Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện sản xuất xanh và sạch, doanh nghiệp cần đầu tư một khoản kinh phí đáng kể cho việc xử lý chất thải trong quá trình sản xuất Trong những năm gần đây, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã lơ là công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng.
Bảo vệ môi trường không đồng nghĩa với việc giảm lợi nhuận doanh nghiệp hoặc tăng giá thành sản phẩm Thực tế, hai lĩnh vực này có thể hỗ trợ lẫn nhau Tại các nước phát triển, sản phẩm đạt chứng nhận môi trường ISO 14000, dù có giá cao hơn, vẫn được người tiêu dùng ưa chuộng nhờ ý thức cao về bảo vệ môi trường.
Mặc dù lợi nhuận là mục tiêu chính của doanh nghiệp, nhưng việc đầu tư vào các vấn đề môi trường là cần thiết để phát triển bền vững Doanh nghiệp cần đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường, đặc biệt trong ngành dệt may, nhằm giải quyết các áp lực môi trường hiện nay Nhóm 11 chúng em đã chọn đề tài “Phân tích thực trạng áp dụng quy định về môi trường của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may tại Việt Nam” để làm rõ quy định, thực trạng và đưa ra giải pháp cho các vấn đề môi trường trong ngành này.
Mục đích nghiên cứu
Dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm và nền tảng nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, bài viết này phân tích thực trạng áp dụng quy định về môi trường của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may tại Việt Nam Chúng tôi sử dụng nguồn dữ liệu từ các thông tin thứ cấp đáng tin cậy để đặt ra mục tiêu nghiên cứu cụ thể.
Hệ thống hóa các quy định môi trường trong ngành dệt may Việt Nam là cần thiết để hiểu rõ hơn về các tiêu chuẩn quốc tế và chính sách môi trường hiện hành Các quy định này không chỉ đảm bảo sự tuân thủ mà còn đánh giá tác động của chúng đối với ngành dệt may, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực này Việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế sẽ giúp cải thiện chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường, đồng thời nâng cao uy tín của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Ngành dệt may Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển Tuy nhiên, sự tăng trưởng này đi kèm với những thách thức về môi trường, bao gồm ô nhiễm nước và khí thải từ các nhà máy So với các quốc gia khác, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần cải thiện quy trình sản xuất bền vững hơn để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường Việc áp dụng công nghệ xanh và các biện pháp quản lý chất thải là cần thiết nhằm hướng tới một ngành dệt may thân thiện với môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế.
Ngành dệt may Việt Nam cần được đánh giá và trình bày rõ ràng để xác định định hướng phát triển bền vững Để thúc đẩy hoạt động bảo vệ môi trường, các giải pháp từ phía nhà nước và doanh nghiệp là rất cần thiết Việc áp dụng các biện pháp thân thiện với môi trường không chỉ giúp cải thiện hình ảnh của ngành mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững.
Kết cấu bài tiểu luận
Bài tiểu luận bao gồm 03 chương:
Chương 1: Các quy định về môi trường trong ngành dệt may Việt Nam
Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định về môi trường của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hoạt động môi trường tại các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
CÁC QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
Tiêu chuẩn quốc tế được áp dụng trong ngành dệt may
ISO, viết tắt của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá, được thành lập vào năm 1946 và chính thức hoạt động từ ngày 23/2/1947 Tổ chức này có mục đích xây dựng các tiêu chuẩn liên quan đến sản xuất, thương mại và thông tin Với trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ, ISO là tổ chức quốc tế chuyên ngành với 111 thành viên là các cơ quan tiêu chuẩn quốc gia.
Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 bao gồm nhiều tiêu chuẩn khác nhau, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và tổ chức trong việc quản lý môi trường hiệu quả Các tiêu chuẩn này giúp cải thiện hiệu suất môi trường và thể hiện cam kết của tổ chức đối với sự bền vững.
14000 đều được xây dựng và ban hành bởi Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO).
Kể từ lần đầu tiên ra mắt vào năm 1996, bộ tiêu chuẩn ISO 14000 đã trải qua nhiều lần cải tiến và cập nhật để phù hợp với bối cảnh môi trường hiện tại Đến nay, bộ tiêu chuẩn này đã được phát triển với các tiêu chuẩn chính.
- ISO 14001: Hệ thống quản lý môi trường ISO 14001 - Các yêu cầu và hướng dẫn sử dụng.
- ISO 14004: Hướng dẫn chung các nguyên tắc, hệ thống và các kỹ thuật hỗ trợ.
- ISO 14010: Hướng dẫn đánh giá môi trường - Các nguyên tắc chung.
- ISO 14011: Hướng dẫn đánh giá môi trường - Thủ tục đánh giá - Đánh giá hệ thống quản lý môi trường.
- ISO 14012: Hướng dẫn kiểm toán môi trường - Tiêu chuẩn năng lực đối với kiểm toán viên môi trường.
- ISO 14020 - 14025: Nhãn mác & phát minh môi trường.
- ISO 14031: Đánh giá các hoạt động môi trường.
- ISO 14040 - 14048: Đánh giá vòng đời của sản phẩm - Nguyên tắc cùng khuôn khổ.
- ISO 14050: Từ vựng về quản lý môi trường.
- ISO 14061: Thông tin hướng dẫn tổ chức lâm nghiệp sử dụng tiêu chuẩn ISO 14001 & ISO 14004.
ISO Guide 64 cung cấp hướng dẫn về việc tích hợp các yếu tố môi trường vào tiêu chuẩn sản phẩm Các tiêu chuẩn trong hệ thống ISO 14000 yêu cầu doanh nghiệp phải đạt được những mục tiêu cốt lõi liên quan đến bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
- Xác định những yêu cầu về mặt pháp luật liên quan đến môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xác định những lĩnh vực và hoạt động liên quan tới môi trường mà doanh nghiệp có khả năng kiểm soát.
- Xác định rủi ro và cơ hội xuất hiện trong các hoạt động môi trường của doanh nghiệp.
- Thiết lập được chính sách môi trường, các mục tiêu cùng phương pháp để đạt được chúng.
- Thiết lập hoạt động giám sát, theo dõi và đánh giá hiệu quả của hệ thống quản lý môi trường (EMS).
Một số lợi ích nổi bật mà ISO 14000 sẽ đem đến cho doanh nghiệp, tổ chức áp dụng nó phải kể đến như:
Giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường bằng cách hạn chế tối đa chất thải công nghiệp và phân bổ nguồn tài nguyên một cách hợp lý hơn là rất quan trọng.
