Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn
Giai đoạn 1 (1930-1935)
Luận cương chính trị tháng 10/1930
Tình hình thế giới vào thời điểm đó có sự liên quan chặt chẽ đến Cách mạng ở khu vực Đông Dương Sự thành công của cuộc cách mạng vô sản Nga đã tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ, làm lan rộng tư tưởng cộng sản trên toàn cầu Đồng thời, phong trào vô sản cũng diễn ra mạnh mẽ tại các nước đế quốc với nhiều cuộc bãi công quy mô lớn ở Đức, Pháp, Ba Lan, và ở các nước thuộc địa, nhiều cuộc cách mạng đã nổi lên, đạt đến trình độ cao trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Tình hình trong nước và trong khu vực:
Luận cương đã nêu rõ tình hình Đông Dương với những mâu thuẫn gay gắt giữa các giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Dân cày phải đối mặt với đói khổ và địa tô cao, dẫn đến sự phụ thuộc ngày càng tăng vào tư bản Tương tự, thợ thuyền cũng chịu đựng sự bóc lột tàn bạo từ giai cấp tư bản tại các đồn điền và hầm mỏ.
Lực lượng cách mạng ở Đông Dương đang tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, mở rộng hàng ngũ công nông Các cuộc cách mạng ở khu vực Châu Á cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào Đông Dương, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới Trước xu hướng cách mạng bùng nổ, Luận cương chính trị tháng 10/1930 do đồng chí Trần Phú và các đồng chí khác soạn thảo đã được chuẩn bị cho hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng diễn ra từ ngày 14-30/10/1930 Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng, dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Phú, đã thông qua nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ của Đảng.
8 cũng như thảo luận về Luận cương chính trị của Đảng, điều lệ Đảng và điều lệ tổ chức quần chúng
Luận cương đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Đông Dương là thực hiện “cách mạng tư sản dân quyền” với đặc điểm “thổ địa và phản đế” Sau khi giành thắng lợi, cách mạng sẽ tiến lên con đường cách mạng vô sản, bỏ qua giai đoạn tư bản và trực tiếp đấu tranh cho xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng bao gồm việc đánh đổ các di tích phong kiến và các hình thức bóc lột tư bản, đồng thời thực hiện cách mạng thổ địa triệt để Bên cạnh đó, cần đấu tranh để lật đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, nhằm đạt được độc lập hoàn toàn cho Đông Dương Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ mật thiết với nhau, đòi hỏi phải có các bước nhiệm vụ cụ thể để phát triển cách mạng và gia tăng sức mạnh cho giai cấp vô sản, từ đó mở rộng tầm ảnh hưởng của họ trên toàn Đông Dương.
Các nhiệm vụ cụ thể được đặt ra nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược gồm có:
-Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ
-Lập chính phủ công nông
Tịch thu toàn bộ ruộng đất của các địa chủ ngoại quốc, địa chủ trong nước và các giáo hội, sau đó chuyển giao cho trung nông và bần nông Quyền sở hữu ruộng đất sẽ thuộc về chính phủ công nông.
-Sung công hết thảy các sản nghiệp lớn của bọn tư bổn ngoại quốc
-Bỏ các sưu thuế hiện thời, lập ra thuế lũy tiến
-Ngày làm công tám giờ, sửa đổi sự sanh hoạt cho thợ thuyền và quần chúng lao khổ
-Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết
-Lập quân đội công nông
-Ủng hộ Liên bang Xôviết; liên kết với vô sản giai cấp toàn thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa và bán thuộc địa
Lực lượng cách mạng ở Đông Dương chủ yếu bao gồm giai cấp vô sản, được xem là động lực chính và mạnh mẽ cho cuộc cách mạng, cùng với lực lượng dân cày, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho phong trào cách mạng trong khu vực.
“động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”, chiếm đại đa số ở Đông Dương
Đảng xác định giai cấp tư bản thành hai bộ phận: một bộ phận hợp tác với đế quốc chủ nghĩa và bộ phận còn lại tìm cách thỏa hiệp với đế quốc để bảo vệ quyền lợi riêng, đồng thời lừa gạt quần chúng Quan điểm của Đảng về cả hai bộ phận này là chúng đều có ảnh hưởng nguy hiểm đối với sự phát triển của cách mạng, do đó cần phải đấu tranh mạnh mẽ để quần chúng nhận thức rõ tính chất phản cách mạng của giai cấp tư bản.
Giai cấp tiểu tư sản và trí thức ban đầu có vai trò trong cuộc cách mạng quốc gia nhưng sau đó dần chuyển sang cải lương, chỉ nhằm phát triển tư bản cho Đông Dương Khi phong trào cách mạng mạnh lên, họ sẽ từ bỏ cách mạng để hợp tác với đế quốc Do đó, Đảng cần phân biệt rõ giữa Đảng cộng sản và các đảng phái tiểu tư sản, đồng thời loại bỏ các xu hướng tiểu tư sản trong nội bộ Tuy nhiên, Đảng cũng cần tận dụng mọi cơ hội để mở rộng phong trào cách mạng, có thể tạm thời hợp tác với các đảng phái tiểu tư sản chống đế quốc, nhưng luôn phải cảnh giác và không ngừng cổ động tuyên truyền cộng sản trong quần chúng.
1.1.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc:
Luận cương chính trị tháng 10/1930 chỉ ra sự phụ thuộc của kinh tế Đông Dương vào đế quốc chủ nghĩa Pháp, khẳng định rằng "Xứ Đông Dương cần phải phát triển một cách độc lập, nhưng vì là thuộc địa nên không thể phát triển độc lập được." Đồng thời, Luận cương cũng nhấn mạnh sự mâu thuẫn giai cấp ngày càng gia tăng giữa thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với địa chủ, phong kiến tư bổn và đế quốc chủ nghĩa Qua đó, phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc được xác định không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn xứ Đông Dương.
Đảng đã nêu rõ cách thức đấu tranh cách mạng thông qua Luận cương, nhấn mạnh việc thực hiện bạo lực cách mạng và vũ trang bạo động dưới sự lãnh đạo của Đảng Tuy nhiên, Đảng cũng lưu ý cần tránh tình trạng vũ trang bạo động quá sớm và manh động, nhằm huy động đại đa số quần chúng tham gia bãi công và thị oai, chuẩn bị cho các cuộc vũ trang bạo động sau này Đảng khẳng định rằng cách mạng vô sản ở Đông Dương cần có sự liên lạc chặt chẽ với vô sản thế giới, đặc biệt là với vô sản ở Pháp, để tạo thành mặt trận vô sản.
