1. Đặt vấn đề Trong hệ thống giáo dục đào tạo của nước ta, giáo dục thể chất là bộ phận của giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ nhằm đào tạo họ thành những chủ nhân tương lai của đất nước có trình độ chuyên môn vững vàng, có sức khỏe, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội (CNXH). Qua các thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước, nhất là từ những năm đổi mới, công tác TDTT trong trường học, đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác GDTC và hoạt động Thể dục Thể thao trong trường học các cấp, coi đây là nhiệm vụ quan trọng góp phần tạo ra con người mới, đóng góp tích cực trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Để thực hiện mục tiêu giáo dục trong nhà trường, trong nhiều năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chú trọng cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy nhằm đưa vào nề nếp, phát triển thể lực nâng cao chất lượng GDTC trong nhà trường các cấp, xây dựng qui hoạch phát triển và có kế hoạch đổi mới công tác GDTC và thể thao học đường. Trong những năm gần đây, công tác GDTC đã được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho quá trình đào tạo và đã có những kết quả nhất định như: 100% các trường tiểu học đều có giờ học thể dục nằm trong chương trình quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các trường đều tham gia các hoạt động TDTT do địa phương, phòng giáo dục tổ chức. Phong trào TDTT nói chung và rèn luyện thể chất nói riêng của học sinh các cấp ngày càng phát triển rộng rãi. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác giáo dục thể chất trong các trường tiểu học hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém. Quá trình quản lý, chỉ đạo, tổ chức vận dụng nội dung hình thức tập luyện trong các nhà trường còn nhiều nơi chưa hợp lý; Công tác giảng dạy TDTT trong các trường học vẫn còn mang nặng tính hình thức, thời lượng dành cho GDTC nội khóa còn ít, hoạt động GDTC ngoại khóa còn nghèo nàn, thời lượng dành cho vận động của học sinh chưa đáp ứng nhu cầu phát triển theo lứa tuổi, thực trạng năng lực thể chất của học sinh còn nhiều hạn chế, một phần do: Cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu và thiếu hỏng, chưa đáp ứng đầy đủ cho việc tổ chức các giờ học TDTT; Đội ngũ giáo viên TDTT còn thiếu về số lượng, hạn chế về chuyên môn; Công tác GDTC chưa có biện pháp tổ chức, triển khai hợp lý; Nội dung chương trình môn học TDTT còn sơ sài, đơn điệu, các hoạt động tập luyện TDTT ngoại khoá chưa được quan tâm, đầu tư đầy đủ nên chưa có tác dụng tốt đến sự phát triển thể chất của học sinh. Chính vì vậy, hoạt động TDTT trong trường học đòi hỏi phải tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDTC nói chung và nâng cao năng lực thể chất cho học sinh nói riêng trong các trường học đó là vấn đề cấp thiết đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Trong tình hình mới hiện nay, việc quan tâm đến sức khoẻ của học sinh phổ thông các cấp, đặc biệt là học sinh tiểu học là việc không thể thiếu. Quan tâm đến sự phát triển thể thao trường học là vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát triển TDTT nước nhà, vì trường học là môi trường thuận lợi, rộng lớn, giàu tiềm năng để thế hệ trẻ nước ta rèn luyện, đồng thời là nơi để phát hiện nhân tài thể thao cho đất nước. Nhiệm vụ chính của GDTC trường học là nâng cao sức khoẻ, đảm bảo sự phát triển bình thường của cơ thể; phát triển thể lực, trang bị những kỹ năng vận động cơ bản và cần thiết cho cuộc sống lao động, sinh hoạt; hình thành thói quen rèn luyên thân thể, giữ gìn vệ sinh và giáo dục các phẩm chất đạo đức, nhân cách cho học sinh. GDTC trường học bao gồm các giờ học chính khoá và các hoạt động thể thao ngoại khóa. Thước đo trình độ thể chất của người học là tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi và cấp học. Trong GDTC, những biến đổi hình thái, chức năng sinh lý và tố chất vận động là những yếu tố cơ bản để đánh giá sự phát triển thể chất. Như vậy, để nâng cao hiệu quả GDTC thì các hoạt động TDTT có vai trò như một phương tiện chủ yếu trong GDTC, những trang thiết bị phục vụ hoạt động TDTT và yếu tố giáo viên TDTT có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của GDTC trong trường học, nhất là trong các trường tiểu học. Diễn biến phát triển thể chất ở lứa tuổi này diễn ra rất mạnh và chịu nhiều sự tác động của yếu tố tự nhiên và xã hội, nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển. Việc tác động của quá trình GDTC cũng như các hoạt động thể thao ngoại khóa đối với lứa tuổi này cần phải đảm bảo tính khoa học. Có như vậy cơ thể của các em mới phát triển bình thường theo qui luật lứa tuổi, giới tính và đạt được nền tảng cơ bản giúp các em phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần. Chính vì vậy việc phát triển và nâng cao năng lực thể chất cho học sinh tiểu học là nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng của công tác GDTC trong trường học. Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng giáo dục thể chất và phát triển thể chất cho học sinh tiểu học, trong những năm gần đây đã có một số tác giả nghiên cứu về lĩnh vực này như: Trần Thị Hương (2016), Nguyễn Văn Dũng (2017), Vũ Đức Hòa (2017), Đỗ Trọng Kiều (2018), Mai Hồng Bưởi (2018), Nguyễn Cao Điền (2019) Nguyễn Hải Trà (2019)... Các công trình nghiên cứu trên đã qua tâm tới nhiều mặt trong việc phát triển thể chất cho học sinh cũng như đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh trong trường học các cấp. Đây là những công trình khoa học có ý nghĩa thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả GDTC nói chung và phát triển thể chất cho học sinh tiểu học tại Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đưa ra các giải pháp mang tính toàn diện để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội” 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác GDTC của học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, Hà Nội, đề tài tiến hành lựa chọn và ứng dụng một số giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho đối tượng nghiên cứu phù hợp với điều kiện thực tiễn của nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác GDTC trong nhà trường các cấp. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu 1: Thực trạng công tác GDTC và thực trạng năng lực thể chất của học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội. Thực trạng về chương trình môn học Giáo dục thể chất cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội. Thực trạng cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên GDTC của trường Tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội. Thực trạng về kết quả học tập môn học GDTC và năng lực thể chất của học sinh Trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, Hà Nội Thực trạng hoạt động Thể dục thể thao ngoại khóa của học sinh Trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội Mục tiêu 2: Lựa chọn và ứng dụng các giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội Lựa chọn giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội Xây dựng nội dung giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội Ứng dụng và đánh giá hiệu quả giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội 4. Giả thuyết khoa học Đề tài đặt giả thuyết, công tác GDTC trong trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội còn chưa đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục toàn diện, phát triển hài hòa về thể chất cho học sinh, nếu áp dụng các giải pháp khoa học, phù hợp mà đề tài đã lựa chọn và xây dựng, thì sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng và hiệu quả GDTC trong nhà trường.