- Giúp tiết kiệm chi phí nguyên liệu đầu vào, chi phí hạch toán môi trường Từ đó góp phần tối ưu chi phí hoạt động chung cho doanh nghiệp.
- Được sử dụng như một công cụ marketing hiệu quả để gia tăng uy tín cùng hình ảnh tốt đẹp của doanh nghiệp.
Giảm thiểu rủi ro và áp lực liên quan đến quy định và chế tài về môi trường trong quá trình cung ứng sản phẩm và dịch vụ trên thị trường là điều cần thiết.
Đóng góp vào các hoạt động bảo vệ môi trường là một phần quan trọng trong việc xây dựng một tương lai phát triển bền vững, không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn cho toàn xã hội.
- Tăng cường hiệu quả của hoạt động quản lý môi trường.
- Có thể tương thích và kết hợp với các hệ thống quản lý ISO khác để nâng cao hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp.
Chứng nhận ISO 14001 là một lợi thế quan trọng cho doanh nghiệp, giúp họ tiếp cận thị trường quốc tế bằng cách đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt.
Các cam kết về môi trường bắt buộc thực hiện trong CPTPP và EVFTA
Cam kết bảo vệ môi trường được quy định rõ ràng trong Điều 20.3.(3) CPTPP và Điều 13.2.2, yêu cầu mỗi bên nỗ lực thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường và khuyến khích việc nâng cao mức độ bảo vệ môi trường Đây là một cam kết bắt buộc, đồng thời cho phép các bên tự thiết lập chính sách và thực thi quy định liên quan đến bảo vệ môi trường.
Khoản 20.5.1 của CPTPP yêu cầu các bên kiểm soát sản xuất, tiêu thụ và mua bán các chất gây suy giảm hoặc biến đổi tầng ôzôn Đồng thời, EVFTA cũng yêu cầu thực hiện các điều ước đa phương liên quan đến biến đổi khí hậu như UNFCCC và Hiệp định Paris Các bên cần hợp tác tích cực để thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải và thích ứng với khí hậu, phù hợp với mục tiêu của Hiệp định Paris.
- Bảo vệ môi trường khỏi ô nhiễm từ tàu biển.
Bảo vệ đa dạng sinh học là yêu cầu quan trọng trong hai Hiệp định, với mục tiêu thúc đẩy và khuyến khích việc bảo tồn cũng như sử dụng bền vững tài nguyên sinh học Mỗi bên tham gia cam kết công khai các chương trình và hành động, bao gồm cả những sáng kiến hợp tác nhằm nâng cao hiệu quả trong việc bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học.
Chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải và mau phục hồi theo cam kết CPTPP là yêu cầu hợp tác bắt buộc, tạo ra cả thách thức lẫn cơ hội cho Việt Nam Việc thực hiện chuyển đổi này đòi hỏi sự đồng bộ trong nhiều lĩnh vực như sử dụng hiệu quả năng lượng, phát triển công nghệ sạch và tái tạo, giao thông bền vững, và giám sát chất thải Mặc dù còn nhiều hạn chế trong công tác pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước, Hiệp định CPTPP mở ra cơ hội hợp tác và hỗ trợ để xây dựng nền kinh tế phát thải thấp, giúp Việt Nam phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
Cơ chế tự nguyện đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường, khuyến khích các bên liên quan như cơ quan, doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ tham gia xây dựng tiêu chí đánh giá hoạt động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên Mặc dù là nội dung bắt buộc, nhưng cơ chế này chủ yếu dựa vào sự linh hoạt và tự nguyện của các bên trong việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường.
Các quy tắc xuất xứ bắt buộc trong CPTPP và EVFTA
Quy tắc xuất xứ là những quy định quan trọng giúp xác định tính hợp lệ của hàng hóa nhập khẩu, từ đó đảm bảo hàng hóa này đủ điều kiện nhận mức thuế ưu đãi khi xuất xứ từ các quốc gia thành viên.
EVFTA quy định rằng để một sản phẩm may mặc được coi là có xuất xứ theo hiệp định này, vải phải được dệt, hoàn thiện và cắt, may tại Việt Nam, tức là tuân thủ quy tắc xuất xứ từ vải trở đi hay quy tắc 2 công đoạn.
Các chính sách về môi trường của Việt Nam liên quan đến ngành dệt may
Việc áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật quốc tế vào thực tiễn tại Việt Nam đã dẫn đến việc ban hành các chính sách môi trường chặt chẽ trong ngành sản xuất công nghiệp dệt may.
1.2.1 Chính sách về việc sử dụng năng lượng hiệu quả a) Các hoạt động sản xuất trong các cơ sở công nghiệp dệt may phải tuân thủ các quy định về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo quy định tại Quyết định 280/QĐ-TTg
Vào ngày 13 tháng 3 năm 2019, Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 - 2030 đã được phê duyệt, cùng với Quyết định số 2053/QD-TTg ban hành ngày 28 tháng 10 năm 2016, nhằm thực hiện Thoả thuận Paris về Biến đổi khí hậu Mục tiêu cụ thể của chương trình là giảm lượng tiêu thụ năng lượng bình quân trong ngành công nghiệp dệt may Việt Nam xuống 5% vào năm tới.
Đến năm 2025, tỷ lệ giảm khí nhà kính dự kiến đạt 6,8% vào năm 2030 Các doanh nghiệp dệt may công nghiệp có trách nhiệm cung cấp số liệu hoạt động và thông tin liên quan để phục vụ cho việc kiểm kê khí nhà kính Việc này phải tuân theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, theo quy định tại Quyết định 2359/QD-TTg ngày 22/12/2015, phê duyệt Hệ thống quốc gia về kiểm kê khí nhà kính.
1.2.2 Chính sách về việc xử lý nước thải
Theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia QCVN 13:2008/BTNMT về nước thải công nghiệp dệt may, các cơ sở trong khu kinh tế, khu công nghiệp và cụm công nghiệp cần có hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Các cơ sở cần thiết lập hệ thống thu gom nước mưa và nước thải, đồng thời thực hiện kết nối với hệ thống thoát nước mưa cũng như hệ thống thu gom và xử lý nước thải của khu kinh tế, khu công nghiệp hoặc cụm công nghiệp.
Trong trường hợp cơ sở phát sinh nước thải vượt quá khả năng xử lý của hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung, nếu cơ sở có biện pháp xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường, sẽ được miễn trừ đấu nối Đối với các cơ sở nằm trong khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, cũng như các cơ sở nằm ngoài khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, cần xem xét các giải pháp xử lý nước thải phù hợp để đảm bảo tiêu chuẩn môi trường.
