĩa vụ của vợ chồng là yêu thương nhau, và vì vậy, những người yêu nhau cũng có trách nhiệm kết hôn và không được kết hôn với người khác.

Hôn nhân tự nguyện đảm bảo quyền tự do lựa chọn bạn đời cho nam nữ, không bị áp đặt bởi cha mẹ Tuy nhiên, sự quan tâm và hướng dẫn của cha mẹ vẫn cần thiết để con cái có nhận thức đúng đắn về hôn nhân Hôn nhân tiến bộ cũng bao gồm quyền ly hôn khi tình yêu không còn, nhưng không khuyến khích ly hôn do những hậu quả tiêu cực mà nó gây ra cho xã hội và đặc biệt là cho con cái Do đó, cần phải ngăn chặn những quyết định ly hôn nông nổi và việc lợi dụng quyền ly hôn vì lý do ích kỷ.

Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

Tình yêu vốn dĩ không thể chia sẻ, vì vậy hôn nhân một vợ một chồng là kết quả tự nhiên của tình yêu Hôn nhân monogamy không chỉ đảm bảo hạnh phúc gia đình mà còn phù hợp với quy luật tự nhiên, tâm lý và đạo đức của con người.

Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người, bắt nguồn từ sự thắng lợi của chế độ tư hữu Tuy nhiên, trong các xã hội trước đây, chế độ này chủ yếu áp dụng cho phụ nữ, với mục đích chuyển giao tài sản của người đàn ông cho con cái của họ Chỉ khi tiến tới xã hội chủ nghĩa, hôn nhân mới thực sự được hình thành trên cơ sở tình yêu, tự do và tự nguyện giữa hai bên Ph.Ăngghen khẳng định rằng trong giai cấp vô sản, gia đình không còn tính toán về lợi ích, mà xây dựng trên nền tảng tình cảm chân thành.

8 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H 1995, tập 21, tr.125.

Theo C Mác và Ph Ăngghen, hôn nhân của người vô sản được hiểu là hôn nhân một vợ một chồng theo nghĩa nguyên thủy, không phải theo nghĩa lịch sử của thuật ngữ này.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ hôn nhân một vợ một chồng không chỉ giải phóng phụ nữ mà còn thúc đẩy sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng Cả hai đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong mọi khía cạnh của cuộc sống gia đình, tạo nền tảng cho sự bình đẳng trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, cũng như giữa anh chị em Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình là điều khó tránh khỏi do sự khác biệt về tuổi tác, nhu cầu và sở thích Vì vậy, việc giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là một vấn đề quan trọng cần được mọi người chú ý và chia sẻ.

Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý

Quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ là vấn đề riêng tư mà còn là mối quan hệ xã hội cần sự thừa nhận của xã hội thông qua thủ tục pháp lý Khi hai người quyết định kết hôn, họ đã đưa mối quan hệ cá nhân vào lĩnh vực xã hội, thể hiện sự tôn trọng và trách nhiệm đối với nhau cũng như với gia đình và xã hội Thủ tục pháp lý trong hôn nhân không chỉ bảo vệ hạnh phúc cá nhân và gia đình mà còn ngăn chặn việc lạm dụng quyền tự do kết hôn và ly hôn Điều này đảm bảo rằng quyền tự do kết hôn và ly hôn được thực hiện một cách hợp pháp và có trách nhiệm.

10 Ph.Ăngghen, Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước, ph.4, chương II, tr.65

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới

Giới là khái niệm chỉ vai trò xã hội và hành vi của nam và nữ, cùng với những kỳ vọng liên quan đến họ trong một bối cảnh xã hội nhất định Nó phản ánh mối quan hệ giữa vị trí của nam và nữ, cũng như các yếu tố xã hội quyết định hành vi của họ Khác với giới tính, chỉ sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ, giới đề cập đến các điều kiện xã hội Bình đẳng, trong nhiều ngữ cảnh, chỉ sự ngang bằng về cơ hội, thành quả, và quyền lợi giữa nam và nữ, nhấn mạnh quyền được bình đẳng trong các lĩnh vực này.

