1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tiểu luận LỊCH sử ĐẢNG làm rõ được đặc điểm kinh tế, xã hội việt nam dưới chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân pháp và nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng

60 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tiểu luận Lịch Sử Đảng Làm Rõ Được Đặc Điểm Kinh Tế, Xã Hội Việt Nam Dưới Chính Sách Thống Trị, Khai Thác Thuộc Địa Của Thực Dân Pháp Và Nội Dung Cương Lĩnh Chính Trị Đầu Tiên Của Đảng
Tác giả Nguyễn Ngọc Bảo Trân, Trần Hữu Anh Triết, Lê Thanh Hải Triều, Đoàn Đức Toàn, Lê Hoàng Tín
Người hướng dẫn Đào Thị Bích Hồng
Trường học Đại Học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Lịch Sử Đảng
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2022
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 60
Dung lượng 54,37 KB

Cấu trúc

  • Ĩ1

    • ífjj

      • PHẦN MỞ ĐẦU

      • I. Giai đoạn 1 (1930-1935)

      • 1.1. Luận cương chính trị tháng 10/1930

      • 1.2. Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3-1935)

      • 1.3. Tiểu kết

      • II. Giai đoạn 2 (1936-1938)

      • 2.1. Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7-1936)

      • 2.2. Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10-1936)

      • 2.3. Tiểu kết

      • III. GIAI ĐOẠN (1939-1945)

      • 3.1. Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 11/1939

      • 3.2. Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 11/1940

      • 3.3. Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941

      • 3.4. Tiểu kết

      • PHẦN KẾT LUẬN

      • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Làm rõ được đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thácthuộc địa của thực dân Pháp và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cương lĩnh chính trị đầu

Giai đoạn 1 (1930-1935)

Luận cương chínhtrị tháng 10/1930

Tình hình thế giới lúc bấy giờ và có sự liên hệ đến Cách mạng ở khu vực Đông Dương.

Cuộc cách mạng vô sản Nga không chỉ thành công mà còn thúc đẩy sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản trên toàn cầu Trong khi đó, phong trào vô sản đang diễn ra mạnh mẽ tại các nước đế quốc, với các cuộc bãi công quy mô lớn ở Đức, Pháp, Ba Lan, và nhiều nơi khác Đồng thời, ở các nước thuộc địa, nhiều cuộc cách mạng đã bùng nổ, cho thấy sự phát triển đáng kể của phong trào cách mạng thuộc địa.

Tình hình trong nước và trong khu vực:

Luận cương đã chỉ ra tình hình Đông Dương với những mâu thuẫn gay gắt giữa các giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Dân cày phải chịu đựng đói nghèo, phải nộp địa tô cao và ngày càng phụ thuộc vào tư bản Tương tự, thợ thuyền cũng bị giai cấp tư bản ở các đồn điền và hầm mỏ bóc lột và đàn áp một cách tàn nhẫn.

Lực lượng cách mạng ở Đông Dương đã tham gia mạnh mẽ vào phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, mở rộng hàng ngũ công nông Các cuộc cách mạng ở khu vực Châu Á cũng đã tác động sâu sắc đến phong trào Đông Dương, khiến cách mạng ngày càng lan rộng Điều này thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới Trước xu hướng cách mạng bùng nổ, Luận cương chính trị tháng 10/1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương, do đồng chí Trần Phú và các đồng chí khác soạn thảo, đã được ra đời nhằm chuẩn bị cho hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng diễn ra từ ngày 14.

Vào ngày 30 tháng 10 năm 1930, Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất được tổ chức tại Hương Cảng dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Phú Tại hội nghị, các đại biểu đã thông qua nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ của Đảng, đồng thời thảo luận về Luận cương chính trị, điều lệ Đảng và quy định tổ chức quần chúng.

Luận cương đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Đông Dương là thực hiện “cách mạng tư sản dân quyền” với tính chất thổ địa và phản đế Sau khi giành chiến thắng, cách mạng sẽ tiến tới con đường vô sản, bỏ qua giai đoạn tư bản để hướng thẳng đến xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng bao gồm việc đánh đổ các di tích phong kiến và các hình thức bóc lột theo lối tiền tư bản, đồng thời thực hiện thổ địa cách mạng một cách triệt để Bên cạnh đó, cần đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, nhằm đạt được độc lập hoàn toàn cho Đông Dương Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, và để thực hiện các mục tiêu chiến lược, cần tiến hành các bước nhiệm vụ cụ thể, phát triển cách mạng và gia tăng sức mạnh cho giai cấp vô sản, mở rộng tầm ảnh hưởng của họ trên toàn Đông Dương.

Các nhiệm vụ cụ thể được đặt ra nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược gồm có:

-Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ

-Lập chính phủ công nông

Tịch thu toàn bộ ruộng đất của địa chủ ngoại quốc, địa chủ nội địa và các giáo hội, sau đó phân phối đất đai này cho nông dân trung và bần, nhằm chuyển quyền sở hữu ruộng đất về tay chính phủ đại diện cho công nông.

-Sung công hết thảy các sản nghiệp lớn của bọn tư bổn ngoại quốc

-Bỏ các sưu thuế hiện thời, lập ra thuế lũy tiến

-Ngày làm công tám giờ, sửa đổi sự sanh hoạt cho thợ thuyền và quần chúng lao khổ

-Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết

-Lập quân đội công nông

-Ủng hộ Liên bang Xôviết; liên kết với vô sản giai cấp toàn thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa và bán thuộc địa.

Lực lượng cách mạng tại Đông Dương chủ yếu bao gồm giai cấp vô sản, được xem là "động lực chính và rất mạnh của cách mạng", cùng với lực lượng nông dân.

“động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”, chiếm đại đa số ở Đông Dương.