Đầu tư vào hệ thống thu gom và xử lý nước thải là cần thiết để đảm bảo rằng nước thải từ các cơ sở đạt tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường trước khi thải ra môi trường Việc tự xử lý nước thải trong hệ thống xử lý cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng nước.
Các cơ sở có mức nước xả thải từ 5 m3/ngày đêm trở lên cần xin phép xả thải vào nguồn nước Đồng thời, họ phải duy trì nhật ký vận hành hệ thống xử lý nước thải trong ít nhất 2 năm, ghi chép đầy đủ lưu lượng, thông số vận hành, kết quả quan trắc nước thải đầu vào và đầu ra (nếu có), loại và lượng hóa chất sử dụng, cũng như lượng bùn thải phát sinh, theo quy định tại Nghị định 201/2013/NĐ-CP.
Cơ sở có lưu lượng nước thải lớn hơn 1.000 m3/ngày.đêm phải tuân thủ các quy định tại Khoản 2 Điều 18 Thông tư số 31/2016/TT-BTNMT, bao gồm việc giám sát và quan trắc tự động, liên tục nước thải đầu ra Các thông số cần theo dõi bao gồm lưu lượng nước thải đầu vào và đầu ra, pH, nhiệt độ, nhu cầu ôxy hóa học (COD), tổng chất rắn lơ lửng (TSS) và các thông số đặc trưng khác theo loại hình.
+) Có công tơ điện tử đo điện độc lập của hệ thống xử lý nước thải, lượng điện tiêu thụ phải được ghi vào nhật ký vận hành
Để đảm bảo hiệu quả trong việc xử lý nước thải, cần có kế hoạch cụ thể, hạ tầng phù hợp và các phương tiện, thiết bị sẵn sàng để ứng phó kịp thời với sự cố có thể xảy ra trong hệ thống thu gom và xử lý nước thải.
+) Có điểm kiểm tra, giám sát xả nước thải vào hệ thống tiêu thoát nước đặt ngoài hàng rào, có lối đi thuận lợi và có biển báo
- Các tiêu chuẩn kỹ thuật về đánh giá mức độ ô nhiễm của chất thải nước được tham khảo theo quy chuẩn QCVN 13 : 2008/BTNMT
- Kê khai và nộp phí bảo vệ môi trường đối.
1.2.3 Chính sách về việc quản lý và sử dụng hoá chất a) Các cơ sở công nghiệp dệt may phải đảm bảo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nhà xưởng, máy móc và quá trình bảo quản hoá chất theo Nghị định số 113/2017/ND-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hoá Chất:
Nhà xưởng và kho chứa cần phải được trang bị lối thoát hiểm và cửa thoát hiểm Các lối thoát hiểm cần được đánh dấu rõ ràng bằng bảng hiệu và đèn báo, đảm bảo thiết kế thuận tiện cho việc thoát hiểm và cứu hộ trong các tình huống khẩn cấp.
Thiết bị kỹ thuật cần tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn quốc gia và phù hợp với loại hóa chất cũng như quy trình công nghệ, đảm bảo công suất sản xuất và quy mô kinh doanh Các máy móc, thiết bị và vật tư có yêu cầu cao về an toàn lao động và thiết bị đo lường phải được kiểm định, hiệu chuẩn và bảo dưỡng theo quy định hiện hành.
Các hóa chất nguy hiểm cần được phân khu và sắp xếp theo tính chất riêng của từng loại Việc bảo quản chung các hóa chất có khả năng phản ứng lẫn nhau hoặc có yêu cầu an toàn, phòng chống cháy nổ khác nhau trong cùng một khu vực là điều cấm kỵ.
Đánh giá ảnh hưởng của các quy định về môi trường đến hoạt động xuất khẩu
1.3.1 Những lợi ích của hiệp định EVFTA và CPTPP đối với xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam
Theo cam kết của Hiệp định EVFTA, 42,5% dòng thuế hàng dệt may vào EU sẽ giảm về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực, trong khi 47,5% còn lại sẽ giảm dần trong 5-7 năm Các mặt hàng được áp dụng mức thuế 0% ngay lập tức bao gồm đồ lót, áo choàng tắm, quần áo ngủ, đồ bơi, khăn tay, găng tay, quần tất, quần áo trẻ em, và áo blouse hoặc sơ mi dệt kim dành cho nữ hoặc trẻ em gái.
(2020), “Cơ hội lớn từ hiệp định EVFTA”, Báo điện tử chính phủ Việt Nam )
Xóa bỏ thuế quan với phần lớn các mặt hàng dệt may ngay khi hiệp định có hiệu lực
Cắt giảm và xóa bỏ thuế quan theo lộ trình với một số sản phẩm dệt may nhất định (3 - 16 năm tùy sản phẩm, đối tác)
Tuy nhiên, Nhật Bản không cam kết thuế quan - giữ nguyên mức thuế MFN đối với 5 sản phẩm dệt may
( Trung tâm WTO và hội nhập phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (2019), Sổ tay doanh nghiệp - CPTPP và ngành dệt may Việt Nam )
1.3.2 Ảnh hưởng của những cam kết về môi trường của EVFTA và CPTPP
Việc tuân thủ cam kết về môi trường đang gây khó khăn cho ngành xuất khẩu dệt may, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam Các chính sách môi trường đòi hỏi nguồn kinh phí lớn để thay đổi quy trình sản xuất và sử dụng nguyên vật liệu thân thiện với môi trường Điều này càng trở nên thách thức hơn khi các doanh nghiệp cần chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải và nhanh chóng phục hồi.
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƯỜNG CỦA CÁC
Tổng quan về ngành dệt may
2.1.1 Ngành dệt may thế giới
2.1.1.1 Khái quát về sự phát triển và hình thành của ngành dệt may thế giới
Dệt may là một trong những hoạt động lâu đời nhất của con người, bắt nguồn từ thời kỳ nguyên thủy khi con người sử dụng da thú để che thân Khi biết canh tác, họ đã bắt chước thiên nhiên và sử dụng các nguyên liệu từ cỏ cây để tạo ra sản phẩm dệt Theo các nhà khảo cổ, sợi lanh là nguyên liệu dệt may đầu tiên, sau đó sợi len xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà và sợi bông ở ven sông Indus Trong thời kỳ cổ đại, dệt may phụ thuộc vào thổ nhưỡng và kinh tế của từng khu vực: các dân tộc chăn nuôi sử dụng len, trong khi vải lanh phổ biến tại Ai Cập, vải bông tại Ấn Độ và tơ tằm tại Trung Quốc Các nền văn minh như Inca, Maya và Tolteca cũng có những đặc trưng riêng trong ngành dệt may.