“mẫu quốc” và thuộc địa nhằm tạo ra sức tranh đấu cho cách mạng
Luận cương chính trị xác định rằng mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội hiện nay là sự xung đột gay gắt giữa nông dân, công nhân và các tầng lớp lao động với địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
Thực hiện cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế, sau đó bỏ
Nhiệm vụ của cách mạng
Nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ tư bản hướng tới con đường xã hội chủ nghĩa bao gồm hai nhiệm vụ quan trọng: chống đế quốc và chống phong kiến Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau trong việc xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.
-Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ -Lập chính phủ công nông
Tịch thu toàn bộ ruộng đất của địa chủ ngoại quốc, địa chủ bản xứ và các giáo hội, sau đó phân phối ruộng đất này cho nông dân trung và bần, nhằm chuyển quyền sở hữu ruộng đất về tay chính phủ công nông.
-Sung công hết thảy các sản nghiệp lớn của bọn tư bổn ngoại quốc
-Bỏ các sưu thuế hiện thời, lập ra thuế lũy tiến
-Ngày làm công tám giờ, sửa đổi sự sanh hoạt cho thợ thuyền và quần chúng lao khổ
-Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết -Lập quân đội công nông -Nam nữ bình quyền
-Ủng hộ Liên bang Xôviết; liên kết với vô sản giai cấp toàn thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa và bán thuộc địa
Lực lượng cách mạng Công nhân, nông dân và các phần tử lao khổ Phạm vi giải quyết vấn đề Trên toàn Đông Dương Ưu điểm
Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã đưa ra những định hướng chiến lược cách mạng chính xác, nhấn mạnh hai nhiệm vụ quan trọng là chống đế quốc và lật đổ tàn dư phong kiến Bản luận cương xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách mạng, đồng thời làm rõ phương pháp thực hiện cách mạng và vai trò lãnh đạo của giai cấp Ngoài ra, tài liệu cũng khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở Đông Dương và giai cấp vô sản thế giới.
Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3-1935)
Sau năm năm triển khai chiến lược theo Luận cương chính trị tháng 10/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất trong bối cảnh lực lượng cộng sản trong nước đang hồi phục sau cuộc khủng bố trắng của Pháp Tại Đại hội, Đảng đã thông qua Nghị quyết về công tác phản đế liên minh.
Trong kì Đại hội lần thứ nhất, Đảng đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược theo Luận cương chính trị tháng 10/1930, giữ nguyên các mục tiêu đã đề ra Đảng nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chống phong kiến và đế quốc Qua Nghị quyết, Đại hội xác định ba nhiệm vụ chủ yếu cho toàn Đảng trong thời gian tới, bao gồm củng cố và phát triển Đảng, thu hút quần chúng lao động, và chống lại đế quốc chiến tranh.
Bản Nghị quyết đã xác định các nhiệm vụ chiến lược cụ thể để thực hiện, trong đó nhiệm vụ phát triển và củng cố Đảng bao gồm hai nhiệm vụ chính.
Đảng cần củng cố lực lượng bằng cách kết nối những bộ phận cộng sản chưa được khôi phục, phân bổ lực lượng tới các khu vực chưa phát triển, đặc biệt là ở các khu công nghiệp và mỏ quan trọng, với mục tiêu biến mỗi sản nghiệp thành thành lũy của Đảng Việc tuyển chọn Đảng viên phải cẩn trọng, tránh những thành phần xấu ảnh hưởng đến hoạt động của Đảng, với tiêu chí là những người có tính quần chúng, tích cực và trung thành với chủ nghĩa cộng sản Điều lệ mới của Đảng yêu cầu tổ chức các cơ quan chỉ đạo phù hợp với điều kiện bí mật, phân quyền rõ ràng và duy trì liên kết với các đảng khác một cách phân định Đại hội cũng ủy quyền cho Ban Trung ương lập kế hoạch đào tạo cán bộ mới và mở rộng tuyên truyền sách lược của Đảng trong quần chúng lao động, làm rõ chính sách bóc lột của đế quốc Pháp và truyền bá kinh nghiệm chống đế quốc cũng như những thắng lợi ở Liên Xô và Trung Quốc.
Đảng chủ trương thống nhất lý thuyết và thực hành để bảo vệ sự trong sạch của chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn mở rộng tự kiểm điểm và chỉ trích bônsêvích trong các cấp đảng bộ nhằm phát hiện ưu điểm và khuyết điểm Đảng cũng đấu tranh để vạch trần lý thuyết phản động và lý thuyết cách mạng tiểu tư sản, giữ kỷ luật nghiêm ngặt, khai trừ những phần tử vi phạm đường lối chính trị và không chấp hành nghị quyết, điều lệ Cuối cùng, Đảng tăng cường sức tranh đấu chống lại quốc gia cải lương.
Về nhiệm vụ thâu phục quảng đại quần chúng, Đảng đề ra các mục tiêu:
Đảng cần bảo vệ quyền lợi của quần chúng lao động bằng cách đấu tranh chống lại các xu hướng đầu cơ và miệt thị những nỗ lực hàng ngày của họ Đồng thời, cần phải làm rõ các hình thức bóc lột của đế quốc để quần chúng hiểu rõ hơn về tình hình thực tế.
Củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng
Đảng cần áp dụng đa dạng các phương pháp nhằm thu hút quần chúng gia nhập phe cộng sản, đồng thời giảm thiểu ảnh hưởng của quốc gia cải lương Việc tổ chức mặt trận thống nhất với sự tham gia của quần chúng là cần thiết để đạt được mục tiêu này.
Chống lại chiến tranh đế quốc, chúng ta cần tuyên truyền để vạch trần bộ mặt giả dối của chính sách "hòa bình" của đế quốc, đặc biệt là đế quốc Pháp ở Đông Dương Đồng thời, cần huấn luyện quần chúng về các phương pháp chống chiến tranh đế quốc như bãi công, thị uy, biểu tình và bạo động vũ trang để thiết lập chính quyền Xôviết.