Bình đẳng giới, theo Khoản 3, Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006, được định nghĩa là sự ngang bằng giữa nam và nữ trong vai trò và vị trí, tạo điều kiện cho cả hai giới phát huy năng lực của mình Điều này không chỉ góp phần vào sự phát triển của cộng đồng và gia đình mà còn đảm bảo rằng cả nam và nữ đều được hưởng lợi từ những thành quả của sự phát triển đó.

Bình đẳng giới trong gia đình có vai trò quan trọng trong xã hội hiện đại, nơi mà mỗi thành viên, dù là vợ hay chồng, con trai hay con gái, đều có trách nhiệm chia sẻ công việc nhà Việc cùng nhau đóng góp sức lực và sở thích vào việc chăm sóc gia đình không chỉ tạo ra sự hài hòa mà còn giúp xây dựng một tổ ấm hạnh phúc Mỗi người trong gia đình đều có quyền bày tỏ ý kiến và suy nghĩ, từ đó tạo điều kiện cho cả nam và nữ có cơ hội học tập và lao động như nhau Chính sự bình đẳng này là nền tảng cho sự thịnh vượng và ấm no trong gia đình.

Bình đẳng giới trong gia đình là yếu tố quan trọng giúp nuôi dạy trẻ em trở thành những người có đạo đức và tri thức Một gia đình đảm bảo bình đẳng giữa các thành viên sẽ tạo ra môi trường tốt cho sự phát triển, nơi mọi người được chăm sóc sức khỏe, tinh thần, và có quyền nghỉ ngơi, vui chơi Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, bình đẳng giới càng trở nên cần thiết để mọi người được đối xử công bằng và giáo dục về quyền lợi của mình Điều này không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình mà còn góp phần giải phóng phụ nữ, xây dựng gia đình hạnh phúc và tiến bộ.

2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới

Sự phân biệt giới tính, hay bất bình đẳng giới, là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến bình đẳng giới trong xã hội và gia đình "Giới tính" được hiểu là những đặc điểm sinh học của nam và nữ, trong khi "giới" mang tính xã hội và có thể thay đổi Sự phân biệt giới tính tạo ra sự khác biệt về cơ hội, điều kiện và quyền con người giữa nam và nữ, dẫn đến việc tiếp cận và hưởng lợi từ các nguồn lực khác nhau trong xã hội và gia đình Qua lịch sử, phân biệt giới tính đã tồn tại và vẫn là vấn đề chưa được giải quyết triệt để, đặc biệt trong thời kỳ phong kiến, khi nam giới được coi là trụ cột gia đình và có quyền lực, trong khi nữ giới thường chỉ đảm nhiệm công việc nội trợ Tư tưởng này đã ăn sâu vào tiềm thức xã hội, ảnh hưởng đến vai trò và cơ hội của nam và nữ trong cuộc sống.

12 - 13 Nguyễn Thị Hà (2018) Vấn đề bất bình đẳng giới trong gia đình trên báo Phụ nữ Thủ đô, Báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015-2016, tr 26

Phân biệt giới tính trong gia đình và xã hội đã dẫn đến những hạn chế nghiêm trọng về quyền quyết định và tự do tư duy của phụ nữ, khiến họ không thể lựa chọn công việc yêu thích hay tự do bày tỏ ý kiến Trong lĩnh vực lao động, sự bất bình đẳng về thu nhập giữa nam và nữ vẫn tồn tại ở mọi ngành nghề, mặc dù trình độ và kinh nghiệm của hai bên không chênh lệch nhiều Điều này không chỉ làm mất đi sự bình đẳng trong công việc mà còn góp phần hình thành sự đàn áp đối với phụ nữ trong xã hội.