Mỹ sử dụng các sợi chuối (abaca) và sợi thùa (sisal) trong sản xuất Theo Kinh Thi của Khổng Tử, tơ tằm được phát hiện vào năm 2640 trước Công nguyên Sau khi vua Phục Hy khuyến khích trồng dâu nuôi tằm, ngành tơ lụa trở nên thịnh vượng và trở thành một trong những hàng hóa đầu tiên được trao đổi giữa Đông và Tây Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc là quốc gia duy nhất sản xuất và xuất khẩu tơ lụa.
Tơ Lụa (Silk Route) không chỉ là con đường thương mại của các nhà buôn mà còn là cầu nối cho sự giao thoa văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo và các cuộc viễn chinh trong lịch sử.
Trước thế kỷ 19, quần áo chủ yếu được tự may tại nhà hoặc đặt theo số đo cá nhân, nhưng sản xuất hàng loạt bắt đầu với đồng phục quân đội ở Anh vào năm 1666 Đến năm 1820, sự phát minh về thước đo đã thúc đẩy việc chuẩn hóa số đo, và chiếc máy may đầu tiên do Elias Howe phát minh vào năm 1846 đã cách mạng hóa ngành công nghiệp dệt may Việc sản xuất quần áo chuyển sang quy trình dây chuyền tại nhà máy, giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời tiết kiệm thời gian mua sắm Sự phát triển của sợi Nylon vào năm 1930 và sợi Polyester vào năm 1940 đã giúp ngành sản xuất quần áo hoạt động với quy mô lớn và thành công hơn.
Sau thế kỷ 20, ngành dệt may đã chuyển mình thành một ngành công nghiệp sản xuất quy mô lớn, với những thay đổi đáng kể từ việc sản xuất trang phục theo số đo cá nhân với chi phí cao đến phục vụ nhu cầu đại chúng với giá thành thấp Các yếu tố như kiểu dáng, mẫu mã, chất liệu và màu sắc liên tục được cải tiến Quy trình sản xuất đã dịch chuyển từ Bắc Mỹ và Tây Âu sang các nước châu Á như Nhật Bản, Hongkong, Đài Loan, Hàn Quốc, và giờ đây là Trung Quốc cùng các nước Nam Á và châu Mỹ Latin Xu hướng cá nhân hóa sản phẩm và rút ngắn thời gian sản xuất đang trở thành yêu cầu thiết yếu trong ngành dệt may Đồng thời, cách thức phân phối truyền thống đang bị đe dọa bởi sự phát triển của thương mại điện tử, khi người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng mua sắm trực tuyến qua các thiết bị điện tử thay vì đến các cửa hàng truyền thống.
Ngành dệt may là một lĩnh vực tiêu dùng thiết yếu, với quy mô toàn ngành đang không ngừng tăng trưởng Hiện nay, tốc độ tăng trưởng của ngành đạt 3,5% mỗi năm, cao hơn mức tăng trưởng của nền kinh tế là 2,5% mỗi năm.
Hình 2.1 Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt, may thế giới
Hình 2.2 Tốc độ tăng trưởng KNXK dệt, may thế giới
Nguồn: VCBS tổng hợp từ WTO
Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu dệt may toàn cầu vẫn tăng nhẹ so với giai đoạn trước dịch (2017-2019) Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm bảo hộ cá nhân như khẩu trang đã thúc đẩy xuất khẩu xơ, sợi đạt 353 tỷ USD, tăng 16,1% so với năm 2019 Tuy nhiên, xuất khẩu hàng may mặc gặp khó khăn hơn, với tổng kim ngạch đạt 448 tỷ USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức giảm 3,59% của GDP toàn cầu.
2.1.1.2 Diễn biến xuất, nhập khẩu của ngành dệt may thế giới
Kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK) tập trung vào 10 khu vực và quốc gia trọng điểm, trong đó Trung Quốc, EU và Ấn Độ là những nhà xuất khẩu lớn nhất, chiếm 65,8% sản lượng và 66,9% giá trị EU và Mỹ là những khu vực nhập khẩu lớn nhất Trong những năm gần đây, xuất khẩu xơ, sợi, vải của Trung Quốc và Việt Nam đã tăng mạnh, đạt 154,1 tỷ USD và 10 tỷ USD, tương ứng với mức tăng 28,9% và 10,7% so với năm 2019 Việt Nam lần đầu tiên vượt Hàn Quốc, trở thành nước xuất khẩu xơ, sợi lớn thứ 6 thế giới Khi các đơn hàng dịch chuyển khỏi Trung Quốc, Việt Nam hưởng lợi, với lượng nhập khẩu xơ sợi đạt 16 tỷ USD để đáp ứng nhu cầu thiết bị bảo vệ cá nhân cho EU và Mỹ, vượt qua Trung Quốc từ năm 2019 Năm 2020, nhờ khả năng chống dịch tốt hơn, Việt Nam nổi bật giữa các nước đang phát triển khác như Bangladesh và Indonesia, vốn chứng kiến sự giảm mạnh trong nhập khẩu xơ, sợi.
Bảng 3.1 Top 10 nước có giá trị xuất khẩu xơ, dệt sợi trên thế giới giai đoạn 2015 - 2020
1 China China China China China China
2 EU EU EU EU EU EU
3 India India India India India India
4 US US US US US Turkey
5 Turkey Turkey Turkey Turkey Turkey US
6 S.Korea South Korea South Korea South Korea South Korea VN
7 Taipei Pakistan Taipei Taiwan VN South Korea
8 Hongkong Taipei Pakistan VN Taiwan Pakistan
9 Pakistan Hongkong Hongkong Pakistan Pakistan Taiwan
10 Japan VN VN Hongkong Hongkong Japan
Nguồn: VCBS tổng hợp từ WTO Mảng may mặc
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu may mặc tập trung vào Top 10 quốc gia có thị phần lớn nhất, nhưng thị phần của nhóm này đã giảm từ 88% năm 2019 xuống còn 71% năm 2020 Giá trị xuất khẩu và nhập khẩu may mặc của Top 10 chỉ đạt khoảng 80% - 87% so với trước dịch (2017-2019) Trung Quốc và EU vẫn giữ vị trí Top 2 trong xuất khẩu hàng may mặc toàn cầu với giá trị lần lượt là 141,6 tỷ USD và 125,3 tỷ USD, chiếm 60% tổng giá trị xuất khẩu Việt Nam lần đầu tiên vượt Bangladesh với 28,6 tỷ USD, đứng thứ 3 thế giới Trong khi đó, Top 3 nước nhập khẩu hàng may mặc là EU, Mỹ và Nhật Bản, chiếm 62% tổng giá trị nhập khẩu toàn cầu, giảm mạnh so với 75% năm 2019, với giá trị nhập khẩu của nhóm này giảm 8-14% do nhu cầu giảm vì Covid-19.