Mục đích nghiên cứu
Dựa trên việc đánh giá thực trạng công tác giáo dục thể chất (GDTC) tại trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, Hà Nội, bài viết đề xuất và áp dụng một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh Những giải pháp này được thiết kế phù hợp với điều kiện thực tiễn của nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác GDTC ở các cấp học.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu 1: Thực trạng công tác GDTC và thực trạng năng lực thể chất của học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
- Thực trạng về chương trình môn học Giáo dục thể chất cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
- Thực trạng cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên GDTC của trường Tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
- Thực trạng về kết quả học tập môn học GDTC và năng lực thể chất của học sinh Trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, Hà Nội
- Thực trạng hoạt động Thể dục thể thao ngoại khóa của học sinh Trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
Mục tiêu 2: Lựa chọn và ứng dụng các giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
- Lựa chọn giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
- Xây dựng nội dung giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
- Ứng dụng và đánh giá hiệu quả giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
Giả thuyết khoa học
Đề tài nghiên cứu chỉ ra rằng công tác giáo dục thể chất (GDTC) tại trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu giáo dục toàn diện và phát triển hài hòa về thể chất cho học sinh Việc áp dụng các giải pháp khoa học và phù hợp sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả GDTC trong nhà trường.
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về GDTC và thể thao trường học
GDTC trong trường học là một phần thiết yếu của mục tiêu giáo dục, nhằm phát triển toàn diện thế hệ trẻ và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân Nó không chỉ hỗ trợ thể thao thành tích cao mà còn thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của thể thao quần chúng, hướng đến mục tiêu lâu dài là hình thành nền TDTT tiến bộ, nâng cao sức khỏe và thể lực cho nhân dân, đồng thời đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần, và phấn đấu đạt vị trí xứng đáng trong các hoạt động thể thao quốc tế.
Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục thể chất (GDTC) trong các trường học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo theo nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII Mục tiêu này nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, và hình thành đội ngũ lao động có tri thức, tay nghề, năng lực thực hành, tự chủ và sáng tạo.
Sức khỏe của nhân dân không thể tách rời khỏi sức khỏe của thanh niên và học sinh Việc duy trì và nâng cao thể chất của giống nòi Việt Nam cần bắt đầu từ thế hệ trẻ, như Bác Hồ đã dạy: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” Rèn luyện thể dục thể thao là phương pháp quan trọng để đảm bảo sức khỏe và thể chất cho thế hệ hiện tại và tương lai Do đó, công tác giáo dục thể chất trong trường học đóng vai trò thiết yếu trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nhằm chuẩn bị con người cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng và Nhà nước Việt Nam có những quan điểm rõ ràng về giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục thể chất (GDTC), dựa trên nền tảng tư tưởng của học thuyết Mác Những quan điểm này nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục trong việc phát triển toàn diện con người và xây dựng xã hội.
Lênin nhấn mạnh tầm quan trọng của con người và sự phát triển toàn diện trong xã hội xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là giáo dục thế hệ trẻ Ông đề xuất các nguyên lý giáo dục thể chất theo tư tưởng Mác - xít, nhằm nâng cao sức khỏe và năng lực của thanh thiếu niên Từ quan điểm của Hồ Chí Minh, thể dục thể thao (TDTT) không chỉ là hoạt động giải trí mà còn là phương tiện giáo dục, góp phần hình thành nhân cách và phát triển thể chất cho thế hệ trẻ, từ đó xây dựng một xã hội vững mạnh.
Đảng ta đã quán triệt các cơ sở tư tưởng và lý luận trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội Những tư tưởng này được cụ thể hóa qua các đại hội Đảng, chỉ thị, nghị quyết, nghị định và thông tư về thể dục thể thao, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và yêu cầu cụ thể của đất nước.
Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992, tại Điều 41, quy định rằng Nhà nước và xã hội có trách nhiệm phát triển thể dục, thể thao dân tộc và khoa học cho nhân dân Nhà nước sẽ thống nhất quản lý sự nghiệp thể dục, thể thao, áp dụng chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học, đồng thời khuyến khích và hỗ trợ các hình thức tổ chức thể dục, thể thao tự nguyện của nhân dân Mục tiêu là tạo điều kiện cần thiết để mở rộng các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng.
Theo Điều 37 năm 2012, Nhà nước, gia đình và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện cho thanh niên trong việc học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực và trí tuệ Đồng thời, cần bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc và ý thức công dân, khuyến khích thanh niên đi đầu trong lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.