Đảng xác định giai cấp tư bản thành hai bộ phận: một bộ phận hợp tác với đế quốc chủ nghĩa và bộ phận còn lại tìm cách thỏa hiệp với đế quốc để bảo vệ quyền lợi riêng, đồng thời lừa gạt quần chúng Quan điểm của Đảng cho rằng cả hai bộ phận này đều có ảnh hưởng nguy hiểm đến sự phát triển của cách mạng, do đó cần có sự tranh đấu kịch liệt để quần chúng nhận thức rõ tính chất phản cách mạng của giai cấp tư bản.

Bản Luận cương chỉ ra rằng giai cấp tiểu tư sản và trí thức ban đầu nằm trong vị trí quốc gia cách mạng, nhưng sau đó sẽ trở thành quốc gia cải lương, với mục tiêu chính là phát triển tư bản cho Đông Dương Khi phong trào cách mạng gia tăng, họ có khả năng từ bỏ cách mạng để hợp tác với đế quốc Do đó, Đảng cần phân biệt rõ ràng giữa Đảng cộng sản và các đảng phái tiểu tư sản, đồng thời đánh bại các xu hướng tiểu tư sản trong Đảng Tuy nhiên, Đảng cũng nên tận dụng mọi cơ hội để mở rộng phong trào cách mạng, có thể tạm hợp tác với các đảng phái tiểu tư sản chống đế quốc, nhưng luôn phải cẩn trọng và không ngăn cản việc tuyên truyền cộng sản trong quần chúng.

1.1.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc, Luận cương chính trị tháng 10/1930 chỉ ra sự phụ thuộc của kinh tế Đông Dương vào kinh tế của đế quốc chủ nghĩa Pháp và đồng thời cũng cho rằng “Xứ Đông Dương cần phải phát triển một cách độc lập, nhưng vì là thuộc địa cho nên không phát triển độc lập được” Luận cương cũng chỉ ra một đặc điểm khác của khu vực Đông

Dương thể hiện "sự mâu thuẫn giai cấp ngày càng kịch liệt", trong đó một bên là thợ thuyền, nông dân và các tầng lớp lao động, trong khi bên kia là địa chủ, phong kiến và đế quốc Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã khẳng định rằng việc giải quyết vấn đề dân tộc không chỉ giới hạn ở Việt Nam mà còn mở rộng ra toàn bộ Đông Dương.

Đảng đã nêu rõ cách thức đấu tranh cách mạng thông qua Luận cương, nhấn mạnh việc thực hiện bạo lực cách mạng và vũ trang bạo động dưới sự lãnh đạo của Đảng Đồng thời, Đảng lưu ý cần tránh tình trạng vũ trang bạo động quá sớm, mà tập trung huy động quần chúng tham gia bãi công và thị oai để chuẩn bị cho các cuộc vũ trang bạo động sau này Đảng khẳng định rằng cách mạng vô sản ở Đông Dương cần thiết phải có sự liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, đặc biệt là vô sản ở Pháp, nhằm tạo ra mặt trận vô sản.

“mẫu quốc” và thuộc địa nhằm tạo ra sức tranh đấu cho cách mạng.

Luận cương chính trị chỉ ra rằng mâu thuẫn cơ bản và gay gắt nhất trong xã hội là giữa nông dân, công nhân và các tầng lớp lao động nghèo với địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.

Thực hiện cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế, sau đó bỏ

Nhiệm vụ của cách mạng

Trong bối cảnh phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhiệm vụ chiến lược hướng tới con đường xã hội chủ nghĩa bao gồm hai nhiệm vụ quan trọng: chống đế quốc và phong kiến Hai nhiệm vụ này không chỉ có mối quan hệ khăng khít mà còn hỗ trợ lẫn nhau trong việc xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.

-Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa

Pháp, phong kiến và địa chủ

Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3-1935)

Sau năm năm thực hiện chiến lược theo Luận cương chính trị tháng 10/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đại hội diễn ra trong bối cảnh lực lượng cộng sản trong nước gần như bị tiêu diệt sau cuộc khủng bố trắng của Pháp, nhưng đang dần hồi phục Tại Đại hội, Đảng đã thông qua Nghị quyết về công tác phản đế liên minh.

Trong kì Đại hội lần thứ nhất, Đảng đã thừa nhận Luận cương chính trị tháng 10/1930, giữ nguyên nhiệm vụ chiến lược đã đề ra Đảng nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chống phong kiến và đế quốc Đại hội cũng đã thông qua Nghị quyết, đề ra ba nhiệm vụ chủ yếu cho toàn Đảng trong thời gian tới, bao gồm củng cố và phát triển Đảng, thu hút quần chúng lao động, và chống đế quốc chiến tranh.

Bản Nghị quyết đã xác định các nhiệm vụ cụ thể để thực hiện từng chiến lược, trong đó có hai nhiệm vụ quan trọng liên quan đến phát triển và củng cố Đảng.

Đảng cần củng cố lực lượng bằng cách kết nối với các bộ phận và cá nhân cộng sản chưa được liên lạc, đồng thời phân bổ lực lượng tới những khu vực chưa phát triển, đặc biệt là các khu công nghiệp và nhà máy lớn Mục tiêu là biến mỗi sản nghiệp thành một thành lũy của Đảng, nhưng cần có sự chọn lọc để tránh kết nạp những thành phần có tính xấu có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của Đảng Tiêu chí tuyển chọn Đảng viên phải vừa có tính quần chúng, vừa bao gồm những cá nhân đấu tranh kiên quyết và trung thành với chủ nghĩa cộng sản Điều lệ mới của Đảng quy định tổ chức các cơ quan chỉ đạo phù hợp với điều kiện bí mật, cần phân quyền và phân công rõ ràng, đồng thời duy trì mối liên kết với các đảng khác mà không để xảy ra sự lẫn lộn Đại hội cũng ủy quyền cho Ban Trung ương lập kế hoạch đào tạo cán bộ mới để chuẩn bị cho trường hợp cán bộ cũ bị bắt Ngoài ra, cần mở rộng tuyên truyền sách lược của Đảng trong quần chúng lao động, làm rõ chính sách bóc lột của đế quốc Pháp, truyền bá kinh nghiệm chống đế quốc và thông tin về thắng lợi ở Xôviết Liên bang và Xôviết Tàu.