Bảng 3.2 Top 10 nước có giá trị xuất khẩu may mặc trên thế giới giai đoạn 2015 - 2020
1 China China China China China China
2 EU EU EU EU EU EU
Bangladesh Bangladesh Bangladesh Bangladesh VN
4 VN VN VN VN VN Bangladesh
5 Hongkong India India India India Turkey
6 India Hongkong Turkey Turkey Turkey India
7 Turkey Turkey Hongkong Hongkong Hongkong Malaysia
8 Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia UK UK
9 Cambodia Cambodia Cambodia Cambodia Indonesia Hongkong
10 US US US US Cambodia Indonesia
Nguồn: VCBS tổng hợp từ WTO 2.1.2 Ngành dệt may Việt Nam
Việt Nam có một lịch sử dài trong ngành dệt may, với những đặc điểm nổi bật giúp ngành này trở nên khác biệt so với các đối thủ trong khu vực Châu Á (ILO, 2021) Sự ảnh hưởng của thời kỳ thuộc địa Pháp đã tạo ra một truyền thống mạnh mẽ về may đo và đặt may quần áo, thay vì sử dụng quần áo may sẵn như ở nhiều quốc gia khác (Finn, 2019) Trước khi mở cửa kinh tế vào những năm 1990, ngành dệt may chủ yếu gồm các doanh nghiệp nhà nước phục vụ thị trường nội địa và một số ít xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu Tuy nhiên, các hiệp định thương mại tự do với Liên minh Châu Âu năm 1992 và việc bình thường hóa quan hệ thương mại với Hoa Kỳ từ năm 1995 đã làm tăng nhu cầu xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam, với hai thị trường này vẫn giữ vai trò chủ đạo Việt Nam hiện có ba loại hình doanh nghiệp dệt may chủ yếu.
1 Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam ký hợp đồng phụ cho các công ty quốc tế lớn, chủ yếu từ Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Trung Quốc, để nhận đơn đặt hàng từ các thương hiệu quốc tế Doanh nghiệp dệt may có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm ưu thế trong xuất khẩu, mặc dù chỉ chiếm 15% tổng số nhà máy tại Việt Nam, nhưng năm 2017, khu vực này đã đóng góp 62% vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam (WWF, 2018).
2019, tổng số vốn FDI từ nước ngoài rót vào ngành dệt may Việt Nam đạt con số ấn tượng 1,546 tỷ USD với 184 dự án
2.1.3 Hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may tại Việt Nam
2.1.3.1 Diễn biến xuất khẩu dệt may ở Việt Nam
Ngành dệt may là một trong những ngành chủ lực của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp lớn vào sản lượng, xuất khẩu và việc làm Trong 5 năm qua, xuất khẩu hàng dệt may và giày dép từ Việt Nam đã tăng gần gấp đôi (Finn, 2019), đưa Việt Nam đứng thứ 4 thế giới về tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm dệt may theo số liệu của Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) năm 2019 Nhờ vào nguồn nhân lực dồi dào và giá rẻ, ngành dệt may Việt Nam có lợi thế cạnh tranh so với nhiều quốc gia khác Theo báo cáo của ILO (2021), năm 2011, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam tăng 32%, cao nhất thế giới, vượt xa mức tăng của Trung Quốc trong cùng kỳ Năm 2018, tổng giá trị hàng dệt may xuất khẩu đạt khoảng 30 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2017, chiếm 12,5% kim ngạch xuất khẩu quốc gia (Tổng Cục Hải quan Việt Nam, 2018).
Theo thông tin từ bảng xếp loại giá trị xuất khẩu 2.1 và 2.2, vị trí của Việt Nam trong thị trường xuất khẩu ngành dệt may toàn cầu đang ngày càng được nâng cao.
Hình 2.3 Giá trị xuất khẩu ròng dệt, may Hình 2.4 Tỷ trọng xuất khẩu ròng trên GDP
Nguồn: VCBS tổng hợp từ WTO
Ngành dệt may Việt Nam đóng góp khoảng 5-7% vào GDP quốc gia, nhưng trong nửa đầu năm 2021, tỷ trọng này giảm xuống còn 4,37% so với 5,85% của cùng kỳ năm 2020 Từ năm 2015 đến 2017, tốc độ tăng trưởng cán cân thương mại trung bình đạt 5%, nhưng đã tăng mạnh lên 52% vào năm 2019 trước khi giảm xuống -7% vào năm 2020, với giá trị xuất khẩu đạt 17 tỷ USD do ảnh hưởng của dịch Covid-19 Đến hết nửa đầu năm 2021, giá trị xuất khẩu ròng đạt 7 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ, và đến hết tháng 8 năm 2021, giá trị này đã đạt 11 tỷ USD, tăng 3% so với cùng kỳ, tương đương 65% giá trị xuất khẩu của năm 2020.
2.1.3.2 Một số thị trường xuất khẩu dệt may chính
Thị trường xuất khẩu xơ, sợi dệt của Việt Nam chủ yếu tập trung vào Trung Quốc, chiếm gần 60% tổng giá trị xuất khẩu Năm 2020, giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 2 tỷ USD, giảm 12,5% so với cùng kỳ năm trước Tuy nhiên, đến tháng 7 năm 2021, tỷ lệ xuất khẩu sang Trung Quốc đã giảm nhẹ xuống còn gần 40%, trong khi đó, các thị trường xuất khẩu khác như Bangladesh, Mỹ và EU đang có sự gia tăng đáng kể.
Hình 2.5 Tỷ trọng lần lượt của thị trường xuất khẩu xơ, sợi và thị trưởng xuất khẩu dệt, may của Việt Nam năm 2020 (Nguồn: VCBS tổng hợp từ WTO)
Vấn đề môi trường trong ngành dệt may
2.2.1 Vấn đề môi trường trong ngành dệt may trên thế giới
2.2.1.1 Hoạt động gây ô nhiễm trong chuỗi cung ứng của ngành dệt may
Các tác động môi trường tập trung ở một số điểm nhất định trong chuỗi cung ứng, đặc biệt trong bốn lĩnh vực:
Quy trình dệt, nhuộm và hoàn thiện trong sản xuất dệt may;
Sử dụng năng lượng;
Chất thải dệt liên quan đến quá trình lắp ráp hàng may mặc;
Lượng khí thải vận chuyển xuyên suốt chuỗi cung ứng dưới dạng nguyên liệu và sau đó là sản phẩm cuối cùng vận chuyển trên toàn cầu.
