TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC NHÂN TỐ QUẢN TRỊ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC
Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố quản trị ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học
1.1.1 Các nhân tố quản trị ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học Ở trong nước hiện nay, dường như số lượng công trình nghiên cứu về nhân tố quản trị ảnh hưởng đến kết quả NCKH của giảng viên còn rất hạn chế Huỳnh Thanh Nhã (2016) đã khảo sát 125 giảng viên tại ba trường cao đẳng ở Cần Thơ về những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tham gia NCKH của giảng viên Kết quả mô hình hồi quy cho thấy các nhân tố ảnh hưởng gồm: Môi trường làm việc (ảnh hưởng đáng kể nhất), nhận thức, năng lực cá nhân, động cơ thực hiện, tuổi và lĩnh vực chuyên môn của giảng viên Tuy nhiên “khả năng tham gia NCKH” ở đây được xem xét với ý nghĩa là thái độ, động lực sẵn sàng thực hiện NCKH của giảng viên (yếu tố đầu vào) chứ không phải kết quả NCKH (yếu tố đầu ra)
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên, được chia thành hai nhóm chính: nhân tố thể chế và nhân tố cá nhân Nhân tố thể chế bao gồm các yếu tố liên quan đến tổ chức và môi trường làm việc, có ảnh hưởng rộng hơn đến hoạt động nghiên cứu của giảng viên.
Các quan tổ chức công có cấu trúc và chức năng được xác định chính thức nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động cho toàn bộ dân cư Nghiên cứu về các nhân tố thể chế không chỉ tập trung vào khái niệm và chức năng quản trị mà còn xem xét toàn bộ vấn đề liên quan đến tổ chức Theo mô hình của Bland và cộng sự, các nhân tố thể chế bao gồm nguồn lực nghiên cứu, khen thưởng, thời gian làm việc, mục tiêu, và sự đa dạng trong nhóm Ngoài ra, còn có định hướng hỗ trợ nghiên cứu, văn hóa giao tiếp, chính sách chú trọng nghiên cứu, và môi trường làm việc tích cực Nhóm nhân tố lãnh đạo và cá nhân được tách biệt khỏi nhóm thể chế.
Tài liệu hiện có cho thấy thiếu hụt các nghiên cứu chuyên sâu về các nhân tố quản trị ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên Tuy nhiên, trong các nhân tố thể chế, một số yếu tố quản trị đã được đề cập và sử dụng làm thang đo trong nhiều nghiên cứu định lượng, bao gồm: mục tiêu NCKH của tổ chức, sự phân quyền, lãnh đạo, hỗ trợ NCKH, chế độ chính sách dành cho giảng viên, và nguồn lực cho NCKH.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chiến lược và mục tiêu phát triển nghiên cứu khoa học (NCKH) của trường đại học ảnh hưởng đến kết quả NCKH của giảng viên và nhà trường Tafreshi và cộng sự (2013) đã thu thập dữ liệu từ 261 giảng viên ở Iran, sử dụng các phương pháp như phỏng vấn Delphi, phân tích EFA, CFA và mô hình SEM, cho thấy mục tiêu giáo dục của nhà trường, bao gồm cả mục tiêu NCKH, có tác động rõ rệt đến kết quả nghiên cứu của giảng viên Các nghiên cứu khác như của Jahan và cộng sự (2018), Whelan và Markless (2012), Hedjazi và Behravan (2011), và Bland cùng cộng sự (2005) cũng khẳng định rằng nếu trường có mục tiêu và định hướng phát triển theo mô hình đại học nghiên cứu, thì hệ thống hỗ trợ cho NCKH sẽ được cải thiện, từ đó góp phần tích cực vào kết quả nghiên cứu.
Các trường đại học nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học thông qua những cam kết lâu dài của họ Chúng được đặc trưng bởi sự xuất sắc, tầm ảnh hưởng và khối lượng kết quả nghiên cứu đáng kể Hơn nữa, văn hóa khoa học được lan tỏa trong mọi hoạt động của trường, từ giảng dạy, nghiên cứu cho đến việc kết nối với doanh nghiệp, chính phủ và cộng đồng xã hội.