Chỉ thị số 36/CT/TW ngày 24-03-1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) đã giao Bộ GD-ĐT và Tổng cục TDTT nhiệm vụ phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác giáo dục thể chất, cải tiến chương trình giảng dạy và tiêu chuẩn rèn luyện thân thể Đồng thời, cần đào tạo giáo viên thể dục cho các trường học, tạo điều kiện cơ sở vật chất cần thiết để thực hiện chế độ giáo dục thể chất bắt buộc, nhằm biến việc tập luyện thể dục thể thao thành thói quen hàng ngày của học sinh và sinh viên, qua đó phát hiện và tuyển chọn nhiều tài năng thể thao cho quốc gia.
Các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng đã xác định quan điểm và chủ trương lớn trong công tác thể dục thể thao (TDTT) trong thời kỳ đổi mới, nhấn mạnh việc chăm sóc sức khỏe và tăng cường thể chất cho nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước Để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần có sức khỏe dồi dào, thể chất cường tráng và tinh thần phấn khởi Tập luyện TDTT được coi là biện pháp hiệu quả để nâng cao lực lượng sản xuất và quốc phòng, thể hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển sự nghiệp TDTT ở Việt Nam.
Hoạt động thể dục thể thao (TDTT) lần đầu tiên được quy định pháp lý qua Pháp lệnh TDTT năm 2000 Sau một thời gian chuẩn bị, Luật TDTT đã được Quốc hội thông qua vào năm 2006, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của TDTT tại Việt Nam Luật này bao gồm một mục với 6 điều quy định về giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong trường học, tạo cơ sở pháp lý nhằm tăng cường trách nhiệm đối với công tác TDTT nói chung và trong trường học nói riêng.
Nhà nước không chỉ lãnh đạo lĩnh vực thể dục thể thao (TDTT) và giáo dục (GD) thông qua các chính sách, mà còn triển khai những giải pháp hiệu quả để thực hiện Một trong những giải pháp quan trọng là tăng cường công tác xã hội hóa GD và TDTT, với quan điểm rằng đây là sự nghiệp chung của toàn dân Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP nhằm thúc đẩy xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và TDTT.
GD và TDTT cần huy động nguồn lực từ toàn xã hội để phát triển Các văn bản pháp lý đã tạo điều kiện cho các ngành thúc đẩy xã hội hóa, giúp mọi thành phần trong xã hội thay đổi nhận thức và cách tiếp cận Điều này tạo cơ hội cho toàn xã hội tham gia đầu tư vào giáo dục thể chất và phong trào thể thao, nhằm nâng cao thành tích thể thao đỉnh cao và hội nhập quốc tế.
Theo Luật Thể dục Thể thao được ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Giáo dục thể chất và thể thao trường học bao gồm 2 nội dung chính:
GDTC là môn học chính trong chương trình giáo dục, cung cấp kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản cho học sinh thông qua các bài tập và trò chơi Môn học này, còn được gọi là Thể dục nội khóa, đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được mục tiêu giáo dục toàn diện.
Hoạt động thể thao trong trường học là một hình thức tự nguyện, tổ chức theo phương thức ngoại khoá, phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ của học sinh Mục tiêu chính là tạo điều kiện cho học sinh thực hiện quyền vui chơi, giải trí và phát triển năng khiếu thể thao, thường được gọi là thể dục, thể thao ngoại khóa.
Một số vấn đề về GDTC trong các trường tiểu học ở Việt Nam
1.2.1 Giáo dục tiểu học là nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân Điều 59 hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã quy định: “học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Bậc tiểu học là bắt buộc không phải trả học phí” Luật giáo dục năm 1998 đã quy định “tiểu học là bậc nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dùng phát triển tình cảm , đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và giáo dục thể chất của các em hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người và giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ 6 tới 11 tuổi, được thực hiện trong
Trong 5 năm học từ lớp 1 đến lớp 5, giáo dục tiểu học cần đảm bảo học sinh có kiến thức cơ bản về tự nhiên, xã hội và con người Học sinh cũng phải phát triển kỹ năng nghe, đọc, viết và tính toán, đồng thời hình thành thói quen rèn luyện thể thao và giữ gìn vệ sinh cá nhân.
Nghị quyết TW 2 khóa 8 xác định mục tiêu phát triển tiểu học từ nay đến 2020 là "nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học" Đây là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục, mang tính phổ cập, phát triển dân tộc, hiện đại, nhân văn và dân chủ Tiểu học không chỉ là bậc học hoàn chỉnh mà còn là nền tảng vững chắc cho việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của con người, đồng thời tạo cơ sở cho giáo dục phổ thông và hệ thống giáo dục quốc dân.
Trường tiểu học đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tri thức văn hóa và kỹ năng vận động cơ bản cho học sinh trong giai đoạn đầu của bậc tiểu học Bằng phương pháp giáo dục, trường giúp trẻ tiếp cận các khái niệm khoa học, kỹ năng sống, và phát triển khả năng tư duy Đây là nơi trẻ được trang bị hệ thống kỹ năng cần thiết để thích ứng với xã hội hiện đại Để hình thành những con người phát triển toàn diện, vai trò của trường tiểu học là không thể thiếu.
Giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng và vinh quang, đánh dấu bước khởi đầu khó khăn trong việc phát triển con người toàn diện, nhằm chuẩn bị cho thế hệ tương lai làm chủ đất nước.
Trong những năm qua, bậc tiểu học đã thu hút sự quan tâm lớn từ toàn xã hội, bởi vì mỗi thay đổi tại đây đều ảnh hưởng đến mọi người Trường tiểu học, nằm gần gũi với đời sống của nhân dân, là nơi mà trẻ em bắt buộc phải trải qua, do đó, tiểu học được công nhận là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của xã hội.
Vì vậy bậc tiểu học có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
Phát triển thể dục thể thao (TDTT) và nâng cao thể lực cho học sinh là mục tiêu quan trọng nhằm tạo ra những con người có đủ trí lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Công tác giáo dục thể chất (GDTC) trong các trường tiểu học đóng vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ tri thức mới, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững cho xã hội.