Các tác động lớn nhất đến môi trường chủ yếu xuất phát từ việc sử dụng tài nguyên nước, hóa chất, xả thải và quy trình xử lý chưa hiệu quả Ngoài ra, việc tiêu thụ năng lượng và cường độ carbon cao trong sử dụng điện cũng góp phần vào những vấn đề này.
Hình 2.6 Đầu vào và dòng thải của quá trình sản xuất (Nguồn: WWF)
Sơ đồ này minh họa các đầu vào và dòng thải trong quá trình xử lý ướt hàng dệt Mặc dù các dòng chất thải có thể không được loại bỏ hoàn toàn, nhưng chúng có thể được giảm thiểu và làm sạch trước khi tái sử dụng hoặc xả ra môi trường Ngành dệt đã ghi nhận những nỗ lực cải tiến kỹ thuật, công nghệ và thực hành quản lý từ các bên liên quan, nhằm tạo ra tác động tích cực về tài chính và môi trường, góp phần vào sự phát triển bền vững.
2.2.1.2 Tác động cụ thể của ngành dệt may đến môi trường Ô nhiễm nguồn nước:
Ngành dệt may đóng góp một lượng lớn chất thải hóa học ra môi trường, với việc sản xuất 1 kg vải tiêu tốn khoảng 200 lít nước cho các quá trình như giặt xơ, tẩy, nhuộm và làm sạch Đặc biệt, để hoàn thiện một chiếc áo phông, cần đến 2.495 lít nước, trong đó chứa nhiều hóa chất và thuốc nhuộm gây ô nhiễm Vấn đề nghiêm trọng là nước thải thường không được xử lý trước khi thải ra môi trường, dẫn đến 20% ô nhiễm nước công nghiệp toàn cầu xuất phát từ nhuộm và xử lý hàng dệt may, theo nghiên cứu của EMF (2017) Các chất độc hại như formaldehyde, clo và kim loại nặng được thải vào nguồn nước, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và gây độc tính cho hệ sinh thái thủy sinh.
Cụ thể, các chất gây ô nhiễm không khí do ngành dệt may tạo ra bao gồm:
Oxit nitơ và lưu huỳnh đioxit được tạo ra trong các công đoạn sản xuất năng lượng;
Các thành phần hữu cơ dễ bay hơi (VOC) được sản xuất trong quá trình phủ, đóng rắn, làm khô, xử lý nước thải và lưu trữ hóa chất;
Hơi anilin, chất mang Hydro sunfua, clo và clo dioxit sinh ra trong công đoạn nhuộm và tẩy trắng.
Ngành công nghiệp dệt may đóng góp khoảng 6–8% tổng lượng khí thải carbon toàn cầu, tương đương với 1,7 tỷ tấn carbon dioxide vào năm 2015, vượt qua cả lượng phát thải từ tất cả các chuyến bay quốc tế và vận chuyển hàng hải Điều này phần lớn do hơn 60% hàng dệt may được sản xuất tại Trung Quốc và Ấn Độ, nơi mà Ấn Độ chủ yếu sử dụng than cứng và khí tự nhiên để sản xuất điện và nhiệt, dẫn đến tác động tiêu cực lớn đến môi trường từ hoạt động sản xuất sản phẩm may mặc.
Ngành dệt may là một trong những ngành tạo ra lượng chất thải rắn lớn, với khoảng 90 triệu mặt hàng quần áo bị vứt bỏ vào các bãi chôn lấp mỗi năm trên toàn cầu (theo ILO, 2021) Ngoài ra, chất thải từ ngành này còn được thải ra các nguồn nước, gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng về môi trường.
Một số chất ô nhiễm trong các bãi chôn lấp bao gồm:
Xơ sợi, phế liệu sợi, đồ vụn và chất thải đóng gói được tạo ra trong quá trình chuẩn bị sợi;
Bùn thải và các chất giữ lại trong xử lý nước thải;
Thùng đựng hóa chất và thuốc nhuộm dùng trong nhuộm và hoàn thiện vải dệt.
2.2.2 Vấn đề môi trường trong ngành dệt may tại Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn khi mỗi năm mất khoảng 3 tỷ USD cho năng lượng sản xuất, dẫn đến giá thành sản phẩm cao Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp dệt may thường có quy mô nhỏ và vừa, thiếu nguồn lực tài chính, buộc phải sử dụng quy trình sản xuất lỗi thời, tiêu tốn nhiều năng lượng Cơ cấu năng lượng sử dụng chủ yếu là điện (70%), tiếp theo là năng lượng hóa thạch (29%) và năng lượng sinh khối chiếm phần còn lại Các lãnh đạo doanh nghiệp chưa chú trọng đến việc kiểm soát và tiết kiệm năng lượng Do đó, việc nâng cấp và áp dụng công nghệ xanh, sạch, tiết kiệm năng lượng tự nhiên là giải pháp cần thiết để tăng cường khả năng cạnh tranh cho toàn ngành dệt may.
Tại Việt Nam, để sản xuất một chiếc áo phông từ cotton, cần đến 2.700 lít nước, và ngành dệt may gây ra 17% - 20% ô nhiễm nguồn nước toàn ngành công nghiệp (Báo Sài Gòn, 2021) Các chất độc hại như chất chống cháy, amoniac và kim loại nặng vẫn được sử dụng trong ngành này Các doanh nghiệp dệt nhuộm tiêu thụ từ 500-2.000kg hóa chất cho mỗi tấn sản phẩm, bao gồm muối, dung môi, kiềm và axit Do quy mô nhỏ và vừa, nhiều doanh nghiệp ưu tiên lợi nhuận và quy trình sản xuất mà không chú trọng đến quản lý hóa chất, dẫn đến việc chỉ chú ý đến chất thải khi xảy ra sự cố.
Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu về ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, cho thấy rằng nhiều làng nghề dệt may sử dụng lò đốt, dẫn đến ô nhiễm không khí cục bộ Một ví dụ điển hình là làng nghề dệt Đồng Nhân (huyện Hoài Đức), nơi các hộ sản xuất không sử dụng lò đốt và nước thải không được xử lý riêng biệt, mà xả thẳng ra các mương, máng Thêm vào đó, chất thải rắn tại các làng nghề không được phân loại và được đưa đến các bãi rác tập trung, sau đó xử lý cùng với rác thải sinh hoạt khác bởi các công ty môi trường.