Định kiến giới, bên cạnh sự phân biệt giới tính, là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến bình đẳng giới Định kiến giới được hiểu là những nhận thức và đánh giá thiên lệch về vai trò và năng lực của nam và nữ, phản ánh suy nghĩ của xã hội về khả năng và công việc phù hợp với từng giới Những quan niệm như phụ nữ chỉ nên làm việc nhà và nam giới phải là trụ cột gia đình đã ăn sâu vào tâm trí con người từ thời phong kiến cho đến nay.

Từ xa xưa, xã hội đã đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe cho phụ nữ với yêu cầu phải có “công, dung, ngôn, hạnh”, biết thêu thùa, may vá và giỏi việc nhà để trở thành hình mẫu lý tưởng Đối với nam giới, họ cần tuân thủ “tam cương, ngũ thường” để được tôn trọng và được coi là xứng đáng với kiếp người Những khuôn mẫu và định kiến này đã tạo ra áp lực buộc cả hai giới phải tuân theo, và những ai không đạt tiêu chuẩn sẽ bị xem là thiếu chuẩn mực.

Mặc dù quyền và vai trò của phụ nữ đang ngày càng được công nhận, nhưng định kiến "trọng nam, khinh nữ" vẫn tồn tại, dẫn đến nhiều trường hợp như ép buộc phụ nữ phá thai khi thai nhi không phải là con trai hoặc sinh thêm con dù gia đình đã đông con chỉ vì mong muốn có "con trai nối dõi" Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của phụ nữ mà còn tạo áp lực nặng nề lên vai họ Hệ quả là tình trạng mất cân bằng giới tính trong dân số ngày càng nghiêm trọng, gây khó khăn cho kế hoạch hóa gia đình Trong gia đình, phụ nữ phải vừa làm việc bên ngoài, vừa đảm đương trách nhiệm chăm sóc gia đình và công việc nội trợ, trong khi nam giới chỉ cần tập trung vào công việc của mình Điều này buộc phụ nữ phải nỗ lực gấp đôi hoặc lựa chọn giữa sự nghiệp và gia đình, làm mất đi cơ hội khẳng định vị trí của họ và gia tăng bất bình đẳng giới.

Bạo lực gia đình không chỉ ảnh hưởng đến sự bình đẳng giới mà còn bao gồm nhiều hình thức như bạo lực thể chất, tình dục, tinh thần và kinh tế Xuất phát từ định kiến giới và sự phân biệt giới tính, bạo lực trong gia đình thường nhắm đến phụ nữ và trẻ em Tình trạng này tồn tại cả ở nông thôn lẫn thành phố, cho thấy sự bất bình đẳng giới vẫn diễn ra hàng ngày Phụ nữ thường ít có tiếng nói trong gia đình, phụ thuộc vào chồng và bị kiểm soát về xã hội, tài chính, dẫn đến mất đi quyền tự do và sự tôn trọng trong hôn nhân Hành vi bạo lực gia đình ngày càng gia tăng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý trẻ em, khi chúng lớn lên trong môi trường không an toàn và luôn sống trong nỗi lo sợ.

Giáo dục, địa lý và kinh tế là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến bình đẳng giới Một nền giáo dục tốt và hiện đại giúp con người nâng cao nhận thức về giới tính và tuân thủ pháp luật, từ đó giảm bớt bất bình đẳng Thành phố, với sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp hóa, thường có môi trường học tập và tư duy tân tiến hơn, dẫn đến cải thiện rõ rệt về bình đẳng giới so với nông thôn, nơi còn nhiều hạn chế trong tiếp cận thông tin Bên cạnh đó, kinh tế cũng đóng vai trò quan trọng; những hộ gia đình khó khăn thường thiếu kiến thức và dễ dàng tiếp thu tư tưởng lạc hậu, tạo ra bất bình đẳng giới trong gia đình, trong khi áp lực cuộc sống khiến họ dễ rơi vào hành vi vi phạm pháp luật.