Lực lượng tham gia cách mạng được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất là quần chúng lao động, với sức mạnh của Đảng dựa vào ảnh hưởng trong quần chúng Đảng cần duy trì mối quan hệ mật thiết với quần chúng và tích cực lôi kéo họ tham gia vào các tổ chức quốc gia, kể cả những tổ chức phản động hoặc tiểu tư sản Thắng lợi của các phong trào đấu tranh phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của giai cấp vô sản và quần chúng lao động Nếu không bảo vệ quyền lợi và tổ chức quần chúng, ảnh hưởng của Đảng sẽ bị hạn chế, dẫn đến thất bại trong các cuộc đấu tranh.
1.2.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc trong Nghị quyết có sự tương đồng với Luận cương chính trị tháng 10/1930, với tranh đấu của vô sản giai cấp trải rộng khắp Đông Dương Đại hội nhận định rằng vận động cách mạng tại đây sẽ ngày càng phát triển và sâu sắc hơn Nếu nghị quyết được thảo luận và thực hành rộng rãi trong các đảng, nhân dân Đông Dương sẽ nắm chắc thắng lợi trong tay.
Nhiệm vụ của cách mạng
Cách mạng tư sản dân quyền mang tính chất thổ địa và phản đế, nhằm mục tiêu vượt qua giai đoạn tư bản để tiến tới xã hội chủ nghĩa Trong quá trình này, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến có mối liên hệ chặt chẽ, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của cách mạng.
Nhiệm vụ cụ thể Đảng tập trung thực hiện ba nhiệm vụ chủ yếu bao gồm: -Củng cố và phát triển Đảng
-Thâu phục quảng đại quần chúng lao động
-Chống đế quốc chiến tranh
Lực lượng cách mạng Công nhân, nông dân và các phần tử lao khổ Phạm vi giải quyết vấn đề Trên toàn Đông Dương
Nghị quyết đã chỉ ra rằng, mặc dù Đảng đã đưa ra những chủ trương hợp lý phù hợp với thực tiễn, nhưng vẫn chưa khắc phục được những hạn chế của Luận cương chính trị Tại Đại hội lần thứ Nhất, Đảng đã thừa nhận các vấn đề còn tồn tại trong Luận cương chính trị.
17 trị tháng 10/1930 và do đó vẫn đứng trên những quan điểm sai lầm của bản Luận cương dẫn đến việc chưa khắc phục được các mặt hạn chế sau:
-Chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, trong khi đó vẫn đề cao vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp
-Chưa đề ra chiến lược phù hợp cho việc tập hợp lực lượng rộng rãi trên phạm vi toàn dân tộc
Quyền tự quyết của dân tộc chưa được phát huy đầy đủ trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, khi mà việc giải quyết vấn đề dân tộc vẫn được xem là một vấn đề rộng lớn trải dài trên toàn Đông Dương.
Tiểu kết
Hai văn kiện Luận cương chính trị tháng 10/1930 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3-1935) đã xác định đúng đắn chiến lược đấu tranh và phương thức thực hiện cách mạng, nhưng vẫn còn hạn chế trong việc đề ra các chiến lược phù hợp với thực tiễn từng quốc gia Việc mở rộng phạm vi giải quyết vấn đề ra toàn khu vực Đông Dương đã dẫn đến nhiều chiến lược không phù hợp, đặc biệt ở Việt Nam, nơi Đảng đã bỏ qua nhiều lực lượng tranh đấu tiềm năng do không hiểu rõ bối cảnh và mâu thuẫn địa phương Nghị quyết năm 1935 chưa khắc phục được những hạn chế của Luận cương chính trị, khi cả hai vẫn đứng trên quan điểm sai lầm, không phản ánh đúng thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930-1935.
Giai đoạn 2 (1936-1938)
Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7-1936)
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước tư bản chủ nghĩa phải đối mặt với thiệt hại nặng nề về người và tài sản, dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế 1923-1933 Cuộc khủng hoảng này đã tạo điều kiện cho các chính sách bóc lột tàn bạo của các cường quốc, làm gia tăng mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản Trong bối cảnh này, chủ nghĩa Phát xít nổi lên như một giải pháp phù hợp với nền kinh tế đang bị quân phiệt hóa, dẫn đến sự thành công vang dội của nó trên toàn thế giới.
Tiềm ẩn dưới bề mặt là những chính sách cai trị tàn bạo, có khả năng dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới tiếp theo Để mở rộng sức mạnh và tầm ảnh hưởng, các tập đoàn phát xít từ Đức, Ý và Nhật đã liên minh thành một trục đối kháng trực tiếp với Quốc tế Cộng sản.
Các quốc gia còn lại đang đối mặt với nguy cơ bị chiếm đoạt và nổi dậy, trong khi Mặt trận nhân dân Pháp đã giành thắng lợi và nắm quyền trong chính phủ, trở thành tấm gương sáng cho phong trào đấu tranh toàn cầu Chính quyền mới của Pháp đã trao cho các nước thuộc địa quyền tự do và dân chủ cơ bản, tạo động lực mạnh mẽ cho Đảng ta đưa ra các yêu sách đòi quyền dân chủ và dân sinh.
Tình hình trong nước và khu vực
Là một nước thuộc địa, nền kinh tế của chúng ta phụ thuộc vào mẫu quốc, và khi Pháp gặp khó khăn, họ đã gia tăng việc khai thác tài nguyên và con người Lực lượng phản động ở Đông Dương đã thực hiện các hành động vơ vét, bóc lột, khủng bố và đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.
Trong bối cảnh những cuộc khủng bố do bọn phản động thuộc địa và tay sai thực hiện, nhiều người bị bắt bớ, bỏ tù hoặc thậm chí thảm sát chỉ vì nghi ngờ có tinh thần cách mạng hoặc xã hội chủ nghĩa Điều này đã làm giảm sút tinh thần cách mạng, khiến nhiều người e dè không dám tham gia khởi nghĩa Tuy nhiên, tất cả các giai cấp trong nước đều đồng lòng hướng tới một mong muốn thiết thực: tự do, dân chủ, dân sinh, cơm áo và hòa bình.