Nghiên cứu cho thấy để đạt thành tích nghiên cứu khoa học (NCKH) tốt, các mục tiêu NCKH của trường đại học cần phải rõ ràng, khả thi và được chia sẻ rộng rãi Aref và cộng sự (2017) đã tiến hành khảo sát 84 nhà khoa học Hoa Kỳ, sử dụng phương pháp định tính và định lượng, và xác định ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến NCKH: nhân tố bên trong tổ chức, nhân tố bên ngoài tổ chức, và nhân tố cá nhân giảng viên Kết quả cho thấy việc thiết lập kế hoạch chiến lược rõ ràng nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu có tác động tích cực đến kết quả NCKH, mặc dù không phải là yếu tố quyết định duy nhất Những phát hiện này cũng được xác nhận bởi các nghiên cứu của Kiat và Claire (2017), Hedjazi và Behravan (2011), cùng với Bland và cộng sự (2005).
Hwang (2016) đã tiến hành khảo sát 120 nhà khoa học tại Hàn Quốc, áp dụng phương pháp phân tích EFA và hồi quy, và xác định 06 nhóm nhân tố chính gồm: nguồn lực, sự lãnh đạo, chia sẻ tri thức, tính tự chủ, sự hợp tác, sự sáng tạo, và tương tác học thuật Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nhóm nhân tố sự lãnh đạo, đặc biệt là yếu tố liên quan đến mục tiêu và kế hoạch nghiên cứu khoa học, có ảnh hưởng tích cực lớn nhất đến kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên và nhà trường Những lãnh đạo chú trọng vào việc xác định mục tiêu và kế hoạch sẽ giúp định hướng tốt hơn cho nỗ lực của các thành viên, từ đó nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học của khoa và nhà trường.
Kiat và Claire (2017) đã tiến hành nghiên cứu với hơn 600 người từ 50 khoa tại 5 trường đại học ở Anh, sử dụng phân tích hồi quy và ANOVA để tìm hiểu các yếu tố cơ bản dẫn đến sự xuất sắc trong giáo dục đại học Nghiên cứu đã xác định tám nhóm nhân tố chính, bao gồm quản trị sự thay đổi, giảng dạy và nghiên cứu, truyền thông, chiến lược, lãnh đạo, và văn hóa của các khoa.
Quản trị đại học và kết quả nghiên cứu cũng như giảng dạy có mối liên hệ chặt chẽ, với các khoa có thành tích cao thường có sự định hướng và mục tiêu rõ ràng Các thành viên trong khoa chia sẻ kỳ vọng về những gì cần đạt được, thông qua các sáng kiến chiến lược hoặc quản lý và truyền thông hiệu quả Khi mục tiêu được chia sẻ giữa các nhóm và thành viên, ý thức cố gắng và đạt được mục tiêu chung được nâng cao, từ đó thúc đẩy sự năng động và xuất sắc của tổ chức.
Các phát hiện tương tự cũng đã được tìm thấy bởi Sheridan và cộng sự
Theo nghiên cứu của Jung (2012) và Bland cùng cộng sự (2005), việc xây dựng chiến lược và mục tiêu nghiên cứu khoa học (NCKH) cho trường và khoa cần được thực hiện một cách đa chiều, bao gồm cả phương pháp từ trên xuống, từ dưới lên, và sự phối hợp giữa các đơn vị, nhóm Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện và đạt kết quả tốt hơn Đồng thời, mục tiêu NCKH cũng nên hài hòa với sự quan tâm và mong muốn của các giảng viên.