Đảng chủ trương thống nhất lý thuyết và thực hành để bảo vệ sự trong sạch của chủ nghĩa Mác-Lênin, mở rộng tự kiểm điểm và chỉ trích bônsêvích trong các cấp đảng bộ nhằm phát hiện ưu điểm, khuyết điểm trong tổ chức Đồng thời, Đảng đấu tranh để vạch trần lý thuyết phản động và lý thuyết cách mạng tiểu tư sản không triệt để, giữ kỷ luật nghiêm ngặt, khai trừ những phần tử vi phạm đường lối chính trị và không chấp hành nghị quyết, điều lệ Cuối cùng, Đảng tăng cường sức tranh đấu chống lại các lực lượng cải lương quốc gia.

Về nhiệm vụ thâu phục quảng đại quần chúng, Đảng đề ra các mục tiêu:

Bênh vực quyền lợi của quần chúng lao động là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, cần phải đấu tranh chống lại các xu hướng đầu cơ và sự miệt thị đối với cuộc sống hàng ngày của họ Đồng thời, Đảng cũng cần vạch trần các hình thức bóc lột của đế quốc để quần chúng hiểu rõ hơn về tình hình thực tế mà họ đang phải đối mặt.

Củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng.

Đảng cần áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để thu hút quần chúng tham gia vào phong trào cộng sản, đồng thời giảm bớt ảnh hưởng của các lực lượng cải lương Việc tổ chức mặt trận thống nhất với quần chúng ở cấp cơ sở là rất quan trọng để đạt được mục tiêu này.

Chống lại chiến tranh đế quốc, chúng ta cần tích cực tuyên truyền để phơi bày bản chất giả dối của chính sách "hòa bình" mà đế quốc, đặc biệt là Pháp tại Đông Dương, đang áp dụng Đồng thời, việc huấn luyện quần chúng về các phương pháp đấu tranh chống chiến tranh đế quốc như bãi công, thị oai, biểu tình và bạo động vũ trang nhằm thiết lập chính quyền Xôviết là vô cùng quan trọng.

Lực lượng tham gia cách mạng theo Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất chủ yếu là quần chúng lao động, với sức mạnh của Đảng dựa vào ảnh hưởng trong cộng đồng Đảng cần duy trì mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng và tích cực lôi kéo họ từ các tổ chức quốc gia cải lương, phản động hoặc đảng phái tiểu tư sản về phía cộng sản Thắng lợi của các phong trào đấu tranh phụ thuộc vào khả năng tranh đấu của giai cấp vô sản và quần chúng lao động; nếu không bảo vệ quyền lợi cho quần chúng và tổ chức họ, ảnh hưởng của Đảng sẽ suy yếu, dẫn đến thất bại trong đấu tranh.

1.2.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc trong Nghị quyết tương đồng với Luận cương chính trị tháng 10/1930, với cuộc tranh đấu của giai cấp vô sản diễn ra trên toàn Đông Dương Đại hội nhận định rằng vận động cách mạng tại đây sẽ ngày càng mở rộng và sâu sắc hơn Nếu nghị quyết được thảo luận và thực hành rộng rãi trong các đảng, nhân dân Đông Dương sẽ nắm chắc thắng lợi trong tay.

Nhiệm vụ của cách mạng

Thực hiện cách mạng tư sản dân quyền với đặc điểm thổ địa và phản đế, Việt Nam đã bỏ qua giai đoạn tư bản để tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa Hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến có mối liên hệ chặt chẽ, tạo nền tảng cho sự phát triển của đất nước.

Nhiệm vụ cụ thể Đảng tập trung thực hiện ba nhiệm vụ chủ yếu bao gồm: -Củng cố và phát triển Đảng

-Thâu phục quảng đại quần chúng lao động

-Chống đế quốc chiến tranh Lực lượng cách mạng Công nhân, nông dân và các phần tử lao khổ Phạm vi giải quyết vấn đề Trên toàn Đông Dương

Nghị quyết cho thấy Đảng đã có những chủ trương hợp lý với tình hình thực tế, nhưng vẫn chưa khắc phục được những hạn chế của Luận cương chính trị Tại Đại hội lần thứ Nhất, Đảng thừa nhận Luận cương chính trị tháng 10/1930, dẫn đến việc vẫn giữ quan điểm sai lầm từ bản luận cương này.

Luận cương dẫn đến việc chưa khắc phục được các mặt hạn chế sau:

-Chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, trong khi đó vẫn đề cao vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp.

-Chưa đề ra chiến lược phù hợp cho việc tập hợp lực lượng rộng rãi trên phạm vi toàn dân tộc.

Trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, quyền tự quyết của dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, khi mà phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc vẫn còn bị giới hạn trên toàn Đông Dương.

Tiểu kết

Hai văn kiện Luận cương chính trị tháng 10/1930 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3-1935) đã xác định chiến lược đấu tranh và phương thức cách mạng, nhưng vẫn còn hạn chế trong việc điều chỉnh chiến lược phù hợp với tình hình thực tiễn của từng quốc gia Việc mở rộng phạm vi giải quyết vấn đề ra toàn khu vực Đông Dương đã dẫn đến nhiều chiến lược không phù hợp, đặc biệt ở Việt Nam, nơi Đảng đã bỏ qua nhiều lực lượng tranh đấu tiềm năng do thiếu hiểu biết về bối cảnh và mâu thuẫn địa phương Nghị quyết năm 1935 không khắc phục được những hạn chế của Luận cương chính trị, khi cả hai vẫn đứng trên quan điểm sai lầm, không phản ánh đúng thực tiễn cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1930-1935.