Đảng nhận định rằng, trong bối cảnh Đông Dương là một xứ thuộc địa, việc chỉ tập trung vào phát triển cuộc đấu tranh giai cấp có thể gây khó khăn cho phong trào giải phóng dân tộc Hệ thống tổ chức Đảng và cơ sở cách mạng của quần chúng đã được phục hồi, lực lượng đã chuẩn bị sẵn sàng Nhân cơ hội chống lại bọn phản động thuộc địa và phát xít, Đảng đã phát động phong trào đấu tranh mới với chủ trương đòi quyền dân chủ dân sinh Vào tháng 7-1936, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương đã diễn ra tại Thượng Hải, Trung Quốc.
Lê Hồng Phong chủ trì đã đề ra đường lối rõ ràng dựa trên Nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản
Cách mạng Đông Dương tập trung vào ba mục tiêu chính: chống lại chế độ thực dân, cải cách đất đai, thiết lập chính quyền của giai cấp công nông, và chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Dựa vào tình hình hiện tại về lực lượng, chính trị và thời cơ, việc đối đầu vũ trang với thực dân Pháp chưa chín muồi Chúng ta cần tập trung giải quyết các nhu cầu cấp bách trước mắt như tự do, dân chủ và cải thiện đời sống Mặc dù những yêu sách tối thiểu về tự do dân chủ chưa hoàn toàn đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, nhưng chúng có thể tạo ra những bước tiến quan trọng trong cuộc đấu tranh.
1 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 73
Đảng đã nhận định rằng nhiệm vụ chiến lược hiện tại chưa thể thực hiện, do đó đã xác định một nhiệm vụ cụ thể phù hợp với tình hình hiện tại, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của quần chúng và Đảng, từ đó thúc đẩy đấu tranh cho các yêu cầu cao hơn.
Nhiệm vụ trực tiếp: Chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, dân chủ, dân sinh, cơm áo, hòa bình
2.1.3 Lực lượng cách mạng Đứng trước sự rời rạc của các Đảng “chỉ tồn tại trên giấy” và thực tế lực lượng quần chúng nhân dân chưa đông đảo ủng hộ cách mạng, “Sách lược mới của Quốc tế Cộng sản là đúng và cuộc tranh đấu để thành lập … Mặt trận dân tộc các nước thuộc địa là nhiệm vụ cần thiết đầu tiên và đặc biệt cấp bách đối với đời sống chính trị quốc tế hiện nay.” 3
"Mặt trận dân tộc phản đế" được thành lập để tập hợp mọi công dân Việt Nam và quốc tế yêu hòa bình, nhằm đáp ứng yêu cầu về lực lượng Tổ chức này khuyến khích mọi người vượt qua sự khác biệt về xuất thân, giai cấp, chủng tộc và đảng phái, cùng nhau cống hiến cho sự nghiệp lớn lao của dân tộc và đạt được những mục tiêu chung cao cả.
Mặt trận dân tộc phản đế cần trở thành tổ chức công khai, thu hút đông đảo quần chúng Tổ chức này bao gồm tất cả các đảng phái và tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, từ người Pháp, người Việt, người Lào đến các dân tộc thiểu số khác, miễn là họ đồng lòng đấu tranh thực hiện các yêu sách đã đề ra.
2 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 75
3 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 79
4 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 81
2.1.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Để giải quyết vấn đề cấp thiết, Đảng đã mở rộng phạm vi hoạt động ra toàn Đông Dương, kết nối các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa Mục tiêu là tạo ra sức mạnh đoàn kết, với niềm tin rằng "Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao", từ đó từng bước chống lại thực dân.
Trước đây, Đảng được coi là tổ chức bất hợp pháp và phản động, dẫn đến việc phong trào đấu tranh không công khai hạn chế sự tiếp cận của đông đảo dân chúng với chính sách và tư tưởng của Đảng Để khắc phục điều này, Đảng đã mở rộng hình thức đấu tranh sang công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, đồng thời vẫn giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức cũng như hoạt động bí mật của mình.
Chống thực dân Pháp và phong kiến luôn là nhiệm vụ quan trọng trong phong trào cách mạng, nhưng trong bối cảnh giặc đói và giặc dốt hoành hành, Đảng đã đặt lên hàng đầu nhu cầu cấp thiết về "Chống Phát xít, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo" Điều này cho thấy rằng, khi con người còn đói khổ, họ sẽ khó lòng nghĩ đến cách mạng và những vấn đề lớn lao khác, vì ưu tiên hàng đầu của họ là lấp đầy bụng và có đủ áo ấm.
Những chính sách, quyền lợi Đảng đòi hỏi Chính phủ Mặt trận dân chúng thống nhất bên Pháp phải thực hiện ngay lập tức:
Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10-1936)
Sau khi Đảng hoàn thiện chính sách cho cuộc đấu tranh giành dân chủ và dân sinh, chúng ta cần xác định những nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới Điều này bao gồm việc làm rõ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chính: phản đế và điền địa, cùng với dân tộc và dân chủ.
2.2.2 Nhiệm vụ cách mạng Ở văn kiện này đề ra hai nhiệm vụ chính cần được phổ cập rộng rãi với các Đảng viên:
Đảng xác định rõ rằng kẻ thù nguy hiểm nhất hiện nay là đế quốc Pháp, được coi là kẻ địch chung của nhân dân Đông Dương Đồng thời, chủ nghĩa phát xít và các lực lượng phản cách mạng, cùng với tay sai của chúng, là những kẻ thù trực tiếp cần phải bị loại bỏ Quan niệm cho rằng tư bản bản xứ là kẻ thù, như đã nêu bởi Tờrốtxky, là không chính xác.
Hai mục tiêu “Phản đế và điền địa” không nhất thiết phải được thực hiện đồng thời, mà cần căn cứ vào mâu thuẫn nổi trội và tình hình cụ thể của từng khu vực, địa phương để xác định nhiệm vụ ưu tiên.
2.2.3 Lực lượng cách mạng Đảng vẫn chủ trương huy động lực lượng toàn dân tham gia ủng hộ phong trào, đặc biệt nhất là tư bản bản xứ, hơn nữa chú trọng việc lập linh minh công-nông để giai cấp thợ thuyền không hoạt động riêng lẻ, dễ bị trấn áp
Chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương không nhằm chống lại người Pháp mà chỉ chống đế quốc Pháp Đảng chủ trương liên kết chặt chẽ với giai cấp vô sản Pháp, đội tiên phong của họ và quần chúng lao động tại Pháp, coi họ là đồng minh trung thành và bền vững Đồng thời, Đảng cũng quyết tâm duy trì liên lạc với các phái khác, cá nhân và chi bộ của Mặt trận nhân dân Pháp ở Đông Dương.