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”
Giáo dục thể chất (GDTC) đóng vai trò quan trọng trong việc rèn luyện và phát triển phẩm chất như ý chí, lòng dũng cảm, tính quyết đoán, kiên trì và ý thức kỷ luật cho học sinh Đồng thời, GDTC cũng giáo dục học sinh về lòng tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính trung thực và cao thượng, góp phần tạo nên lối sống lành mạnh và vui tươi, đồng thời đẩy lùi các hành vi xấu và tệ nạn xã hội Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, số lượng trường tiểu học tại Việt Nam đã tăng đáng kể, đáp ứng nhu cầu học tập của 100% trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 11 Tỷ lệ nhập học ở bậc tiểu học ổn định, cho thấy sự phát triển tích cực của hệ thống giáo dục này Sự gia tăng số trường và giáo viên tiểu học là kết quả của đầu tư từ Đảng, Nhà nước và sự đóng góp của cộng đồng, qua đó nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học tại Việt Nam.
1.2.1 Mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục thể chất cấp tiểu học
1.2.1.1 Mục tiêu công tác giáo dục thể chất tiểu học
Mục tiêu là những dự báo về kết quả hoạt động, phản ánh nhu cầu khách quan của xã hội Nó thể hiện kết quả cuối cùng của hoạt động sau một quá trình, đồng thời phản ánh kết quả ở từng giai đoạn Qua các kết quả đạt được ở các giai đoạn thực hiện mục tiêu, chúng ta có thể nhận diện kết quả cuối cùng của hoạt động Trong giáo dục nói chung và giáo dục thể chất nói riêng, mục đích là đạt được kết quả giáo dục cần thiết để đáp ứng yêu cầu của xã hội và nhu cầu của con người.
Mục tiêu giáo dục thể chất (GDTC) quốc dân được hình thành dựa trên nhu cầu xây dựng xã hội chủ nghĩa và phù hợp với mục tiêu giáo dục chung của Đảng và Nhà nước GDTC là một hình thức giáo dục đặc thù, phối hợp với các hoạt động giáo dục khác như đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và lao động kỹ thuật, nhằm phát triển toàn diện thế hệ trẻ Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu GDTC ở Việt Nam là khôi phục và tăng cường sức khỏe cho nhân dân, đồng thời xây dựng con người phát triển toàn diện, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bậc học tiểu học là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục phổ thông, kéo dài 5 năm từ lớp 1 đến lớp 5, đóng vai trò nền tảng quan trọng cho sự phát triển của trẻ em Mục tiêu của giáo dục tiểu học là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, đồng thời hình thành năng lực cá nhân, sự năng động và sáng tạo Bậc học này còn giúp xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, tạo điều kiện cho học sinh tiếp tục học lên các cấp cao hơn hoặc tham gia vào cuộc sống lao động, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu giáo dục thể chất (GDTC) cho học sinh tiểu học cần được xây dựng dựa trên mục tiêu chung của GDTC quốc dân và phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý của các em GDTC cho học sinh phổ thông nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe, phát triển thể lực toàn diện, cung cấp kiến thức cơ bản về vệ sinh cơ thể và môi trường, hình thành thói quen tập luyện thể dục thể thao, giữ gìn vệ sinh, cũng như thực hiện các động tác cơ bản trong thể dục thể thao Điều này góp phần tạo ra sự phát triển tự nhiên cho trẻ, giúp trẻ có cuộc sống vui tươi và lành mạnh.
Môn thể dục tiểu học có ba mục tiêu cơ bản: bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho học sinh, phát triển các tố chất thể lực như mềm dẻo và khéo léo, cùng với việc tạo điều kiện cho sự phát triển của cơ thể theo quy luật lứa tuổi và giới tính Ngoài ra, môn học còn trang bị cho học sinh những tri thức và kỹ năng cần thiết để rèn luyện tư thế, động tác cơ bản, giúp nâng cao hiệu quả trong học tập và sinh hoạt, đồng thời chuẩn bị cho việc học tập các nội dung thể dục ở các cấp học tiếp theo Cuối cùng, môn thể dục cũng góp phần giáo dục đạo đức, hình thành nếp sống lành mạnh và tổ chức vui chơi có kỷ luật, tạo tiền đề cho sự phát triển nhân cách con người xã hội chủ nghĩa.
So sánh mục tiêu giáo dục thể chất (GDTC) cho học sinh tiểu học giữa chương trình cũ và chương trình mới cho thấy sự thay đổi đáng kể Chương trình trước đây tập trung vào việc trang bị kiến thức và hình thành kỹ năng thực hiện động tác, với mục tiêu chính là phát triển kỹ năng vận động Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, giáo viên thường dành nhiều thời gian vào việc giải thích và làm mẫu, dẫn đến việc học sinh tập luyện ít và thiếu sự sinh động trong các hoạt động thể chất.
Học sinh chỉ nghe và xem trong quá trình học tập dẫn đến hiệu quả giáo dục thấp, không hình thành được kỹ năng vận động Điều này cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và thể lực của các em.
Đặc điểm phát triển các tố chất thể lực của học sinh tiểu học
Sự phát triển khả năng vận động và các tố chất thể lực có mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển tổng thể của cơ thể và các cơ quan chức năng Tốc độ phát triển thể lực thay đổi theo từng lứa tuổi, với từng tố chất thể lực tăng trưởng tự nhiên theo thời gian Quá trình phát triển của cơ thể có thể được chia thành hai giai đoạn chính.