Giai đoạn 2 (1936-1938)

Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7-1936)

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước tư bản chủ nghĩa đối mặt với thiệt hại nặng nề về người và tài sản, dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế 1923-1933 Sự khủng hoảng này đã tạo điều kiện cho các chính sách bóc lột tàn bạo của các cường quốc, làm gia tăng mâu thuẫn nội tại trong hệ thống tư bản Trong bối cảnh hỗn loạn này, chủ nghĩa Phát xít nổi lên như một giải pháp mới, phù hợp với nền kinh tế quân phiệt hóa của các quốc gia, dẫn đến sự thành công rực rỡ của nó trên toàn cầu.

Tuy nhiên, bên dưới bề mặt là những chính sách cai trị tàn bạo chưa từng có, tạo ra nguy cơ cho cuộc chiến tranh thế giới tiếp theo Để mở rộng sức mạnh và gia tăng ảnh hưởng, các tập đoàn phát xít Đức, Ý và Nhật đã liên minh thành một trục đối kháng trực tiếp với Quốc tế Cộng sản.

Các quốc gia còn lại đang đối mặt với nguy cơ bị chiếm đoạt và nổi dậy, trong khi Mặt trận nhân dân Pháp đã giành thắng lợi và nắm quyền, trở thành tấm gương cho phong trào đấu tranh toàn cầu Chính quyền mới của Pháp đã trao cho các nước thuộc địa quyền tự do và dân chủ cơ bản, tạo động lực lớn cho Đảng ta mạnh dạn đưa ra yêu sách về quyền dân chủ và dân sinh.

Tình hình trong nước và khu vực

Nền kinh tế của chúng ta, với tư cách là một nước thuộc địa, phụ thuộc lớn vào mẫu quốc, và khi Pháp gặp khó khăn, họ đã gia tăng việc khai thác tài nguyên và bóc lột con người Lực lượng phản động ở Đông Dương không ngừng vơ vét, khủng bố và đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, thực hiện các cuộc tấn công nhắm vào những người ủng hộ Cách mạng hoặc chỉ cần bị nghi ngờ có tinh thần Xã hội.

Chủ nghĩa đã dẫn đến sự đàn áp, bắt bớ, và thậm chí là thảm sát, khiến tinh thần cách mạng giảm sút Nhiều người e ngại không dám tham gia khởi nghĩa Tuy nhiên, các giai cấp trong nước vẫn đồng lòng với mong muốn bức thiết về tự do, dân chủ, dân sinh, cơm áo, và hòa bình.

Đảng nhận định rằng, trong bối cảnh thuộc địa như Đông Dương, việc chỉ tập trung vào phát triển cuộc đấu tranh giai cấp có thể gây khó khăn cho phong trào giải phóng dân tộc Hệ thống tổ chức Đảng và cơ sở cách mạng đã được phục hồi, lực lượng đã sẵn sàng Nhằm chống lại bọn phản động thuộc địa và phát xít, Đảng đã phát động phong trào đấu tranh mới với chủ trương đòi quyền dân chủ dân sinh Vào tháng 7-1936, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã được tổ chức tại Thượng Hải, Trung Quốc.

Lê Hồng Phong chủ trì đã đề ra đường lối rõ ràng dựa trên Nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản.

Cách mạng Đông Dương tập trung vào ba mục tiêu chính: chống thực dân, giành quyền sở hữu ruộng đất, thiết lập chính quyền của công nông, và chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Dựa vào tình hình hiện tại, lực lượng và chính trị chưa đủ mạnh để đối phó vũ trang với thực dân Pháp, chúng ta cần tập trung vào những nhu cầu bức thiết như “tự do, dân chủ và cải thiện đời sống” Những yêu cầu tối thiểu về tự do dân chủ, mặc dù chưa đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của nhân dân, nhưng có thể tạo ra những bước tiến quan trọng cho xã hội.

Theo Văn kiện Đảng toàn tập - tập 6 (Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, tr 73), một số điều kiện thuận lợi đã được xác định cho hoạt động của quần chúng và Đảng, từ đó tạo nền tảng cho việc tranh đấu vì những yêu cầu cao hơn Đảng cũng đã nhận thức rằng nhiệm vụ chiến lược hiện tại chưa thể thực hiện, do đó đã đề ra một nhiệm vụ cụ thể phù hợp với giai đoạn hiện tại.

Nhiệm vụ trực tiếp: Chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, dân chủ, dân sinh, cơm áo, hòa bình.

2.1.3 Lực lượng cách mạng Đứng trước sự rời rạc của các Đảng “chỉ tồn tại trên giấy” và thực tế lực lượng quần chúng nhân dân chưa đông đảo ủng hộ cách mạng, “Sách lược mới của Quốc tế Cộng sản là đúng và cuộc tranh đấu để thành lập Mặt trận dân tộc các nước thuộc địa là nhiệm vụ cần thiết đầu tiên và đặc biệt cấp bách đối với đời sống chính trị quốc tế hiện nay.” 3

Mặt trận dân tộc phản đế được thành lập để đáp ứng nhu cầu về lực lượng, tập hợp tất cả công dân Việt Nam và quốc tế yêu hòa bình, cùng nhau cống hiến cho sự nghiệp lớn của dân tộc Tổ chức này khuyến khích mọi người vượt qua sự khác biệt về xuất thân, giai cấp và chủng tộc để đạt được những mục tiêu chung cao cả.

Mặt trận dân tộc phản đế cần trở thành tổ chức công khai, đại diện cho đông đảo quần chúng Tổ chức này bao gồm tất cả các đảng phái và tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, từ người Pháp, người Việt, người Lào đến các dân tộc thiểu số khác, miễn là họ cùng nhau đấu tranh thực hiện những yêu cầu đã được nêu ra.

2Văn kiện Đảng toàntập - tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 75

3Văn kiện Đảng toàntập - tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 79

4Văn kiện Đảng toàntập - tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 81

2.1.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Để đối phó với tình hình cấp bách, Đảng đã mở rộng phạm vi hoạt động ra toàn Đông Dương, kết nối các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa Mục tiêu là xây dựng một lực lượng đoàn kết mạnh mẽ, theo phương châm “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, nhằm từng bước chống lại thực dân.