2.2.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Hai văn kiện được công bố chỉ cách nhau ba tháng và không có nhiều điểm khác biệt Tuy nhiên, văn kiện về chiến sách mới đã bổ sung một nội dung quan trọng, có yếu tố quyết định đến cuộc cách mạng "Cuộc dân tộc giải phóng".
16 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 141
17 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 149
Câu nói "28 nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa" thể hiện sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của Mác Lê-nin vào phong trào cách mạng dân tộc Đảng đã nhấn mạnh rằng trong cuộc tranh đấu chia đất, nếu điều này cản trở cuộc chiến chống đế quốc, cần phải xác định vấn đề nào quan trọng hơn để giải quyết trước Điều này có nghĩa là phải lựa chọn kẻ thù chính và nguy hiểm nhất, từ đó tập trung sức mạnh của toàn dân tộc để giành thắng lợi hoàn toàn.
Tiểu kết
Cao trào dân chủ 1936-1939 đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị cho các cuộc đấu tranh sắp tới, với nhiệm vụ chính là đuổi đế quốc Pháp khỏi Đông Dương và loại bỏ tàn tích phong kiến, nhằm đạt được sự độc lập hoàn toàn cho khu vực này.
Mặt trận nhân dân phản đế hiện tại chưa có nhiệm vụ trực tiếp, nhưng nhiệm vụ cụ thể cần được xác định rõ ràng là chống lại chế độ phản động thuộc địa và phát xít, đồng thời đòi hỏi tự do, dân chủ, dân sinh, cơm áo và hòa bình.
Chủ trương mới của Đảng đã khéo léo giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và dân chủ, thể hiện sự linh hoạt và thích ứng trong việc thực hiện các nhiệm vụ như phản đế, điền địa, hoặc thực hiện song song tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể.
Giai đoạn này phản ánh sự trưởng thành trong chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh thần đoàn kết, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Hình thức đấu tranh đã chuyển đổi từ bí mật sang công khai, giúp nhân dân dễ dàng tiếp cận với cách mạng hơn.
So với Cương lĩnh tháng 10-1930, nhiệm vụ chính của cách mạng đã được mở rộng, bao gồm cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền công nông theo hình thức Xô viết, nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển hướng tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
18 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 151
19 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 152
20 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 152
Đảng không bị ràng buộc bởi bất kỳ khuôn mẫu nào trong chính sách của Quốc tế III; thay vào đó, Đảng linh hoạt đề xuất và thực hiện các chính sách phù hợp với tình hình dân tộc hiện tại.
Thay đổi mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, đòi hỏi quyền tự do, dân chủ, và cải thiện đời sống dân sinh, cùng với việc đảm bảo hòa bình là những yêu cầu thiết thực và nhân văn trong giai đoạn này.
Hình thức đấu tranh đã được mở rộng từ bí mật sang công khai và bán công khai, bao gồm các hoạt động như bãi công, mít tinh, xuất bản nhiều tờ báo như Dân chúng, Tiền phong, và đặc biệt là việc đấu tranh trong nghị trường.
Thứ tư, cách mạng tiếp cận rộng rãi hơn với nhiều người, không còn e dè, né tránh giai cấp tư bản bản địa, địa chủ yêu nước
Vào thứ năm, Đảng ta đã thể hiện sự linh hoạt và thông minh hơn trong việc ủng hộ chính phủ Lêông Blum, đồng thời nhận thức rõ rằng không nên có ảo tưởng về việc chính phủ này sẽ mang lại cho chúng ta nền độc lập và tự do một cách hào phóng.
21 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 83
GIAI ĐOẠN (1939-1945)
Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 11/1939
Tình hình thế giới và trong nước:
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, dẫn đến sự tan rã của mặt trận nhân dân Pháp do các chính sách tham chiến khắc nghiệt và sự thao túng lực lượng dân chủ Chính quyền Pháp không chỉ phát xít hóa bộ máy cai trị mà còn đàn áp mạnh mẽ phong trào cách mạng, đặc biệt là Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời gia tăng việc thu gom tài sản và bắt lính phục vụ cho chiến tranh đế quốc Năm 1940, phát xít Đức tấn công Pháp, giành quyền kiểm soát và khiến Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ngoài vòng pháp luật.
Sự ra đi của một đồng chí cách mạng khiến Đảng mất đi một điểm tựa tinh thần quan trọng Đồng thời, thực dân Pháp áp dụng chính sách thống trị phản động trong thời chiến, thể hiện qua xu hướng phát xít hóa bộ máy cai trị và lệnh tổng động viên nhằm khai thác triệt để kinh tế thuộc địa.
Trong một thời gian ngắn, khoảng 80.000 binh lính Việt Nam đã bị đưa sang chiến trường châu Âu, gây ra tình trạng ngột ngạt về chính trị và bần cùng về kinh tế cho các tầng lớp nhân dân lao động Mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp và tay sai ngày càng gay gắt Để ứng phó với tình hình mới, Đảng đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Từ ngày 6 đến 8 tháng 11 năm 1939, Trung ương Đảng họp tại Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, nhằm phân tích và đề ra các chủ trương mới, với sự tham gia của các đồng chí như Lê Duẩn và Phan Đăng Lưu.
Về nhiệm vụ chiến lược:
Trong bối cảnh lịch sử mới, việc giải phóng dân tộc trở thành nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương Hội nghị đã xác định rõ ràng kẻ thù cụ thể, được xem là nguy hiểm nhất đối với sự nghiệp này.
Chủ nghĩa đế quốc và tay sai phản bội dân tộc là những yếu tố cần phải đánh đổ để giành lấy độc lập Cần phải chống lại mọi hình thức xâm lược, không phân biệt sắc tộc, nhằm bảo vệ quyền lợi dân tộc Tất cả vấn đề trong cuộc cách mạng, bao gồm cả vấn đề điền địa, cần phải được giải quyết với mục tiêu tối thượng là giải phóng dân tộc.