- Giai đoạn thứ nhất: các tố chất thể lực tăng nhanh, liên tục
Trong giai đoạn thứ hai, các tố chất thể lực có thể tăng chậm lại, dừng lại hoặc thậm chí giảm sút Sự phát triển của các tố chất thể lực diễn ra không đồng bộ, với mỗi tố chất phát triển theo một nhịp độ riêng biệt ở từng thời kỳ khác nhau Trình tự phát triển các tố chất thể lực được xác định theo thứ tự: sức nhanh, sức mạnh và sức bền Quy luật này áp dụng cho cả nam và nữ.
Phát triển thể lực đóng vai trò quan trọng trong huấn luyện thể thao, bao gồm các yếu tố như sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khả năng phối hợp vận động và độ mềm dẻo Những yếu tố này kết hợp với nhau để tạo nên một nền tảng thể lực vững chắc, giúp vận động viên nâng cao hiệu suất thi đấu.
Sức nhanh là thời gian phản ứng tiềm tàng, tần số động tác và tốc độ của một động tác đơn lẻ, thường biểu hiện tổng hợp trong hoạt động thể lực Đây là tố chất phát triển sớm, đặc biệt trong độ tuổi từ 6 đến 13, giai đoạn lý tưởng để phát triển tốc độ Trẻ em từ 8 đến 10 tuổi mới bắt đầu tập luyện nên chú trọng chạy cự ly ngắn với tốc độ tối đa Việc tập luyện thể dục thể thao có tác dụng rõ rệt trong việc giảm thời gian phản ứng, đặc biệt ở lứa tuổi 9 đến 12.
Phát triển động tác đơn lẻ đạt hiệu quả tốt nhất ở độ tuổi 9-10, khi sức nhanh của trẻ em nam và nữ phát triển tương đương, đặc biệt từ 6-11 tuổi đối với nam và 6-10 tuổi đối với nữ Huấn luyện sức nhanh nên được thực hiện ngay trong giai đoạn này, với thời gian vận động không quá 7-8 giây và đủ thời gian nghỉ giữa các lần lặp lại để hồi phục hoàn toàn Các bài tập tốc độ nên được thực hiện ngay sau phần khởi động Sức mạnh là khả năng khắc phục trọng tải bên ngoài nhờ sự căng cơ, và nó phụ thuộc vào số lượng sợi cơ tham gia, chế độ co và chiều dài ban đầu của sợi cơ Sự phát triển sức mạnh cơ bắp thay đổi theo lứa tuổi, với nhóm cơ duỗi thân mình và đùi phát triển mạnh hơn so với các nhóm cơ khác Sức mạnh ở nam giới phát triển đều từ 6-17 tuổi và chậm lại từ 17-20 tuổi, trong khi ở nữ giới, sức mạnh phát triển từ 6-14 tuổi và chậm lại từ 14-20 tuổi Trong quá trình giảng dạy và huấn luyện, cần sắp xếp các bài tập một cách khoa học, tập trung vào phát triển sức mạnh nhóm cơ chân mà không nên sử dụng các bài tập phát triển sức mạnh chuyên môn.
Sức bền là khả năng duy trì hoạt động với cường độ nhất định trong thời gian dài, đặc biệt ở lứa tuổi 9-10, khi hệ tuần hoàn và hô hấp chưa hoàn thiện, sức bền của trẻ còn hạn chế và chủ yếu phát triển sức bền tĩnh lực Nghiên cứu cho thấy rằng trẻ em trong độ tuổi này có thể chịu được lượng vận động sức bền, và sức bền sẽ cải thiện rõ rệt nhờ tập luyện Trẻ em được tập luyện có sức bền cao hơn khoảng 14% so với bạn cùng lứa không tập luyện Do đó, trong quá trình giảng dạy và huấn luyện, cần lựa chọn bài tập hoặc trò chơi thú vị để kích thích niềm đam mê tập luyện, đồng thời thay đổi phương pháp giảng dạy thường xuyên để tránh sự nhàm chán Nên tập trung vào các bài tập phát triển sức bền tĩnh lực và sức bền ưa khí cho trẻ.
Năng lực phối hợp vận động là khả năng tiếp thu nhanh chóng và chất lượng trong việc hoàn thiện kỹ năng thể dục thể thao Tố chất này liên quan đến cảm giác thời gian, định hướng không gian, hoạt động của khớp xương, độ đàn hồi của dây chằng và các yếu tố như sức nhanh, sức mạnh, sức bền Việc nâng cao tố chất này ở lứa tuổi nhỏ khá dễ dàng do hệ cơ và xương - khớp còn mềm dẻo và có tính đàn hồi tốt.
Năng lực phối hợp vận động bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ 5-6 tuổi, đạt đỉnh cao nhất trong giai đoạn 7-10 tuổi Từ 10-12 tuổi, chỉ số này dần ổn định nhưng sau đó có xu hướng giảm nhẹ Đặc biệt, năng lực này có sự dao động lớn và không ổn định trong cùng một độ tuổi.
Phát triển năng lực phối hợp vận động cần dựa trên yêu cầu của môn thể thao, các bài tập chuyên môn và trình độ phát triển của người tập Đối với những động tác phức tạp, việc rèn luyện liên tục và có hệ thống là rất quan trọng, vì nếu ngưng tập luyện hoặc để cách quãng, năng lực này sẽ giảm sút nhanh chóng.
Khả năng phối hợp vận động phát triển mạnh mẽ từ 6-13 tuổi, đặc biệt là từ 6-11 tuổi đối với nam và từ 6-10 tuổi đối với nữ, sau đó phát triển chậm lại Trong quá trình giảng dạy và huấn luyện, cần sắp xếp các bài tập một cách khoa học, kết hợp rèn luyện sức nhanh, sức mạnh và sức bền với khả năng phối hợp vận động để hoàn thành các động tác thể thao nhanh chóng và chính xác Trước khi thực hiện các bài tập, cần khởi động kỹ lưỡng, và các bài tập phát triển năng lực phối hợp nên được thực hiện trước Mềm dẻo, khả năng thực hiện động tác với biên độ lớn, phát triển tốt nhất từ 5-13 tuổi do hệ thống gân, cơ, khớp còn mềm và dễ co dãn Tuy nhiên, sau tuổi 16, khả năng phát triển mềm dẻo giảm dần Mức độ phát triển mềm dẻo và khéo léo liên quan chặt chẽ đến chức năng của hệ thần kinh trung ương; tập luyện lâu dài giúp tăng độ linh hoạt và khả năng phối hợp giữa các nhóm cơ khác nhau, hoàn thiện sự phối hợp giữa các cơ hưởng ứng và cơ đối kháng.
Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình phát triển thể chất của học
1.4.1 Nhóm yếu tố tự nhiên
Theo các nhà khoa học như Tăng Phan Huy và Nguyễn Thế Truyền, di truyền là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất của con người, đặc biệt là ở trẻ em từ 6-11 tuổi Từ một trứng được thụ tinh, quá trình phát triển từ tế bào đơn thành cơ thể phức tạp đa bào hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố di truyền Di truyền không chỉ ảnh hưởng đến hình thái cơ thể như chiều cao, độ rộng và độ dài các bộ phận mà còn có tác động lớn đến sự phát dục của tuyến nội tiết và các cơ quan nội tạng.
Nhân tố môi trường bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thể chất của con người Môi trường tự nhiên, như điều kiện địa lý và khí hậu, tác động đến chiều cao và tuổi dậy thì của trẻ em, với những người sinh ra ở vùng hàn đới thường cao hơn và có tuổi dậy thì muộn hơn so với trẻ ở vùng nhiệt đới Ngoài ra, các mùa trong năm cũng ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, trong đó mùa thu đông và xuân thường mang lại sự phát triển tốt hơn so với mùa hè Môi trường xã hội, bao gồm giáo dục và chăm sóc sức khỏe, cũng đóng vai trò quan trọng; trẻ em sinh ra ở các quốc gia phát triển có điều kiện sống tốt hơn sẽ phát triển thể chất vượt trội hơn so với trẻ em ở các quốc gia kém phát triển.
1.4.2 Nhóm yếu tố xã hội
Theo các nghiên cứu của các học giả di truyền học và sinh lý học, sự phát triển khỏe mạnh của trẻ em phụ thuộc lớn vào yếu tố dinh dưỡng, đặc biệt là sự cung cấp đầy đủ chất đạm và muối khoáng Các chuyên gia như Bungacôva (Nga), Dương Tình Nhượng (Trung Quốc) và Nguyễn Xuân Điền (Việt Nam) nhấn mạnh rằng chế độ ăn uống cân bằng có thể thúc đẩy sự phát triển thể chất của thiếu niên Ngược lại, dinh dưỡng kém không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất mà còn có thể gây ra tình trạng thấp bé nhẹ cân do thiếu chất đạm và vi lượng như canxi, sắt Hơn nữa, dinh dưỡng cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển não bộ và trí lực; việc thiếu dinh dưỡng lâu dài có thể làm giảm số lượng và chất lượng tế bào não, dẫn đến suy giảm chức năng và trí tuệ của trẻ.
1.4.2.2 Yếu tố tập luyện TDTT
Các học giả TDTT trong và ngoài nước như Nôvicốp A.D, Matvêép L.P (Nga), Điền Mạch Lý Trí Dũng (Trung Quốc), Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn (Việt Nam) đều nhấn mạnh rằng việc tập luyện thể dục thể thao một cách khoa học và hợp lý sẽ mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển thể chất, đặc biệt là ở thanh thiếu niên và nhi đồng Họ khẳng định rằng quá trình tập luyện giúp tăng cường trao đổi chất, thúc đẩy sự phát triển của xương và cơ bắp, nâng cao sức mạnh và khả năng vận động Bên cạnh đó, việc tập luyện còn tận dụng các yếu tố tự nhiên như ánh sáng mặt trời và nhiệt độ không khí để cải thiện khả năng thích nghi, sức đề kháng và hệ miễn dịch của trẻ em.
Các yếu tố tự nhiên và xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giáo dục thể chất (GDTC) Việc khai thác ưu điểm của các yếu tố này sẽ góp phần cải thiện chất lượng GDTC cho học sinh ở mọi cấp độ Đặc biệt, việc tập luyện thể dục thể thao không chỉ thúc đẩy quá trình trao đổi chất mà còn giúp phát triển thể chất một cách mạnh mẽ cho học sinh.
Những cơ sở lý luận về các biện pháp chuyên môn nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất
1.5.1 Đánh giá chất lượng giáo dục Đánh giá chất lượng và hiệu quả dạy học là quá trình thu nhận, xử lý kịp thời có hệ thống thông tin về hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục, căn cứ vào mục tiêu dạy học, mục tiêu đào tạo, làm cơ sở cho những chủ trương giải pháp và hành động giáo dục tiếp theo Đánh giá chất lượng và hiệu quả dạy học là quá trình thu nhận xử lý thông tin, nhằm mục đích tạo cơ sở cho những quyết định về mục tiêu, chương trình, phương pháp dạy học, về những hoạt động khác có liên quan đến nhà trường và ngành giáo dục Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu nhận xử lý thông tin về trình độ khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động của quá trình dạy học nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường cho đối tượng HS để họ học tập ngày một tiến bộ Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Trọng Hải và cộng sự (1996) cho rằng: “Đánh giá chất lượng giáo dục là một công việc được tiến hành có hệ thống để xác định mức độ đạt được của người học đối với các mục tiêu dạy học hay mục tiêu đào tạo đã đặt ra Nó có thể bao gồm sự mô tả liệt kê định lượng hay định tính các kết quả đó kèm theo nhận xét khi đem đối chiếu, so sánh chúng với mong muốn đã đặt ra” [26] Đánh giá giáo dục luôn gắn liền với mục tiêu giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của học sinh, sinh viên, đào tạo những người lao động phát triển toàn diện, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức, sức khoẻ học vấn và nghề nghiệp, có ý thức cộng đồng, năng động và sáng tạo, có ý thức giữ gìn phát huy các giá trị văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, có tính tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
1.5.2 Đánh giá chất lượng giáo dục thể chất
GDTC là một trong những mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân Giáo dục thể chất được định nghĩa là việc phát triển thể lực, kỹ năng vận động và thói quen rèn luyện sức khỏe cho học sinh.