Trước đây, Đảng được coi là tổ chức bất hợp pháp và phản động, dẫn đến các phong trào đấu tranh không công khai Tuy nhiên, sự không công khai này đã hạn chế khả năng của đông đảo dân chúng trong việc tiếp cận chính sách và tư tưởng của Đảng Do đó, Đảng đã mở rộng hình thức đấu tranh sang đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, đồng thời duy trì nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức cũng như hoạt động bí mật của mình.

Chống thực dân Pháp và phong kiến luôn là nhiệm vụ quan trọng trong phong trào cách mạng Tuy nhiên, trước tình hình giặc đói và giặc dốt hoành hành, Đảng đã đặt ra nhu cầu cấp thiết hơn: “Chống Phát xít, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo” Khi mà con người đang đói, họ khó có thể nghĩ đến cách mạng, vì trước mắt vẫn là nhu cầu lấp đầy bụng và ấm áo.

Những chính sách, quyền lợi Đảng đòi hỏi Chính phủ Mặt trận dân chúng thống nhất bên Pháp phải thực hiện ngay lập tức:

Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10-1936)

Sau khi Đảng hoàn thiện chính sách cho cuộc đấu tranh giành dân chủ và dân sinh, chúng ta cần xác định các nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới Điều này liên quan đến mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chính: phản đế và điền địa, cũng như giữa dân tộc và dân chủ.

2.2.2 Nhiệm vụ cách mạng Ở văn kiện này đề ra hai nhiệm vụ chính cần được phổ cập rộng rãi với các Đảng viên:

Đảng xác định rõ rằng kẻ thù nguy hiểm nhất hiện nay là đế quốc Pháp, đồng thời nhấn mạnh rằng chủ nghĩa phát xít và các lực lượng phản cách mạng, cùng với tay sai của chúng, là những kẻ thù trực tiếp cần phải bị loại bỏ Điều này khác với quan niệm của Tờrốtxky, khi cho rằng tư bản bản xứ là kẻ thù chính.

Hai mục tiêu “Phản đế và điền địa” không nhất thiết phải thực hiện đồng thời Tùy thuộc vào mâu thuẫn nổi trội và tình hình cụ thể của từng khu vực, địa phương mà có thể ưu tiên cho nhiệm vụ nào trước.

2.2.3 Lực lượng cách mạng Đảng vẫn chủ trương huy động lực lượng toàn dân tham gia ủng hộ phong trào, đặc biệt nhất là tư bản bản xứ, hơn nữa chú trọng việc lập linh minh công-nông để giai cấp thợ thuyền không hoạt động riêng lẻ, dễ bị trấn áp.

Chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương nhấn mạnh rằng mục tiêu không phải là chống lại người Pháp, mà chỉ chống lại chủ nghĩa đế quốc Pháp Đảng khẳng định sự liên kết chặt chẽ với giai cấp vô sản Pháp và các tổ chức lao động tại Pháp như những đồng minh trung thành và lâu dài Đồng thời, Đảng cũng cam kết duy trì mối quan hệ với các phái khác và các cá nhân trong Mặt trận nhân dân Pháp tại Đông Dương.

2.2.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Hai văn kiện được công bố chỉ cách nhau ba tháng, vì vậy chúng không có nhiều điểm khác biệt Tuy nhiên, văn kiện về chiến sách mới đã bổ sung một nội dung quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến cuộc cách mạng "Cuộc dân tộc giải phóng".

16 Văn kiện Đảng toàn tập - tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 141

Trong tập 6 của "Văn kiện Đảng toàn tập" (Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, tr 149), có nhấn mạnh rằng việc gắn kết chặt chẽ với cuộc cách mạng điền địa là điều cần thiết Đây là minh chứng cho việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác - Lê-nin vào phong trào cách mạng của dân tộc Đảng đã chỉ ra rằng nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn cản cuộc đấu tranh chống đế quốc, cần phải xác định vấn đề quan trọng hơn để giải quyết trước, tức là chọn đối thủ chính, nguy hiểm nhất, nhằm tập trung sức mạnh của toàn dân tộc để đạt được thắng lợi hoàn toàn.

Tiểu kết

Cao trào dân chủ 1936-1939 đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị cho các cuộc đấu tranh sau này Nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương là đánh đuổi thực dân Pháp và loại bỏ tàn tích phong kiến, nhằm đạt được sự độc lập hoàn toàn cho Đông Dương.

Mặt trận nhân dân phản đế hiện tại chưa có nhiệm vụ trực tiếp, mà nhiệm vụ cụ thể được xác định là chống lại chế độ phản động thuộc địa và phát xít Đồng thời, Mặt trận cũng đấu tranh cho tự do, dân chủ, dân sinh, cơm áo và hòa bình.

Chủ trương mới của Đảng đã khéo léo giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và dân chủ, thể hiện sự linh hoạt và nhạy bén trong việc thực hiện các nhiệm vụ phản đế và điền địa, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.

Giai đoạn này đánh dấu sự trưởng thành trong chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh, tinh thần đoàn kết và yêu chuộng hòa bình của dân tộc Hình thức đấu tranh đã chuyển đổi từ bí mật sang công khai, giúp nhân dân dễ dàng tiếp cận với cách mạng hơn.

So với Cương lĩnh tháng 10-1930, ngoài nhiệm vụ lớn của cách mạng là cách mạng tư

18 Vănkiện Đảng toàntập - tập6, Nhàxuất bảnchính trịquốcgiaHàNội (2000), tr 151

19 Vănkiện Đảng toàntập - tập6, Nhàxuất bảnchính trịquốcgiaHàNội (2000), tr 152

Tập 6 của "20 Văn kiện Đảng Toàn tập" do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội phát hành năm 2000, trang 152, đề cập đến vấn đề sản dân quyền, phản đế và điền địa, cũng như việc thành lập chính quyền công nông thông qua hình thức Xô viết Tài liệu nhấn mạnh rằng những điểm tiến bộ này nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tương lai.