Bình đẳng giới chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, nhưng nhóm tác giả đã chọn ra những yếu tố chính yếu nhất Sự ra đời của bình đẳng giới gắn liền với hàng ngàn phong trào phụ nữ và cuộc đấu tranh cho quyền lợi bình đẳng Những yếu tố này không chỉ là nguyên nhân dẫn đến các cuộc đấu tranh hiện tại mà còn là động lực cho các nỗ lực tiếp theo nhằm xóa bỏ hoàn toàn sự phân biệt giới tính.

Thực trạng xây dựng, phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Hồ Chí Minh hiện nay

Thực trạng bình đẳng giới hiện nay trong gia đình của Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng

Mặc dù kinh tế địa phương đang phát triển, nhưng tư tưởng Nho giáo vẫn ảnh hưởng nặng nề đến xã hội, gây ra nhiều thách thức trong việc thực hiện bình đẳng giới Đặc biệt, định kiến giới vẫn phổ biến trong cộng đồng, với nhiều hộ gia đình còn duy trì tư tưởng gia trưởng và trọng nam, khinh nữ.

Áp lực sinh con trai nối dõi trong gia đình là một vấn đề lâu đời trong xã hội Việt Nam Mặc dù hiện nay đã có sự tiếp cận với tư tưởng bình đẳng giới, nhưng trong nhiều gia đình, áp lực này vẫn tồn tại từ phía bố mẹ chồng và người chồng Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của phụ nữ, tạo ra những khó khăn và thách thức trong việc duy trì nòi giống.

Trong gia đình hiện đại, sự phân công lao động giữa vợ và chồng vẫn còn nhiều bất bình đẳng, khi phụ nữ thường gánh vác nhiều công việc hơn nam giới Điều này đặc biệt rõ ràng trong các gia đình nông thôn, nơi mà mọi nhiệm vụ như nấu nướng, giặt giũ và chăm sóc con cái chủ yếu do phụ nữ đảm nhận Bên cạnh đó, một số gia đình vẫn duy trì tư tưởng gia trưởng, áp đặt các quy tắc và hạn chế quyền thể hiện ý kiến của các thành viên, điều này không còn phù hợp trong xã hội ngày nay.

Trong nhiều gia đình, quan niệm truyền thống cho rằng người đàn ông là trụ cột kinh tế vẫn tồn tại, dẫn đến việc người vợ nội trợ thường bị xem là ăn bám và không có tiếng nói Tuy nhiên, thực tế có nhiều phụ nữ phải tự mình gánh vác kinh tế và lo toan cho cuộc sống gia đình Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến vai trò của mỗi thành viên mà còn góp phần tạo ra sự bất bình đẳng trong gia đình.

Thứ tư, vấn đề duy trì hạnh phúc và ngăn chặn bạo lực gia đình ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh nhiều cặp vợ chồng trẻ hiện nay sống tự lập Môi trường độc lập mang lại sự thoải mái nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho phụ nữ, đặc biệt là trong việc duy trì hạnh phúc gia đình Thực tế cho thấy, tỷ lệ ly hôn ở các gia đình trẻ đang gia tăng, và một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ly hôn chính là bạo lực gia đình.

Việc yêu cầu quyền “bình đẳng tuyệt đối” giữa nam và nữ là không khả thi do sự khác biệt tự nhiên của hai giới Tuy nhiên, cần nỗ lực thu hẹp khoảng cách giới, đặc biệt trong quyền cá nhân Phụ nữ thường đối mặt với nhiều rào cản, ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống Một ví dụ là sự khác biệt về tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ theo Bộ luật Lao động, với nam được nghỉ hưu ở tuổi 62 và nữ ở tuổi 60 Mặc dù có sự thay đổi này, phụ nữ vẫn có thời gian làm việc ngắn hơn và ít cơ hội thăng tiến hơn so với nam giới Thiên chức làm mẹ cũng tạo ra nhiều thách thức cho phụ nữ trong việc cân bằng giữa công việc và gia đình, ảnh hưởng đến sức khỏe và quỹ thời gian của họ.