2.2.3 Vấn đề môi trường tại các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may tại Việt Nam
Theo nghiên cứu của Phó tiến sĩ Phan Thị Thu Hiền (2019), các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chủ yếu hoạt động theo phương thức gia công xuất khẩu, dẫn đến việc ngành dệt may gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường Đặc thù của hoạt động xuất khẩu tại Việt Nam cũng góp phần làm gia tăng những ảnh hưởng xấu này đối với môi trường.
Ngành dệt may Việt Nam đặc trưng bởi quy trình vận chuyển dài, với sản phẩm chủ yếu được xuất khẩu sang các thị trường phát triển như Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản.
Giao thông vận tải đóng vai trò quan trọng trong ngành dệt may, với khoảng cách trung bình của một chiếc áo phông từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng lên tới 18 đến 50 nghìn km (Plonka, 2013) Chuỗi cung ứng dài này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường do lượng khí CO2 phát thải lớn, mà còn làm tăng chi phí sản phẩm, với ước tính chi phí vận chuyển chiếm 15% giá của mỗi chiếc áo phông (Plonka, 2013).
Thực trạng áp dụng các quy định về môi trường tại các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may tại Việt Nam
2.3.1 Thực trạng chung về việc áp dụng quy định môi trường tại các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam
Theo thống kê của Trung tâm Năng suất Việt Nam năm 2020, có 421 tổ chức và doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO, trong đó 309 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 9000 và 12 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14000, tăng 23,94% so với năm 2019 Đến nay, gần 50 tổ chức đã được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001: 1998 Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam có 1.046 tổ chức, doanh nghiệp được cấp chứng chỉ hệ thống quản lý, trong đó chứng chỉ ISO chiếm ưu thế với 1.019 chứng chỉ Các doanh nghiệp này hoạt động trong các lĩnh vực liên quan đến sản phẩm được lựa chọn bởi các chương trình nhãn sinh thái toàn cầu Kể từ năm 1999, Việt Nam bắt đầu có tổ chức được cấp chứng nhận ISO 14000, với chỉ 2 tổ chức, nhưng sau đó số lượng tăng nhanh, chuyển từ các công ty nước ngoài sang các công ty liên doanh và trong nước, điều này cho thấy sự phát triển tích cực của ngành công nghiệp Việt Nam.
Việc áp dụng ISO 14001 không chỉ giúp doanh nghiệp dệt may tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động, mà còn trở thành công cụ kinh doanh quan trọng, đặc biệt cho các doanh nghiệp xuất khẩu ISO 14001 được coi là một rào cản phi thuế quan trong thương mại, với các quy định của WTO yêu cầu chứng nhận này như một minh chứng cho khả năng quản lý môi trường Để hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích sản xuất dệt may, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện cho hàng hóa nước ngoài vào thị trường nội địa.
Tính đến thời điểm hiện tại, khái niệm nhãn sinh thái vẫn chưa được các nhà sản xuất hàng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu áp dụng vào chiến lược kinh doanh của họ Thực tế này cho thấy sự chậm trễ trong việc tích hợp các yếu tố bền vững vào quy trình sản xuất và tiếp thị sản phẩm.
Năm 2010, chương trình nhãn sinh thái của Việt Nam sẽ chính thức hoạt động toàn diện, yêu cầu duy trì và cải thiện nội dung chương trình Các doanh nghiệp dệt may ngày càng chú trọng đến các hệ thống quản lý như phân tích nguy hiểm và kiểm soát điểm tới hạn, thực hành sản xuất tốt, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, chất lượng sản phẩm, và trách nhiệm xã hội Việc áp dụng các hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn thể hiện cam kết của doanh nghiệp Việt Nam đối với xã hội và chất lượng môi trường Điều này là một trong những yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực xuất khẩu và phát triển bền vững trong thời kỳ hội nhập.
Trong quá trình áp dụng hệ thống quản lý môi trường, các doanh nghiệp sản xuất trong ngành dệt may phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến việc đáp ứng các tiêu chuẩn giới hạn về chất lượng, thiết bị, phương tiện, chi phí và phương pháp sản xuất.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp khó khăn trong việc sử dụng chất lượng hàng hóa làm lợi thế cạnh tranh, do nhận thức chưa đầy đủ và khả năng tài chính hạn chế Họ thường chỉ chú trọng đến những vấn đề tạm thời, dẫn đến việc áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng không hiệu quả.
2.3.2 Thành tựu trong việc áp dụng các quy định về môi trường tại các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may tại Việt Nam
Trong những năm qua, xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng, với sự hiện diện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới Đặc biệt, tại các thị trường lớn như Mỹ, EU và Nhật Bản, nơi có quy định nghiêm ngặt về môi trường và yêu cầu chất lượng hàng hóa cao, sản phẩm dệt may Việt Nam đã chứng minh khả năng đáp ứng các tiêu chí về nhãn sinh thái Điều này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhận thức tốt hơn về tầm quan trọng của nhãn sinh thái, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững trong ngành sản xuất.
Thị trường xuất khẩu dệt may của Việt Nam chủ yếu tập trung vào các quốc gia có chương trình nhãn sinh thái như Mỹ, EU, Nhật Bản và Australia, chiếm tới 94% kim ngạch xuất khẩu và 54% tổng thị trường xuất khẩu Tại những thị trường này, người tiêu dùng ưa chuộng sản phẩm có nhãn sinh thái, với giá bán có thể cao hơn tới 20% so với sản phẩm cùng loại Điều này cho thấy, bên cạnh yêu cầu về chất lượng, người tiêu dùng còn chú trọng đến yếu tố môi trường, tạo ra thách thức nhưng cũng là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam Nếu sản phẩm dệt may Việt Nam được cấp nhãn sinh thái, chúng sẽ mở ra một thị trường rộng lớn, như châu Âu với 450 triệu người tiêu dùng ưu tiên hàng hóa thân thiện với môi trường.
Ngành dệt may Việt Nam, cùng với các mặt hàng xuất khẩu khác như giày dép và điện tử, đã được cấp nhãn sinh thái và chiếm 32% tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước vào năm 2020 Theo Văn phòng sản xuất và tiêu dùng bền vững, đến năm 2030, ngành này có khả năng chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh, thân thiện với môi trường, đồng thời vẫn đảm bảo việc làm và nâng cao chất lượng sống cho xã hội Sự phát triển bền vững của ngành dệt may sẽ góp phần quan trọng vào việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc, bao gồm cải thiện điều kiện làm việc, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, và đảm bảo công bằng giới.