Jung (2012) đã thực hiện một nghiên cứu với 811 phiếu khảo sát từ một dự án lớn tại Hồng Kông, sử dụng phân tích hồi quy OLS để xác định các yếu tố cá nhân và thể chế ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên Nghiên cứu so sánh mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trong các lĩnh vực khoa học khác nhau và chỉ ra rằng quản trị theo kết quả, bao gồm hệ thống lương thưởng, thăng tiến, hợp đồng và hỗ trợ tài chính dựa trên các chỉ số mục tiêu rõ ràng, là nhân tố quan trọng quyết định năng suất NCKH của giảng viên.
Khi thiết lập mục tiêu nghiên cứu khoa học (NCKH) cho tổ chức, cần lưu ý đến sự quan tâm của giảng viên đối với NCKH Việc này không chỉ giúp tăng cường động lực nghiên cứu mà còn nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu trong tổ chức.
Bland và cộng sự (2005) đã tiến hành nghiên cứu với 465 giảng viên tại Hoa Kỳ, sử dụng các phương pháp thống kê như T-Test, hồi quy bội và hồi quy logistic để đánh giá ảnh hưởng của 08 đặc điểm cá nhân, 15 đặc điểm thể chế và 04 đặc điểm lãnh đạo đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) Kết quả cho thấy rằng trong các đặc điểm thể chế, việc thiết lập mục tiêu chung rõ ràng trong NCKH là yếu tố có tác động mạnh nhất đến thành công của giảng viên trong lĩnh vực này Đặc biệt, những mục tiêu này không chỉ cần rõ ràng mà còn phải được hiện thực hóa.
Lãnh đạo trong tổ chức cần duy trì sự hiển thị và chia sẻ các mục tiêu để đảm bảo mọi thành viên đều nhận thức rõ ràng về tầm nhìn của tổ chức trong tương lai Khảo sát giảng viên không chỉ nhằm đánh giá sự nhận thức này mà còn tìm hiểu mối liên hệ giữa mục tiêu cá nhân và mục tiêu nghiên cứu khoa học (NCKH) của tổ chức Đặc biệt, yếu tố chú trọng nghiên cứu, tức là ưu tiên mục tiêu NCKH ngang bằng hoặc cao hơn các mục tiêu khác của nhà trường, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao thành tích NCKH của giảng viên.
Tiếp cận theo hướng xem xét các rào cản đối với thành tích NCKH, Okendo
Tổng quan các nghiên cứu về kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên có thể được đánh giá thông qua số lượng và chất lượng công trình cũng như tầm ảnh hưởng của chúng Theo Yamamoto và Ishikawa (2017), số lượng công trình và số lượng trích dẫn thường được coi là chỉ số quan trọng để đo lường hiệu quả công bố khoa học và tác động của chúng, và sự kết hợp của hai chỉ số này phản ánh kết quả NCKH của nhà khoa học.
Nhiều tác giả nhấn mạnh rằng kết quả nghiên cứu khoa học được đo lường qua tổng số sản phẩm khoa học được công bố trong và ngoài nước (Wills và cộng sự, 2013) Các chỉ số về kết quả NCKH của giảng viên đại học bao gồm: số lượng công trình NCKH trong nước và quốc tế, các công trình được đăng ở kỷ yếu hội nghị/tạp chí quốc tế (Costa và cộng sự, 2012; Chang và Chiu, 2008), giải thưởng nghiên cứu (Xếp hạng SJTU; Xếp hạng THE, Chang và Chiu, 2008), số lượng sách xuất bản trong nước và quốc tế (Peccati và Sironi, 2007; Costa và cộng sự, 2012; Chang và Chiu, 2008), cùng với các ấn phẩm có ảnh hưởng tới chính phủ và xã hội (Peccati và Sironi, 2007).