Đảng đã thể hiện tư tưởng linh hoạt trong chính sách, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu của Quốc tế III, mà luôn mạnh dạn đề xuất và thực hiện những biện pháp phù hợp với tình hình dân tộc.

Mục tiêu thay đổi phù hợp với hoàn cảnh hiện tại bao gồm quyền tự do, dân chủ, dân sinh, cơm áo và hòa bình, thể hiện tính nhân văn và thực tiễn trong giai đoạn này.

Hình thức đấu tranh đã được mở rộng từ bí mật sang công khai và bán công khai, bao gồm các hoạt động như bãi công, mít tinh, và xuất bản nhiều tờ báo như Dân chúng, Tiền phong, đặc biệt là thông qua đấu tranh nghị trường.

Thứ tư, cách mạng tiếp cận rộng rãi hơn với nhiều người, không còn e dè, né tránh giai cấp tư bản bản địa, địa chủ yêu nước.

Vào thứ năm, Đảng ta đã thể hiện sự linh hoạt và thông minh hơn trong việc ủng hộ chính phủ Lêông Blum Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng không nên có ảo tưởng về việc chính phủ này sẽ mang lại cho chúng ta nền độc lập và tự do một cách hào phóng.

21 Văn kiện Đảng toàn tập - tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 83

GIAI ĐOẠN (1939-1945)

Hội nghị ban chấp hành trung ươngĐảng 11/1939

Tình hình thế giới và trong nước:

Vào tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, dẫn đến sự tan rã của mặt trận nhân dân Pháp do các chính sách tham chiến khắc nghiệt và sự thao túng lực lượng dân chủ Chính quyền Pháp không chỉ phát xít hóa bộ máy cai trị mà còn đàn áp mạnh mẽ phong trào cách mạng, đặc biệt là Đảng Cộng sản Đông Dương Đồng thời, họ cũng gia tăng việc thu gom tài sản và bắt lính phục vụ cho chiến tranh đế quốc Đến năm 1940, phát xít Đức tấn công và chiếm quyền kiểm soát Pháp, khiến Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Mất đi một người anh em trong cách mạng, Đảng cảm thấy như mất đi một điểm tựa tinh thần vững chắc Hơn nữa, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách thống trị phản động trong thời chiến, thể hiện qua xu hướng phát xít hóa bộ máy cai trị và lệnh tổng động viên nhằm khai thác kinh tế thuộc địa.

Chỉ trong thời gian ngắn, khoảng 80.000 binh lính Việt Nam đã bị đưa sang chiến trường châu Âu, gây ra tình trạng sống ngột ngạt về chính trị và bần cùng về kinh tế cho các tầng lớp nhân dân lao động Mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp và tay sai ngày càng trở nên căng thẳng Để đối phó với tình hình này, Đảng đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Từ ngày 6 đến 8-11-1939, Trung ương Đảng đã họp tại Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, nhằm phân tích và đề ra các chủ trương mới trong bối cảnh hiện tại, với sự tham gia của các đồng chí Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu và nhiều lãnh đạo khác.

Về nhiệm vụ chiến lược:

Trong bối cảnh lịch sử mới, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương là giải phóng dân tộc, xác định kẻ thù nguy hiểm nhất là chủ nghĩa đế quốc và tay sai phản bội Cần đánh đổ đế quốc Pháp cùng bè lũ tay sai, chống lại mọi hình thức xâm lược, bất kể màu da, nhằm giành độc lập Từ lập trường giải phóng dân tộc, quyền lợi dân tộc được đặt lên hàng đầu, và mọi vấn đề của cuộc cách mạng, kể cả vấn đề đất đai, đều phải hướng tới mục tiêu này.

Về nhiệm vụ cụ thể:

Đầu tiên, cần tạm ngừng sử dụng khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” và thay thế bằng các khẩu hiệu nhấn mạnh việc chống lại địa tô cao, chống cho vay lãi nặng, đồng thời tịch thu ruộng đất của đế quốc và các địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc để phân chia cho nông dân.

Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương được thành lập nhằm thu hút mọi tầng lớp, dân tộc, đảng phái và cá nhân yêu nước trong khu vực, với mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp và các thế lực tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.

Vào thứ ba, hội nghị đã quyết định tạm ngừng sử dụng khẩu hiệu "lập chính quyền Xô viết công-nông-binh" và thay thế bằng khẩu hiệu "lập chính quyền cộng hòa dân chủ" Đây là hình thức nhà nước chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng và phong trào giải phóng dân tộc.

Tập hợp sức mạnh của toàn thể dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước tại Đông Dương là điều cần thiết Tất cả các giai cấp, ngoại trừ bọn phong kiến và một số phần tử phản động trong tầng lớp địa chủ và tư sản, cùng với tất cả các đảng phái, trừ những kẻ phản bội quyền lợi dân tộc, đều phải chịu đựng những tác hại tàn khốc từ đế quốc chiến tranh Sự căm phẫn đối với kẻ thù chung, đó là chủ nghĩa đế quốc, là điều mà mọi người đều cảm nhận sâu sắc.

3.1.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

22 Văn kiện Đảng Toàn tập - tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (2000) tr 756

23 Văn kiện Đảng toàn tập - tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 536

Khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận thức rõ về mâu thuẫn cơ bản trong xã hội thuộc địa và nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa Tại Hội nghị diễn ra vào ngày 6, 7, 8/11/1939, Đảng đã khẳng định rằng toàn Đảng cần đứng trên lập trường cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời điều hòa các cuộc đấu tranh của các giai cấp người bản xứ trong phong trào chung của dân tộc Hội nghị này đã đáp ứng đúng yêu cầu lịch sử, khởi động giai đoạn vận động giải phóng dân tộc cho nhân dân.

Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 11/1940

Hội nghị diễn ra từ ngày 6 đến 9 tháng 11 năm 1940, trong bối cảnh Pháp và Nhật mặc dù có mâu thuẫn nhưng vẫn hợp tác chặt chẽ để áp bức và bóc lột nhân dân Đông Dương Tình hình này đã đẩy các tầng lớp nhân dân vào cảnh khốn cùng, làm gia tăng mâu thuẫn giữa dân tộc ta và chủ nghĩa đế quốc phát xít.

Ngày 17-1-1940, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt Nhiều đồng chí Trung ương cũng sa vào tay giặc.

Hơn một tháng sau khi Nhật Bản tiến vào Đông Dương, Hội nghị cán bộ Trung ương được tổ chức vào tháng 11 năm 1940 tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, với sự tham gia của các đồng chí Trường.

Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh.

Về nhiệm vụ chiến lược:

Hội nghị đã nhận định rằng cuộc chiến tranh thế giới đang lan rộng và trở nên ác liệt hơn, trong khi đế quốc Pháp đã thất bại Điều này tạo điều kiện cho phát xít Nhật mở rộng chiến tranh và chiếm đoạt các thuộc địa.

Pháp, Mỹ và Anh đang có mặt tại Viễn Đông, trong bối cảnh cuộc chiến tranh đế quốc có khả năng chuyển thành cuộc xung đột giữa phát xít và Liên Xô Những thế lực đế quốc hung hãn sẽ nhanh chóng bị Hồng quân đánh bại.

Liên Xô và cách mạng thế giới đã bị tiêu diệt, đặt ra nhiệm vụ quan trọng cho Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang nhằm giành lại quyền tự do và độc lập.

Về nhiệm vụ cụ thể:

Mở rộng mặt trận phản đế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, bao gồm việc tổ chức các đội tự vệ và trang bị vũ khí cho người dân Cần thiết lập lực lượng nhân dân cách mạng quân để tiến tới vũ trang bạo động.

Tại hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh rằng cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa cần phải diễn ra đồng thời, không thể thực hiện cái này trước cái kia Mặc dù khẩu hiệu cách mạng phản đế và giải phóng dân tộc đang được ưu tiên hơn, nhưng nếu không thực hiện cách mạng thổ địa, thành công của cách mạng phản đế sẽ gặp khó khăn.

Thứ ba, phải lựa chọn người trong các đoàn thể Mặt trận đặng mở rộng các đội tự vệ.

Trong thời điểm đấu tranh khốc liệt, Mặt trận cần trang bị vũ khí cho nhân dân và phối hợp với Đảng để tổ chức lực lượng cách mạng, tham gia trực tiếp vào việc lãnh đạo các hoạt động bạo động.

Nhân dân Đông Dương đã duy trì và phát triển lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập các đội du kích để thực hiện công tác vũ trang Họ sẵn sàng chiến đấu chống khủng bố nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của nhân dân.

3.2.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Liên minh giữa các lực lượng cách mạng phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo nhằm thống nhất hành động để đấu tranh vũ trang, đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm, hướng tới việc giải phóng hoàn toàn Đông Dương.

24 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 536, 538.

25 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang 81.

Tiến đến đấu tranh vũ trang đồng thời vẫn kết hợp các hình thức bí mật, nửa bí mật, công khai, nửa công khai.

Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” để tập trung vào việc “tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, chống lãi nặng” Mục tiêu trước mắt được đặt ra là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc ở Đông Dương, với nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ưu tiên hàng đầu nhằm đạt được độc lập hoàn toàn cho Đông Dương.

Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 khẳng định rằng "Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế" là sự liên minh giữa các lực lượng cách mạng chống đế quốc, không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc hay tôn giáo Mục tiêu của liên minh này là thống nhất hành động để tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang, đánh đổ các thế lực đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động, nhằm bảo vệ quyền lợi dân tộc và xây dựng một Đông Dương độc lập.

Dương được hoàn toàn giải phóng”.

Hội nghị tháng 11/1940 đã khẳng định sự cần thiết phải chuyển hướng trong chỉ đạo chiến lược, nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc Việc tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất từ Hội nghị Trung ương Đảng năm 1939 được coi là một quyết định đúng đắn.

3.3 Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941

Mặc dù có mâu thuẫn, Pháp và Nhật vẫn hợp tác chặt chẽ để áp bức và bóc lột nhân dân Đông Dương, khiến họ rơi vào tình trạng cực khổ Sự mâu thuẫn giữa dân tộc ta và chủ nghĩa đế quốc phát xít ngày càng sâu sắc Nhiều cuộc đấu tranh đã diễn ra, nổi bật là khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940), và cuộc binh biến Đô Lương (13/1/1941) Mặc dù bị đàn áp và phải chịu nhiều tổn thất, những cuộc đấu tranh này đã thể hiện tinh thần yêu nước mạnh mẽ và để lại cho cách mạng những bài học kinh nghiệm quý báu.

Vào ngày 28-1-1941, trước tình hình khẩn trương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước và làm việc tại Cao Bằng Đến tháng 5-1941, ông chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tại đó, đồng chí Trường Chinh được bầu làm tổng bí thư.

Về nhiệm vụ chiến lược:

Tiểu kết

Trong giai đoạn 1939-1945, Đảng ta đã xác định rõ mâu thuẫn cơ bản và kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp - Nhật, khẳng định cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc với lực lượng toàn dân Việt Nam Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh được thành lập, bao gồm mọi tầng lớp, tổ chức chính trị, giai cấp, tôn giáo, dân tộc và lứa tuổi Đảng Cộng sản Đông Dương là hạt nhân lãnh đạo của Việt Minh Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc thông qua khởi nghĩa vũ trang từng phần, giành chính quyền từng địa phương để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa Đường lối chiến lược cách mạng được đúc kết từ các Hội nghị Trung ương là sự kế thừa và phát triển tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”.

Năm 1927, Cương lĩnh Cách mạng đầu tiên của Đảng, bao gồm Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình vắn tắt, đã được chính Người dự thảo Hội nghị thành lập Đảng vào ngày 3/2/1930 đã thông qua tài liệu quan trọng này.