Ngành dệt may hiện nay đang chú trọng đến vấn đề môi trường, với mục tiêu giảm thiểu tác hại từ hoạt động sản xuất Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) đặt ra mục tiêu đến năm 2023, các tổ chức thành viên sẽ giảm 15% tiêu thụ năng lượng điện và 20% nước Đến năm 2022, ba thương hiệu quốc tế tại Việt Nam đã cam kết sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng trong các nhà máy và tham gia Ủy ban Bảo vệ Các mục tiêu khác bao gồm việc hai khu công nghiệp dệt may thực hiện tuần hoàn nước và nâng cao hiệu quả năng lượng vào năm 2023, cũng như ký kết ba hiệp ước lao động tập thể trong các doanh nghiệp hội viên để mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người lao động Vitas cũng sẽ tổ chức ít nhất ba diễn đàn đối thoại quốc tế để thảo luận về điều kiện lao động và hiệu quả sản xuất trong ngành.
Ngành dệt may Việt Nam đang nỗ lực bảo vệ môi trường thông qua việc khuyến khích doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000 và sản xuất xanh hơn, sạch hơn Đồng thời, việc xây dựng môi trường lao động theo tiêu chuẩn SA 8000 giúp bảo đảm quyền lợi cho người lao động Đến nay, gần 50 doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam đã được chứng nhận tiêu chuẩn ISO 14001:1998, cho thấy sự quan tâm ngày càng cao của các doanh nghiệp đối với vấn đề môi trường và nâng cao ý thức của cán bộ nhân viên Tiêu chuẩn ISO 14001 không chỉ giúp doanh nghiệp dệt may Việt Nam làm quen với các tiêu chuẩn môi trường mà còn khẳng định khả năng đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế của Việt Nam.
Ô nhiễm do chất thải từ sản xuất hóa chất là thách thức lớn đối với các quốc gia sản xuất, nhuộm và dệt vải, trong đó có Việt Nam Để đối phó, nhiều doanh nghiệp trong nước đã áp dụng quy trình sản xuất xanh và thiết lập hệ thống xử lý nước thải bài bản Các công ty như Cơ sở nhuộm Thuận Thiên, Công ty Dệt Nam Định, và Dệt Sài Gòn đã thực hiện các biện pháp tiết kiệm nguyên liệu, xử lý khí thải, và di dời xí nghiệp vào khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải chuyên biệt Những nỗ lực này đã giúp ngành dệt may đạt được các mục tiêu môi trường, với việc tiết kiệm trung bình từ 50-150 KWh điện, 50-100m3 nước, và giảm tiêu thụ hóa chất đáng kể Sự tuân thủ các tiêu chuẩn về sức khỏe và môi trường đã góp phần tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm may mặc Việt Nam, đặc biệt tại các thị trường khó tính như Hoa Kỳ và Nhật Bản.
2.3.3 Hạn chế trong việc áp dụng các quy định về môi trường của các doanh nghiệp sản phẩm dệt may Việt Nam
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quy định môi trường cho doanh nghiệp, nhưng Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn gặp khó khăn trong việc triển khai chương trình do thiếu sự đồng bộ và cập nhật trong các tiêu chuẩn môi trường Việc đánh giá và chứng nhận theo tiêu chuẩn ISO cần được thực hiện bởi các tổ chức độc lập, nhưng tại Việt Nam, hoạt động này chưa được quản lý chặt chẽ, dẫn đến nhiều tổ chức vi phạm quy định Thống kê cho thấy, trong số gần 40 tổ chức tư vấn và 15 tổ chức chứng nhận, chỉ có một tổ chức từ Nauy đã đăng ký hoạt động chính thức tại Việt Nam Công tác xúc tiến thương mại cũng gặp nhiều hạn chế, khi các doanh nghiệp còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của nhà nước Tại Đồng bằng sông Hồng, chỉ 30% lượng nước thải công nghiệp được xử lý, gây thiệt hại kinh tế khoảng 12% GDP do ô nhiễm nước Mặc dù chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ môi trường, nhưng hệ thống quản lý hiện tại không đủ hiệu quả để giảm thiểu tác hại từ ngành dệt may, với 60% nước thải chưa qua xử lý Các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ còn hạn chế về nhận thức, năng lực và khả năng tiếp cận vốn để đầu tư đổi mới sinh thái.
Hiện nay, quy định về môi trường sản xuất kinh doanh tại Việt Nam vẫn còn xa lạ với cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng, mặc dù đã có gần 50 doanh nghiệp được chứng nhận tiêu chuẩn ISO 14001:1998 Các doanh nghiệp chưa đầu tư đúng mức vào việc nghiên cứu thị trường và các quy định kỹ thuật liên quan đến sản phẩm Đối với những mặt hàng xuất khẩu như dệt nhuộm và hàng dệt may, việc mở rộng quy mô và đầu tư công nghệ chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài Doanh nghiệp 100% vốn trong nước chưa tạo được thị phần riêng, đồng thời phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt, đặc biệt là từ các sản phẩm Trung Quốc.
Việc chậm trễ trong đầu tư công nghệ tiên tiến đã khiến cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng thô, chiếm tỉ trọng lớn Các sản phẩm này thường được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất tiếp theo, và để được cấp nhãn, chúng cần đáp ứng yêu cầu về môi trường Điều này đặt ra thách thức cho Việt Nam trong việc xuất khẩu nguyên liệu Trong ngành dệt nhuộm, Việt Nam lạc hậu khoảng 15-20 năm so với các nước như Trung Quốc và Thái Lan, với 50% thiết bị đã hoạt động trên 20 năm Chi phí năng lượng và nguyên liệu cho ngành dệt tại Việt Nam chiếm 10-12% giá thành sản phẩm, cao hơn so với 6-7% tại Thái Lan Tại Việt Nam, có khoảng 177 doanh nghiệp trong lĩnh vực xử lý hoàn thiện vải và nhuộm in hoa, nhưng phần lớn dây chuyền sản xuất chưa được quản lý và khai thác hiệu quả Chỉ 10% doanh nghiệp sử dụng công nghệ tự động, trong khi 70% áp dụng công nghệ trung bình, cho thấy trình độ công nghệ đang phát triển chậm hơn 15-20 năm so với các khu vực khác.