Kaya và Weber (2003) cho rằng kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên được đánh giá qua các cơ hội phát triển và khẳng định chuyên môn, như báo cáo tại hội nghị và số lượng đề xuất tài trợ Wong và Tierney (2001) nhấn mạnh rằng thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học thường được đo bằng các xuất bản phẩm và bài thuyết trình tại hội thảo Hedjazi và Behravan (2011) cũng cho rằng kết quả nghiên cứu liên quan đến các ý tưởng sáng tạo, được xuất bản trong các tạp chí, tờ báo hoặc đăng ký sáng chế Ngoài ra, một số nghiên cứu khác chỉ ra rằng số tiền tài trợ nghiên cứu cũng là yếu tố quan trọng để đánh giá kết quả NCKH (Altbach, 2015; Porter và Umbach).
2001), kết quả hướng dẫn học viên/nghiên cứu (Altbach, 2015), thành viên của viện
38 hàn lâm khoa học quốc gia (White và cộng sự, 2012), số tiền được phân bổ cho nghiên cứu (Iqbal và Mahmood, 2011)
Phần lớn các nhà nghiên cứu đồng thuận rằng ấn phẩm xuất bản là tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực nghiên cứu toàn cầu Các chỉ số phổ biến bao gồm tổng số báo cáo hội thảo, bài báo trên tạp chí khoa học, sách và chương sách (Nafukho và cộng sự, 2019; Altbach, 2015) Mặc dù có sự khác biệt giữa các lĩnh vực, nhưng các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí uy tín thuộc cơ sở dữ liệu của Thomson Reuters, như SCI, SSCI, AHCI, thường được xem là có giá trị cao.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên cần được thể hiện qua các công trình nghiên cứu có tầm quốc tế Costa và cộng sự (2012) đã phân loại các tiêu chí chất lượng công bố quốc tế từ thấp đến cao, bao gồm báo cáo khoa học tại hội thảo quốc tế, công trình NCKH đăng trên tạp chí khoa học quốc tế miễn phí, tạp chí quốc tế uy tín, và tạp chí thuộc CSDL ISI/Scopus Bên cạnh đó, giảng viên cũng cần phải là chủ biên hoặc đồng chủ biên cho một số lượng sách nhất định được xuất bản trong nước hoặc quốc tế.
Chất lượng bài báo công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế hiện nay được coi là tiêu chuẩn đánh giá khả năng nghiên cứu của các nhà khoa học ở phương Tây Theo Nguyễn Hữu Đức (2008), năng lực và chất lượng hoạt động khoa học của các nhà nghiên cứu chủ yếu được đánh giá qua tổng số bài báo đã xuất bản, chỉ số ảnh hưởng của các tạp chí nơi bài báo được công bố, và tổng số lần các bài báo đó được trích dẫn.
Chỉ số trích dẫn H-index, được giới thiệu bởi nhà vật lý Jorge Hirsch vào năm 2005, là công cụ quan trọng để đánh giá kết quả nghiên cứu của giảng viên Chỉ số này giúp đo lường thành tựu khoa học và so sánh kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của các nhà khoa học trong cùng lĩnh vực Theo Hirsch, một nhà khoa học sở hữu chỉ số H nếu trong số N công trình của họ, có H công trình được trích dẫn ít nhất H lần.
Chỉ số H là một chỉ số quan trọng trong nghiên cứu khoa học, phản ánh cả số lượng và chất lượng các công trình nghiên cứu Cụ thể, chỉ số này cho thấy có H công trình (H < N) với số lần trích dẫn từ H trở lên, cho phép đánh giá tầm ảnh hưởng của các bài báo qua số lần được trích dẫn bởi các nhà khoa học khác.
H-index là chỉ số đáng tin cậy được công nhận toàn cầu để đánh giá năng lực nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên, theo các tác giả như Nafukho và cộng sự (2019), Abramo và D'Angelo (2014), Huang (2012) Nhiều tạp chí khoa học uy tín như Nature, Science, Cell, PNAS, cùng với các cơ quan quản lý khoa học ở châu Âu, châu Mỹ và châu Úc, sử dụng H-index để đánh giá thành công của các nhà khoa học và nhóm nghiên cứu Viện thông tin khoa học (ISI Thomson) cũng áp dụng chỉ số này trong các báo cáo của họ Các bảng xếp hạng như THE và SJTU sử dụng H-index khi xếp hạng các trường đại học toàn cầu Theo THE (2014), số lượng trích dẫn phản ánh mức độ đóng góp của một công trình vào kho tàng kiến thức nhân loại Thompson Reuters cho rằng số trích dẫn của các ấn phẩm khoa học có thể dự đoán ai sẽ nhận giải Nobel trong một số lĩnh vực nhất định.