Về nhiệm vụ cụ thể:
Tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chúng ta cần tập trung vào các khẩu hiệu chống địa tô cao, phản đối cho vay lãi nặng, và tịch thu ruộng đất từ tay đế quốc cùng địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc để chia sẻ cho dân cày.
Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương được thành lập với mục tiêu thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước tại Đông Dương Mục đích chính của mặt trận này là đánh đổ đế quốc Pháp và các thế lực tay sai, nhằm giành độc lập hoàn toàn cho các dân tộc trong khu vực.
Vào thứ ba, hội nghị đã quyết định tạm gác khẩu hiệu “lập chính quyền Xô viết công-nông-binh” và thay thế bằng khẩu hiệu “lập chính quyền cộng hòa dân chủ” Điều này nhằm tạo ra một hình thức nhà nước chung, phục vụ cho tất cả các tầng lớp dân chúng và phong trào giải phóng dân tộc.
Tập hợp sức mạnh toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước tại Đông Dương là điều cần thiết Tất cả các giai cấp, ngoại trừ bọn phong kiến và một số phần tử phản động trong giới địa chủ và tư sản, cũng như các đảng phái, trừ những kẻ phản bội quyền lợi dân tộc, đều phải chịu đựng những tác hại tàn khốc của chủ nghĩa đế quốc Mọi người đều căm phẫn trước kẻ thù chung là đế quốc chủ nghĩa.
3.1.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
22 Văn kiện Đảng Toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (2000) tr 756
23 Văn kiện Đảng toàn tập – tập 6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội (2000), tr 536
Khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận thức rõ về mâu thuẫn cơ bản trong xã hội thuộc địa và nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa Tại Hội nghị diễn ra từ ngày 6 đến 8/11/1939, Đảng xác định rằng toàn bộ lực lượng cần đứng trên lập trường cách mạng giải phóng dân tộc Nhiệm vụ cốt lõi là điều hòa các cuộc đấu tranh của các giai cấp bản địa, đưa chúng vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc Hội nghị tháng 11-1939 đã đáp ứng yêu cầu lịch sử, khởi động giai đoạn vận động giải phóng dân tộc cho nhân dân.
Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 11/1940
Hội nghị diễn ra từ ngày 6 đến 9 tháng 11 năm 1940, trong bối cảnh Pháp và Nhật mặc dù có mâu thuẫn nhưng vẫn liên kết chặt chẽ để áp bức và bóc lột nhân dân Đông Dương Tình trạng cực khổ của các tầng lớp nhân dân ngày càng gia tăng, làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc ta và chủ nghĩa đế quốc phát xít trở nên sâu sắc hơn.
Ngày 17-1-1940, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt Nhiều đồng chí Trung ương cũng sa vào tay giặc
Hội nghị cán bộ Trung ương diễn ra vào tháng 11 năm 1940 tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, hơn một tháng sau khi Nhật Bản xâm lược Đông Dương Sự kiện quan trọng này có sự tham gia của các đồng chí Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt và Trần Đăng Ninh.
Về nhiệm vụ chiến lược:
Hội nghị nhận định rằng cuộc chiến tranh thế giới đang lan rộng và trở nên ác liệt hơn, trong khi đế quốc Pháp đã bị bại trận Điều này tạo cơ hội cho phát xít Nhật mở rộng chiến tranh và chiếm đoạt các thuộc địa.
Pháp, Mỹ và Anh đang hoạt động tại Viễn Đông, trong bối cảnh cuộc chiến tranh đế quốc có khả năng chuyển thành xung đột giữa phát xít và Liên Xô Các thế lực đế quốc hiếu chiến sẽ nhanh chóng bị Hồng quân Liên Xô và phong trào cách mạng toàn cầu tiêu diệt Nhiệm vụ cấp bách của Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang nhằm giành lại quyền tự do và độc lập cho đất nước.
Về nhiệm vụ cụ thể:
Mở rộng mặt trận phản đế là điều quan trọng nhất, cần tổ chức các đội tự vệ và trang bị vũ khí cho nhân dân Đồng thời, cần xây dựng lực lượng quân đội cách mạng để tiến tới vũ trang bạo động.
Tại hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh rằng cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa cần phải tiến hành đồng thời, không thể ưu tiên cái này trước cái kia Mặc dù khẩu hiệu cách mạng phản đế và giải phóng dân tộc đang được coi là quan trọng hơn, nhưng nếu không thực hiện cách mạng thổ địa, thì khả năng thành công của cách mạng phản đế sẽ gặp khó khăn.
Thứ ba, phải lựa chọn người trong các đoàn thể Mặt trận đặng mở rộng các đội tự vệ
Trong thời kỳ đấu tranh khốc liệt, Mặt trận cần trang bị vũ khí cho nhân dân và Đảng để tổ chức lực lượng cách mạng, tham gia trực tiếp vào việc điều hành các hoạt động bạo động.
Nhân dân Đông Dương, đặc biệt là lực lượng vũ trang Bắc Sơn, đã tổ chức các đội du kích để thực hiện công tác vũ trang, sẵn sàng chiến đấu chống khủng bố nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của cộng đồng.
3.2.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Liên minh giữa các lực lượng cách mạng phản đế, không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc hay tôn giáo, nhằm thống nhất hành động để đấu tranh vũ trang chống lại đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm, với mục tiêu hoàn toàn giải phóng Đông Dương.
24 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 536, 538
25 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang 81
Tiến đến đấu tranh vũ trang đồng thời vẫn kết hợp các hình thức bí mật, nửa bí mật, công khai, nửa công khai
Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” để tập trung vào việc “tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, chống lãi nặng” Mục tiêu đặt ra là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc ở Đông Dương, nhằm đạt được độc lập hoàn toàn cho khu vực này, với nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ưu tiên hàng đầu.
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 xác định “Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế” là liên minh giữa các lực lượng cách mạng chống đế quốc, không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc hay tôn giáo Mục tiêu của mặt trận này là thống nhất hành động để đấu tranh vũ trang, đánh đổ thực dân Pháp, Nhật và các lực lượng phản động, nhằm giải phóng hoàn toàn Đông Dương.