Quá trình sư phạm đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, giúp họ phát triển toàn diện về thể chất và nhân cách Mục tiêu của quá trình này là nâng cao khả năng làm việc và góp phần kéo dài tuổi thọ của con người.
GDTC là một hình thức giáo dục có tổ chức, nhằm truyền đạt tri thức và kỹ năng từ thế hệ này sang thế hệ khác Nó bao gồm quá trình sư phạm với vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động phù hợp với học sinh theo nguyên tắc sư phạm Giáo dục thể chất có hai mặt độc lập: dạy học động tác và giáo dục tố chất thể lực Nội dung giáo dục thể chất liên quan chặt chẽ đến giáo dục trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động trong hệ thống giáo dục.
GDTC là lĩnh vực thể dục thể thao xã hội nhằm phát triển toàn diện các tố chất thể lực và năng lực thể chất Mục tiêu của GDTC là hoàn thiện thể hình, củng cố sức khỏe, hình thành hệ thống kỹ năng và kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống Đồng thời, GDTC còn giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức và nhân cách cho người tham gia.
1.5.3 Vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ học
Ngành giáo dục đào tạo Việt Nam hiện đang tập trung vào việc giải quyết bức xúc, khắc phục yếu kém và vượt qua khó khăn thách thức Để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo giai đoạn 2001 - 2010 của Chính phủ, ngành đã đề ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Giáo dục - đào tạo tại Việt Nam đã có những nỗ lực và đạt được một số thành tựu ban đầu, tuy nhiên vẫn còn nhiều yếu kém và bất cập Hiện tại, ngành giáo dục đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức cần được khắc phục để phát triển bền vững.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước, dẫn đến phần lớn học sinh, sinh viên khi ra trường còn hạn chế về năng lực, tư duy sáng tạo, cũng như kỹ năng thực hành và khả năng thích ứng với nghề nghiệp.
Nội dung và chương trình giáo dục hiện nay chủ yếu nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn và chưa gắn kết hiệu quả giữa các cấp học và loại hình đào tạo Phương pháp dạy và học vẫn còn thiên lệch, chủ yếu truyền thụ một chiều, không khuyến khích tính tự chủ và sáng tạo của học sinh, sinh viên Tâm lý thi cử vẫn nặng nề, dù có nhiều cải cách nhưng kỳ thi vào đại học và cao đẳng vẫn căng thẳng và tốn kém Cơ cấu giữa các cấp học và ngành nghề chưa hợp lý, trong khi công tác chỉ đạo vẫn tập trung quá nhiều vào đào tạo đại học, chưa chú trọng đúng mức đến đào tạo nghề, đặc biệt là nghề trình độ cao và trung học chuyên nghiệp Dự báo và quy hoạch ngành nghề đào tạo còn hạn chế, dẫn đến việc phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THPT chậm triển khai, thiếu giải pháp hiệu quả để thu hút giới trẻ chọn học nghề và trung cấp nghề.
Đội ngũ giáo viên ở các bậc học hiện đang đối mặt với tình trạng bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu Mặc dù tỷ lệ giáo viên có gia tăng, nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu, đặc biệt là ở bậc học phổ thông, nơi thiếu khoảng 100 nghìn giáo viên, chủ yếu tại các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao Ngoài ra, các môn học như sinh vật, kỹ thuật, giáo dục công dân, thể dục, nhạc, họa cũng đang thiếu giáo viên Trình độ chuyên môn của giáo viên ở các vùng đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc thiểu số vẫn còn yếu kém Tại bậc đại học, phần lớn giảng viên đang cao tuổi, dẫn đến nguy cơ thiếu hụt nhân lực trong tương lai.
Cơ sở vật chất kỹ thuật trong giáo dục tại nhiều địa phương vẫn còn thiếu thốn, với hơn 2.000 phòng học ba ca và hơn 65.000 phòng học tạm bợ Trang thiết bị và phòng thí nghiệm chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu giảng dạy, dẫn đến tình trạng dạy chay, học chay phổ biến Hệ thống quản lý giáo dục chậm đổi mới, bộ máy cồng kềnh và hoạt động kém hiệu quả Đội ngũ cán bộ quản lý thiếu năng lực điều hành, trong khi tình trạng vi phạm kỷ cương và biểu hiện "thương mại hóa" giáo dục chưa được ngăn chặn kịp thời.
Để phát triển giáo dục - đào tạo, ngành giáo dục cần tập trung giải quyết những bức xúc hiện nay Tại Hội nghị triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới, Thủ tướng Phan Văn Khải yêu cầu thực hiện các biện pháp cụ thể, bắt đầu từ việc triển khai chương trình sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6 Cần khắc phục những vấn đề về đội ngũ giáo viên, trang thiết bị dạy học và nội dung sách Phát triển đội ngũ nhà giáo về số lượng, cơ cấu và chất lượng là ưu tiên hàng đầu để nâng cao hiệu quả giáo dục Chính phủ đã phê duyệt đề án kiên cố hóa trường lớp, kêu gọi sự tham gia của toàn xã hội để cải thiện cơ sở vật chất Mục tiêu là chấm dứt tình trạng học ca ba và loại bỏ lớp học tạm bợ vào năm 2005 Cần xây dựng cơ sở vật chất theo tiêu chuẩn quốc gia, tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng và tự làm đồ dùng học tập, đồng thời đảm bảo học sinh ở vùng khó khăn có đủ sách giáo khoa mới.