Yamamoto và Ishikawa (2017), Furubayahsi (2014) cùng nhiều nhà nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng chỉ số trích dẫn chủ yếu dựa vào các bài báo, báo cáo hội thảo và sách đã công bố, trong khi nhiều lĩnh vực có ít ấn phẩm nhưng lại có đóng góp lớn cho xã hội Không phải tất cả các ấn phẩm đều được lập chỉ mục trong cơ sở dữ liệu nghiên cứu, và việc đánh giá giá trị thực của một ấn phẩm là rất khó khăn Điều này dẫn đến sự không công bằng khi so sánh hiệu quả nghiên cứu khoa học giữa các nhà khoa học và tổ chức, do sự khác biệt giữa các ngành, thời gian xuất bản và tuổi nghề của nhà khoa học Do đó, theo Nguyen (2015), phương pháp đánh giá dựa trên số lượng ấn phẩm mà các nhà khoa học công bố trong một khoảng thời gian nhất định được sử dụng phổ biến hơn so với chỉ số ảnh hưởng tại hầu hết các trường đại học trên thế giới.
Nhiều tác giả đã áp dụng cách tiếp cận toàn diện, xem xét cả số lượng, chất lượng, mức độ ảnh hưởng và các hoạt động nghiên cứu Aydin (2017) đã thực hiện tổng hợp các khía cạnh này một cách chi tiết.
Đo lường kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) có thể được thực hiện qua nhiều chỉ số quan trọng, bao gồm số bài báo xuất bản trên tạp chí khoa học, chỉ số ảnh hưởng của tạp chí, và số lượng sách xuất bản Ngoài ra, các chỉ số khác như số chương sách xuất bản và biên tập, số trích dẫn, đăng ký sáng chế, và nhận tài trợ nghiên cứu cũng rất cần thiết Tham gia vào các dự án nghiên cứu, số giải thưởng đạt được, số báo cáo hội thảo khoa học, và số lần được mời trình bày cũng là những yếu tố quan trọng Cuối cùng, việc hướng dẫn luận án/luận văn, tham gia ban biên tập tạp chí khoa học, có vị trí trong hiệp hội chuyên môn, và phát triển quan hệ chuyên môn với đồng nghiệp quốc tế đều góp phần vào việc đánh giá hiệu quả NCKH.
Việc lựa chọn phương pháp đo lường phù hợp phụ thuộc vào mục tiêu của từng cá nhân và tổ chức Chẳng hạn, Hội đồng Nghiên cứu Australia (ARC) sử dụng chỉ số trích dẫn cho các ngành khoa học tự nhiên và xem xét các ấn phẩm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (Hội đồng Nghiên cứu Úc, 2014) Theo Bazeley (2010), kết quả nghiên cứu khoa học thường được đề cập trong bối cảnh cụ thể như giáo dục, cơ hội và tài nguyên, nhằm tạo ra nhiều kết quả khác nhau bao gồm sản phẩm, tác động và uy tín.
Năm 2014, các tác giả nhấn mạnh rằng khi đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH), việc sử dụng các công cụ và chỉ số đánh giá sẽ khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu cụ thể của từng tác giả.
Khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả NCKH của giảng viên, nhiều nhà nghiên cứu tập trung vào sản phẩm và công trình hơn là chỉ số ảnh hưởng Hoffmann và cộng sự (2017) đã xác định các biến phụ thuộc như báo cáo hội thảo, bài báo có phản biện, bài báo không phản biện, chương sách/sách xuất bản, và sách biên tập Bland và cộng sự (2005) đề xuất mô hình thúc đẩy NCKH hiệu quả tại các khoa và giảng viên ở Mỹ, chỉ ra rằng tổ chức NCKH hiệu quả bao gồm các chỉ số như bài báo, sách, sáng chế, tài trợ, giải thưởng, uy tín, thành tựu nghệ thuật, cùng với sự hài lòng và động lực của giảng viên Ramli và Jusoh (2015) đã phân tích ảnh hưởng của các yếu tố theo thuyết kỳ vọng đến kết quả NCKH, đưa ra các chỉ số đo lường như bài báo khoa học, chương sách, sách, báo cáo hội thảo, sáng chế, bản quyền, cũng như sản phẩm và quy trình thương mại hóa.
Khoảng trống nghiên cứu và các vấn đề luận án kế thừa, hoàn thiện, bổ
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên, cũng như các tiêu chí đo lường và đánh giá kết quả NCKH Dựa trên tổng quan tài liệu, một số vấn đề đã được thống nhất và sẽ được luận án kế thừa, trong khi những vấn đề khác vẫn chưa đầy đủ và toàn diện sẽ được hoàn thiện Bên cạnh đó, một số phương pháp tiếp cận mới cũng sẽ được bổ sung vào luận án, từ đó hình thành một tổng thể các vấn đề cần giải quyết.
Nội dung tài liệu cho thấy rằng kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như chính sách phân bổ công việc, hệ thống khen thưởng, thu nhập, phong cách lãnh đạo, sự dân chủ trong quản trị, chiến lược và tầm nhìn của tổ chức, cùng với các nguồn lực và hỗ trợ nghiên cứu Mặc dù chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về các yếu tố quản trị ảnh hưởng đến NCKH, nhiều yếu tố này đã được đề cập trong tài liệu liên quan và là biến độc lập trong các mô hình nghiên cứu định lượng Các yếu tố chính có thể được nhóm lại thành: mục tiêu NCKH của tổ chức, sự lãnh đạo, hỗ trợ NCKH, chế độ chính sách đối với giảng viên và nguồn lực cho NCKH, sẽ được tác giả sử dụng làm thang đo trong mô hình nghiên cứu của luận án.
Luận án sẽ dựa trên lý thuyết nền tảng, tham khảo và kế thừa các nghiên cứu trước đây, sử dụng ba trường phái quản trị: thuyết X, thuyết Y, thuyết Z, cùng với thuyết kỳ vọng để phát triển nội dung nghiên cứu.
Luận án sẽ áp dụng các phương pháp nghiên cứu như kiểm định độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá và khẳng định, phân tích tương quan, hồi quy bội, cùng với phân tích phương sai ANOVA hoặc T Test Những vấn đề còn thiếu sót và chưa toàn diện sẽ được hoàn thiện để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của nghiên cứu.
Cho đến nay, "sự phân quyền" chưa được sử dụng như một thang đo trong các mô hình nghiên cứu định lượng, nhưng nhiều nội dung liên quan đã xuất hiện trong các nghiên cứu định tính Tác giả quyết định phát triển thang đo này cho mô hình nghiên cứu của luận án, nhằm phù hợp với bối cảnh thúc đẩy tự chủ đại học và tự do học thuật tại Việt Nam, đặc biệt là tại ĐHQGHN Thang đo mới sẽ được tác giả phỏng vấn ý kiến chuyên gia trước khi đưa vào mô hình nghiên cứu chính thức.
Luận án này sẽ đóng góp mới cho nền tảng lý thuyết bằng việc lần đầu tiên áp dụng thang đo "sự phân quyền" vào mô hình nghiên cứu định lượng, nhằm kiểm định mối quan hệ giữa yếu tố này và kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học Bên cạnh đó, những vấn đề mới và phương pháp tiếp cận mới cũng sẽ được bổ sung.