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 vào tháng 5 năm 1941 đã hoàn thiện chiến lược và sách lược cách mạng được đề ra tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 vào tháng 11 năm 1939 Sự kiện này thể hiện sự phát triển sáng tạo trong chủ trương và đường lối lãnh đạo của Đảng, đóng vai trò quyết định trong việc mobilize toàn Đảng và toàn dân, chuẩn bị cho cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương đã thay thế Ban chấp hành Trung ương lâm thời, trình bày luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhằm thảo luận trong Đảng Tài liệu này thay thế cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt tại Việt Nam, Lào và Cao Miên.

Cuộc cách mạng Đông Dương được xác định là cuộc "cách mạng tư sản dân quyền", với nhiệm vụ chủ yếu là đánh đổ di tích phong kiến và chủ nghĩa đế quốc Pháp để đạt được độc lập cho Đông Dương Luận cương nhấn mạnh rằng hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng, vì chỉ có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới có thể phá vỡ các giai cấp địa chủ và thực hiện cách mạng ruộng đất thành công Tuy nhiên, vào tháng 12/1930, Trung ương tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, chỉ rõ địa chủ là "thù địch của dân cày" và liên kết với đế quốc để bóc lột Giai cấp tư sản cũng bị chỉ trích, với một bộ phận đã phản cách mạng và một bộ phận khác tìm cách thỏa hiệp với đế quốc.

Trong bối cảnh cách mạng phát triển, Ban thường vụ Trung ương đã nhấn mạnh việc "tiêu diệt địa chủ" và tịch thu ruộng đất để giao cho bần nông và trung nông Tuy nhiên, nhận thức này chưa phù hợp với thực tiễn xã hội thuộc địa Việt Nam và chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc kéo dài đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất vào tháng 3 năm 1935 Để thích ứng với tình hình, Đảng đã thực hiện nguyên tắc "tự chỉ trích" với tinh thần kỷ luật và dân chủ tập trung, nhằm bảo vệ uy tín Đảng và ngăn chặn việc lợi dụng tự chỉ trích để gây bè phái Qua đó, Đảng đã quyết tâm loại bỏ các khuynh hướng hữu khuynh, tả khuynh, cũng như các hành động cô độc và quan liêu, nhằm giữ vững vai trò tiên phong trong cuộc cách mạng.

Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc.

Vào ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã phê phán những biểu hiện giáo điều trong việc phân tích giai cấp xã hội thuộc địa, nhấn mạnh rằng ở Đông Dương, nếu chỉ tập trung vào đấu tranh giai cấp, sẽ gặp khó khăn trong việc mở rộng phong trào giải phóng dân tộc Đến tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng đã chỉ ra rằng cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải liên kết chặt chẽ với cách mạng điền địa; việc đánh đổ đế quốc không nhất định phải đi đôi với phát triển cách mạng điền địa Họ cũng lưu ý rằng nếu cuộc đấu tranh chia đất cản trở cuộc chiến chống đế quốc, cần phải xác định vấn đề nào quan trọng hơn để giải quyết trước.

Nghĩa là chọn địch nhân (kẻ thù) chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Trong giai đoạn 1930-1945, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng đã sáng tạo ra mặt trận dân tộc thống nhất, phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam, nhằm hiện thực hóa tư tưởng của V Lênin rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Đảng đã tuyên truyền và tổ chức toàn dân trong mặt trận này để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc Chín tháng sau khi thành lập, vào ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị thành lập Hội “Phản đế đồng minh”, nhấn mạnh rằng cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương chỉ có thể thành công khi toàn dân được tổ chức thành một lực lượng rộng rãi và kín kẽ Chỉ thị cũng chỉ trích những quan điểm hẹp hòi trong phong trào đấu tranh.

Trong quá trình xây dựng và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, cần chú trọng đến việc tổ chức cách mạng không chỉ dừng lại ở công nông Việc thiếu một tổ chức rộng rãi, có khả năng thu hút các tầng lớp trí thức, tư sản và những địa chủ có tư tưởng chống Pháp là một trở ngại lớn Để động viên toàn dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, cần tạo ra một mặt trận bao gồm tất cả các tầng lớp xã hội, từ trí thức đến những người có tư tưởng yêu nước, nhằm hướng tới mục tiêu độc lập quốc gia.

Vào ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước và sau một thời gian chuẩn bị, đã triệu tập Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941 Tại hội nghị, các đại biểu đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm và tính chất của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời dự đoán rằng phe phát xít sẽ thất bại, trong khi phe Đồng minh chống phát xít sẽ giành chiến thắng chắc chắn.

Đảng ta xác định rằng cách mạng Việt Nam giai đoạn này mang tính chất giải phóng dân tộc, là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng hàng đầu Do đó, Hội nghị đã quyết định tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” và thay thế bằng khẩu hiệu mới: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đã đưa ra quyết định quan trọng về việc giải quyết vấn đề dân tộc trong từng quốc gia trên bán đảo Đông Dương, nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc Để thực hiện điều này, hội nghị chủ trương thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi tại mỗi nước, trong đó Việt Nam có mặt trận mang tên "Việt Nam độc lập đồng minh" (Việt Minh) Hội nghị cũng nhấn mạnh việc xúc tiến công tác chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân Bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi đã được xác định, cùng với sáu nhiệm vụ cần thực hiện để củng cố và phát triển lực lượng cách mạng, nhằm đảm bảo thành công cho cuộc khởi nghĩa.

Hội nghị Trung ương 8 đã đưa ra phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng, chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần để giành chính quyền tại các địa phương, từ đó mở đường cho tổng khởi nghĩa Nhiệm vụ xây dựng Đảng được đặt ra nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) kế thừa và phát triển tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của Đảng trong lãnh đạo chính trị và đổi mới tư duy Đây là nền tảng vững chắc giúp Đảng vượt qua các bệnh giáo điều, đồng thời là ánh sáng dẫn đường cho toàn dân giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày đăng: 07/03/2022, 15:24

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w