Trong nhiều gia đình Việt Nam, quan niệm “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” đã hình thành từ lâu, với đàn ông là trụ cột và phụ nữ giữ vai trò chăm sóc gia đình Sự kỳ vọng này khiến nhiều phụ nữ cảm thấy cần phải hy sinh để hỗ trợ chồng phát triển sự nghiệp, từ đó tạo ra những rào cản vô hình ngăn cản họ đạt được sự bình đẳng, tự tin và phát triển tài năng cá nhân.

Tính đến tháng 6 năm 2019, chỉ có 8 chỉ tiêu thống kê trong các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới đạt hoặc vượt yêu cầu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020.

Mặc dù phụ nữ đã được trao quyền tham gia vào các hoạt động chính trị, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế ở cấp địa phương Cụ thể, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy trong nhiệm kỳ 2015-2020 chỉ đạt 19,69% ở cấp xã, 14,3% ở cấp huyện và 13,3% ở cấp tỉnh.

Trong Quốc hội khóa XIV, tỷ lệ nữ đại biểu đạt 27,01% với 131 người, nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 Chỉ 13,7% nữ đại biểu giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt, chủ yếu trong các cơ quan văn hóa - xã hội, trong khi các lĩnh vực kinh tế, đối ngoại, tài chính, và pháp luật thiếu vắng phụ nữ Tỷ lệ nữ tham gia đại biểu HĐND cấp xã là 26,59%, cấp huyện 27,85%, và cấp tỉnh 26,54%; nhiều tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ lãnh đạo cấp xã dưới 5%, đặc biệt là ở phía Bắc Hơn nữa, tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số trong các vị trí lãnh đạo còn thấp, trong khi tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn cao.

Sự bất bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế thể hiện rõ ở thị trường lao động và thu nhập, khi phụ nữ vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các công việc có thu nhập cao và nguồn lực kinh tế Nhiều doanh nghiệp ngần ngại tuyển dụng lao động nữ trẻ do lo ngại về thời gian nghỉ thai sản kéo dài 6 tháng.

Theo thống kê, nam giới hiện chiếm ưu thế trong việc kiểm soát đất đai và tài sản giá trị cao, với hầu hết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên nam chủ hộ Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật liên quan đến bình đẳng giới vẫn chưa được ban hành kịp thời Việc lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật chưa đạt hiệu quả cao.

Việt Nam cam kết tăng cường nhận thức về bình đẳng giới và thay đổi những định kiến xã hội liên quan đến giới Đất nước sẽ thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới, đặc biệt tập trung vào các nhóm yếu thế và các lĩnh vực chiến lược như giáo dục, y tế và việc làm.

Bình đẳng giới tại thành phố Hồ Chí Minh đang có sự ổn định nhờ vào sự phát triển và tiến bộ tư tưởng Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất bình đẳng giới do sự đa dạng dân cư từ khắp nơi trong cả nước.

Hiện thực bình đẳng giới ở thành phố Hồ Chí Minh từ 2015-2020

Công tác bình đẳng giới (BĐG) hiện đang được triển khai ở 8 lĩnh vực, tuy nhiên, nghiên cứu về giới vẫn chưa được áp dụng nhiều trong việc xây dựng chính sách Định kiến giới vẫn còn tồn tại, dẫn đến sự phân biệt giữa nam và nữ cũng như sự phân hóa kinh tế - xã hội giữa thành phố và nông thôn Đặc biệt, thành phố Hồ Chí Minh, với quy mô đô thị lớn và dân số đông đảo, cần chú trọng hơn đến vấn đề này để thúc đẩy sự bình đẳng giới hiệu quả.

Bảng 2.2.1: Dân số Việt Nam theo giới tính từ 2015-2020 (nghìn người)

Ngày đăng: 11/03/2022, 21:45

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.2.1: Dân số Việt Nam theo giới tính từ 2015-2020 (nghìn người) - ĐỀ TÀI VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Bảng 2.2.1 Dân số Việt Nam theo giới tính từ 2015-2020 (nghìn người) (Trang 25)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w