Nghiên cứu cho thấy có nhiều yếu tố quản trị ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên, bao gồm mục tiêu NCKH, sự lãnh đạo, hỗ trợ NCKH, chế độ chính sách dành cho giảng viên, và nguồn lực phục vụ cho NCKH.
Trên toàn cầu, vẫn còn thiếu các nghiên cứu chuyên sâu về các nhân tố quản trị ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) Hầu hết các nghiên cứu hiện tại, cả trong nước và quốc tế, chủ yếu phân loại các yếu tố thành hai nhóm: yếu tố thể chế và yếu tố cá nhân Do đó, luận án này sẽ mang đến một cách tiếp cận mới, có thể là nghiên cứu đầu tiên khám phá vấn đề này.
Nghiên cứu này tập trung vào 45 nhân tố quản trị có ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên đại học, kết hợp giữa các phương pháp định lượng hiện đại và phương pháp định tính.
Tài liệu cho thấy rằng tại Việt Nam, vẫn còn thiếu các nghiên cứu về các yếu tố quản trị ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên đại học Số lượng công trình nghiên cứu về các yếu tố thể chế tác động đến kết quả NCKH của giảng viên cũng rất hạn chế Nghiên cứu của Huỳnh Thanh Nhã (2016) có quy mô mẫu nhỏ và chỉ tập trung vào giảng viên các trường cao đẳng ở Cần Thơ Một số công trình khác đã đề cập đến năng lực NCKH của giảng viên (Cảnh Chí Dũng, 2015; Nguyễn Thị Tuyết, 2008) hoặc khả năng tham gia NCKH (Huỳnh Thanh Nhã, 2016) Do đó, luận án này lựa chọn tiếp cận theo kết quả NCKH của giảng viên thay vì theo năng lực NCKH.
Tổng quan tài liệu cho thấy cần nghiên cứu sâu về các yếu tố quản trị ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam và tại ĐHQGHN, với cách tiếp cận theo quản trị tổ chức và các chức năng của nó.
Chương 1 đã phân tích tổng quan những nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả NCKH của giảng viên đại học ở trong nước và trên thế giới Về nội dung các nhân tố quản trị, luận án đã chỉ ra được có 6 nhân tố phổ biến hoặc có liên quan trong tổng quan tài liệu gồm: Mục tiêu NCKH của tổ chức, sự phân quyền, sự lãnh đạo, hỗ trợ NCKH, chế độ chính sách đối với giảng viên, nguồn lực cho NCKH Về tổng quan phương pháp nghiên cứu, luận án đã chỉ ra được các phương pháp chủ yếu được áp dụng trong các công trình trước đây, trong đó hồi quy đa biến là một trong những mô hình phổ biến nhất Ngoài ra, Chương 1 đã phân tích tổng quan tài liệu nghiên cứu về kết quả NCKH của giảng viên theo các cách tiếp cận về số lượng, chất lượng và chỉ số ảnh hưởng, hoặc tiếp cận hỗn hợp, trong đó tiếp cận theo số lượng và chất lượng là cách phổ biến nhất trong các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến kết quả NCKH của giảng viên Từ đó, Chương 1 đã xác định được khoảng trống nghiên cứu và các vấn đề luận án sẽ kế thừa, hoàn thiện, bổ
Nghiên cứu này kế thừa 5 nhân tố quản trị điển hình để xây dựng thang đo cho mô hình nghiên cứu, bao gồm mục tiêu nghiên cứu khoa học (NCKH) của tổ chức, lãnh đạo, hỗ trợ NCKH, chế độ chính sách đối với giảng viên, và nguồn lực cho NCKH Đồng thời, nghiên cứu phát triển nhân tố "sự phân quyền" thành thang đo mới trong mô hình nghiên cứu định lượng Đặc biệt, nghiên cứu chỉ tập trung vào các nhân tố quản trị mà không xem xét các yếu tố thể chế hay cá nhân như các nghiên cứu trước đây, nhằm làm rõ ảnh hưởng của chúng đến kết quả NCKH của giảng viên.