Hội nghị tháng 11/1940 đã khẳng định sự chuyển hướng chiến lược quan trọng, nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc và tạm thời rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất được đề ra tại Hội nghị Trung ương Đảng năm 1939, cho thấy đây là một quyết định đúng đắn.
Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941
Mặc dù có mâu thuẫn, Pháp và Nhật vẫn hợp tác chặt chẽ để áp bức và bóc lột nhân dân Đông Dương, khiến họ rơi vào cảnh khổ cực Mâu thuẫn giữa dân tộc và chủ nghĩa đế quốc phát xít ngày càng sâu sắc Nhiều cuộc đấu tranh đã diễn ra, nổi bật là khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940) và cuộc binh biến Đô Lương (13/1/1941) Dù bị đàn áp và chịu tổn thất, các cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ.
35 tranh đó đã nêu cao tinh thần yêu nước, để lại cho cách mạng những bài học, kinh nghiệm quý báu
Vào ngày 28-1-1941, trong bối cảnh khẩn trương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước và hoạt động tại Cao Bằng Đến tháng 5-1941, ông chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tại đây, đồng chí Trường Chinh được bầu làm tổng bí thư.
Về nhiệm vụ chiến lược:
Mục tiêu đấu tranh được xác định là giải phóng các dân tộc Đông Dương khỏi ách cai trị của Pháp và Nhật Việc giải quyết vấn đề dân tộc và đòi độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc là vô cùng quan trọng; nếu không thực hiện được, không chỉ quốc gia sẽ tiếp tục chịu đựng kiếp nô lệ, mà quyền lợi của các giai cấp cũng sẽ không bao giờ được khôi phục.
Về nhiệm vụ cụ thể:
Hội nghị đã xác định rằng việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và nhân dân ta trong thời gian hiện nay.
Hội nghị đã quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc trên bán đảo Đông Dương Để thực hiện điều này, hội nghị chủ trương thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi ở mỗi quốc gia Tại Việt Nam, mặt trận này được gọi là “Việt Nam Độc lập đồng minh” (Việt Minh) Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trước đây đã thống nhất dưới tên gọi “Hội Cứu quốc”, bao gồm Hội Nông dân cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ lão cứu quốc, và Hội Nhi đồng cứu quốc, tất cả đều là thành viên của Việt Minh.
Tập hợp mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt giai cấp, nhằm thống nhất mặt trận yêu nước Mọi người dân, từ thợ thuyền đến địa chủ, đều có thể cùng nhau đóng góp sức lực để giành quyền độc lập và tự do cho dân tộc.
3.3.4 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương nhằm thức tỉnh tinh thần dân tộc và thực hiện chính sách "dân tộc tự quyết" Sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật, các dân tộc sẽ có khả năng tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hoặc thành lập quốc gia độc lập Sự tự do và độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và tôn trọng.
Hội nghị đã xác định rõ kẻ thù chính là đế quốc Pháp - Nhật và khẳng định cuộc cách mạng là cuộc giải phóng dân tộc, với lực lượng tham gia là toàn thể nhân dân Việt Nam từ mọi tầng lớp, tổ chức chính trị, giai cấp, tôn giáo, dân tộc và lứa tuổi Tất cả được tập hợp trong Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên chủ chốt của Việt Minh, giữ vai trò lãnh đạo chính trị Hội nghị Trung ương tám đã quyết định phương pháp cách mạng là tiến hành khởi nghĩa vũ trang từng phần, giành chính quyền ở từng địa phương và chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc.
Hội nghị 1941 đã thể hiện sự hoàn chỉnh rõ nét so với hội nghị 1939, khi quyết định tạm gác cách mạng ruộng đất và tịch thu tài sản của đế quốc cùng địa chủ Thay vào đó, hội nghị này đã đặt ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, khẳng định tầm quan trọng của việc đấu tranh cho độc lập và tự do.
26 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang 113
37 dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do
Tại hội nghị năm 1940, Trung ương nhấn mạnh rằng khẩu hiệu cách mạng phản đế và cách mạng giải phóng dân tộc là ưu tiên hàng đầu, đồng thời khẳng định sự cần thiết phải tiến hành đồng thời cả hai loại cách mạng này Đến hội nghị năm 1941, quan điểm này được củng cố, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện cả cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa một cách đồng bộ.
Nhiệm vụ quan trọng hiện nay là giải phóng dân tộc Hội nghị Trung ương 8 đã hoàn thiện chiến lược và sách lược, nhấn mạnh việc nâng cao tinh thần giải phóng dân tộc và đặt mục tiêu khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền.
Năm 1939, Đảng ta chủ trương xây dựng đoàn thể quần chúng bí mật, nhưng đến đại hội Đảng năm 1941, đã nhận thấy cơ hội khởi nghĩa chín muồi Sự khác biệt lớn nhất là tạm dừng cách mạng ruộng đất, từ đó nâng cao tinh thần đoàn kết dân tộc và tạo tiền đề cho việc xây dựng lực lượng giải phóng dân tộc, bao gồm cả địa chủ và tiểu tư sản Đây là một bước đi sáng suốt, góp phần quan trọng vào sự thành công của Cách mạng tháng 8.
Tiểu kết
Trong giai đoạn 1939-1945, Đảng ta đã xác định kẻ thù chính là đế quốc Pháp - Nhật và khẳng định cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là nhiệm vụ của toàn dân Việt Nam, bao gồm mọi tầng lớp, tổ chức chính trị, giai cấp, tôn giáo và dân tộc Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh đã tập hợp lực lượng này, với Đảng Cộng sản Đông Dương là hạt nhân lãnh đạo Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng là khởi nghĩa vũ trang từng phần, giành chính quyền ở từng địa phương để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc đã được đúc kết qua các hội nghị Trung ương, thể hiện sự kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trình bày những nguyên tắc cách mạng quan trọng trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” năm 1927 và Cương lĩnh Cách mạng đầu tiên của Đảng, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng vào ngày 3/2/1930 Những tài liệu này do chính Người dự thảo, đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của Đảng và phong trào cách mạng Việt Nam.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 vào tháng 5 năm 1941 đã hoàn thiện chuyển hướng chiến lược và sách lược cách mạng từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 vào tháng 11 năm 1939 Sự kiện này thể hiện sự phát triển sáng tạo trong chủ trương và đường lối lãnh đạo của Đảng, đóng vai trò quyết định trong việc mobilize toàn Đảng và toàn dân chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám.
Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương đã thay thế cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên giữa thợ thuyền, dân cày và địa chủ phong kiến, tư bản, đế quốc Luận cương xác định cuộc cách mạng Đông Dương là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, với nhiệm vụ cốt yếu là đánh đổ phong kiến, bóc lột tư bản và thực hiện thổ địa cách mạng, đồng thời khẳng định cần đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp để Đông Dương hoàn toàn độc lập Hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng, vì chỉ có đánh đổ đế quốc mới có thể phá vỡ giai cấp địa chủ và ngược lại Tuy nhiên, luận cương đã nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp không phù hợp với thực tiễn xã hội thuộc địa Đến tháng 12/1930, Trung ương tiếp tục khẳng định địa chủ là “thù địch của dân cày” và giai cấp tư sản có phần tử phản cách mạng cũng như những kẻ tìm cách thỏa hiệp với đế quốc.
Trong bối cảnh cách mạng phát triển, Ban thường vụ Trung ương nhấn mạnh việc tiêu diệt địa chủ và tịch thu ruộng đất để giao cho bần và trung nông Tuy nhiên, nhận thức này không phù hợp với thực tiễn xã hội thuộc địa Việt Nam và chiến lược giải phóng dân tộc kéo dài gần 5 năm, cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất vào tháng 3 năm 1935 Sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng yêu cầu thực hành nghiêm túc nguyên tắc tự chỉ trích, phê bình và tự phê, nhằm điều chỉnh chiến lược cho phù hợp với tình hình thực tế.
Trong bối cảnh cách mạng, các trích dẫn Bônsêvích nhấn mạnh nguyên tắc kỷ luật và dân chủ tập trung, đồng thời đặt lợi ích và uy tín của Đảng lên hàng đầu Việc tự chỉ trích cần được thực hiện một cách có trách nhiệm để loại bỏ các khuynh hướng tiêu cực và đảm bảo Đảng luôn xứng đáng là đội quân tiên phong trong cuộc cách mạng Ban Chấp hành Trung ương đã có những bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận về giải phóng dân tộc, phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích giai cấp tại xã hội thuộc địa Đặc biệt, trong văn bản tháng 10/1936, Đảng đã chỉ rõ rằng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không nhất thiết phải gắn liền với cách mạng điền địa, và cần xác định kẻ thù chính để tập trung lực lượng nhằm đạt được thắng lợi toàn diện.
Trong giai đoạn 1930-1945, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng đã sáng tạo ra mặt trận dân tộc thống nhất, một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam Mặt trận này nhằm hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, với mục tiêu giải phóng dân tộc được thực hiện bởi toàn dân Việt Nam Đảng đã tuyên truyền và tập hợp lực lượng trong mặt trận này để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân Chỉ sau chín tháng thành lập, vào ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về việc thành lập Hội “Phản đế đồng minh”, thể hiện tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh mạnh mẽ.
Bản chỉ thị nhấn mạnh rằng để cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương thành công, cần tổ chức toàn dân thành một lực lượng rộng lớn và kín đáo "Rộng" có nghĩa là toàn dân phải đoàn kết trong một mặt trận chống lại đế quốc và bọn phong kiến phản động, trong khi "Kín" yêu cầu sự tham gia của công nông trong cuộc chiến chống đế quốc Bản chỉ thị cũng chỉ trích những quan điểm hẹp hòi, khẳng định tầm quan trọng của sự đoàn kết và sức mạnh tập thể trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
Trong việc xây dựng và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, cần thiết phải có một tổ chức cách mạng không chỉ đơn thuần đại diện cho công nông, mà còn phải thu hút các tầng lớp trí thức, tư sản và cả những địa chủ có tư tưởng chống Pháp Việc thiếu một tổ chức rộng rãi và bao quát sẽ cản trở khả năng tập hợp lực lượng chống đế quốc Pháp, do đó cần khẩn trương động viên toàn dân tham gia vào cuộc đấu tranh vì độc lập quốc gia.
Vào ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước và sau một thời gian chuẩn bị, đã triệu tập Hội nghị Trung ương 8 từ 10 đến 19/5/1941 Tại hội nghị này, các đại biểu đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm và tính chất của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời dự đoán rằng phe phát xít sẽ thất bại và phe Đồng minh sẽ giành chiến thắng.
Đảng ta xác định rằng cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cuộc giải phóng dân tộc, với nhiệm vụ cấp bách và quan trọng hàng đầu Do đó, Hội nghị đã quyết định tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” và thay bằng khẩu hiệu mới: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian, chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức.”
Hội nghị đã đưa ra quyết định quan trọng về việc giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng quốc gia, nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc trên bán đảo Đông Dương Để thực hiện điều này, hội nghị chủ trương thành lập các mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi tại mỗi nước, trong đó Việt Nam có mặt trận mang tên “Việt Nam độc lập đồng minh” (Việt Minh) Ngoài ra, hội nghị cũng nhấn mạnh cần phải thúc đẩy công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại.
Để khởi nghĩa vũ trang đạt thắng lợi, cần tuân thủ bốn điều kiện thiết yếu và thực hiện sáu nhiệm vụ quan trọng Những điều kiện này nhằm củng cố, tăng cường và phát triển lực lượng cách mạng trên toàn quốc, đảm bảo đủ sức mạnh cho việc thực hiện và duy trì thành công của cuộc khởi nghĩa.
Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng, đề ra chủ trương khởi nghĩa từng phần để giành chính quyền địa phương, tạo tiền đề cho tổng khởi nghĩa Nhiệm vụ xây dựng Đảng được đặt ra nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, khẳng định vai trò của Đảng trong các thắng lợi cách mạng Việt Nam Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) kế thừa và phát triển tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ tác phẩm “Đường Cách Mệnh” (1927) và cương lĩnh đầu tiên của Đảng Đồng thời, đây cũng là bước trưởng thành vượt bậc của Đảng trong lãnh đạo chính trị và đổi mới tư duy về cứu nước, giúp vượt qua những bệnh lý như ấu trĩ “tả” khuynh và giáo điều Đường lối này là ngọn đèn pha soi sáng, dẫn đường cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.