1.5.4 Các phương pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong giờ học GDTC
Nâng cao mật độ vận động trong các giờ học thực hành giáo dục thể chất là giải pháp quan trọng để cải thiện chất lượng và hiệu quả của môn học này Mật độ động thấp cho thấy lượng vận động trong buổi học không đủ, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ của học sinh tiểu học Điều này chỉ ra rằng công tác giáo dục thể chất tại các trường tiểu học còn nhiều hạn chế, cần được đổi mới và hoàn thiện hơn Mật độ động được xác định là tỷ lệ thời gian thực hiện bài tập so với tổng thời gian của buổi học, và giữa cường độ và khối lượng vận động có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.
Quản lý thể dục thể thao (TDTT) đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội của Đảng và Nhà nước, đồng thời thúc đẩy sự phát triển xã hội Để đáp ứng nhu cầu về TDTT, cần xác định các mục tiêu thực tế và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội Việc đảm bảo các điều kiện cần thiết như công tác tư tưởng, đội ngũ cán bộ, cùng với các nguồn lực vật chất và kỹ thuật là rất quan trọng để giải quyết các nhiệm vụ và mục tiêu của TDTT.
Quản lý công tác giáo dục thể chất cần được thực hiện một cách khoa học, kết hợp chặt chẽ giữa thể dục thể thao chính khóa và ngoại khóa Giờ học thể dục thể thao đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hài hòa các khả năng thể lực và ảnh hưởng tích cực đến phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, và thẩm mỹ của học sinh Hoạt động thể thao ngoại khóa không chỉ đáp ứng nhu cầu giải trí của học sinh, sinh viên mà còn góp phần nâng cao năng lực thể chất và thành tích thể thao của họ.
Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả Giáo dục thể chất ở bậc tiểu học
Theo các học giả như Nôvicốp, Matvêép, Nguyễn Toán, Vũ Đức Thu và Đồng Văn Triệu, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả dạy học môn Giáo dục thể chất (GDTC), đặc biệt là ở bậc tiểu học Các yếu tố này bao gồm người học, người thầy, chương trình giảng dạy, phương pháp và biện pháp dạy học, cùng với cơ sở vật chất như sân bãi và dụng cụ thiết bị dạy học.
1.6.1 Về yếu tố người học
Thái Duy Tuyên nhấn mạnh rằng trong phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh đóng vai trò quyết định đến kết quả học tập của cả người học và người dạy Ông cũng chỉ ra rằng ngoài yếu tố di truyền và môi trường xã hội, môi trường giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập, trong khi động cơ học tập và phương pháp học tập phù hợp cũng là những yếu tố quan trọng Hiện nay, nhiều quốc gia tiên tiến đang đổi mới phương pháp dạy học nhằm tăng cường sự tích cực trong quá trình học tập của học sinh.
Các chuyên gia sư phạm như Macarenco (Nga), Thái Duy Tuyên và Trần Bá Hoành nhấn mạnh rằng, mặc dù giáo dục hiện đại không coi người thầy là trung tâm như trong giáo dục cổ điển, nhưng vai trò dẫn dắt của người thầy vẫn rất quan trọng Giáo dục hiện đại yêu cầu người thầy không chỉ có phẩm chất đạo đức chuẩn mực mà còn cần có trình độ tri thức lý luận và thực hành cao, năng lực sư phạm tốt, khả năng cuốn hút học sinh và khai thác tiềm năng học tập, cùng với khả năng tư duy độc lập và sáng tạo của học sinh.
1.6.3 Về Chương trình môn học
Các quốc gia có nền giáo dục phát triển như Nga, Mỹ và Trung Quốc coi chương trình giảng dạy là yếu tố then chốt trong quá trình dạy học Chương trình này không chỉ mang tính pháp quy mà còn thể hiện rõ mục đích và mục tiêu trong các nhiệm vụ dạy học cụ thể, đồng thời là cầu nối tương tác giữa giáo viên và học sinh Qua đó, học sinh có cơ hội tiếp thu kiến thức về thể dục, rèn luyện kỹ năng vận động cơ bản và nâng cao thể chất.
Một chương trình giáo dục hợp lý và khoa học cần được xây dựng dựa trên lý luận của khoa học giáo dục chuyên ngành, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và điều kiện cơ sở vật chất Khi có được chương trình dạy học khoa học hợp lý, việc nâng cao hiệu quả giáo dục của môn học sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Chương trình giáo dục ở nhiều quốc gia thường thay đổi sau 8 - 10 năm, trong khi ở Việt Nam, Bộ GD&ĐT đã và đang thường xuyên đổi mới chương trình dạy học, đặc biệt là môn Giáo dục thể chất ở bậc tiểu học Mục tiêu là xây dựng một chương trình dạy học hiện đại, khoa học và phù hợp với đặc điểm văn hóa dân tộc.
1.6.4 Về phương pháp dạy học
Thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, mang đến nhiều cơ hội mới cho giáo dục và đào tạo toàn cầu Công nghệ giáo dục như giáo dục từ xa, máy tính bảng, và PowerPoint đã tạo ra cuộc cách mạng trong phương pháp dạy học Tuy nhiên, mặt trái của công nghệ cũng gây ra nhiều vấn đề cho học sinh, như nghiện game và xao nhãng trong việc học Để đối phó với thách thức này, các chuyên gia giáo dục đang nghiên cứu và phát triển các phương pháp dạy học mới nhằm nâng cao hứng thú, sự tập trung và năng lực tự học của học sinh thông qua thảo luận, dạy học gợi mở và ứng dụng công nghệ thông tin.
Công tác đổi mới phương pháp dạy học đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc tích cực hóa quá trình học tập, cả trong nước và quốc tế Điều này hứa hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp cho giáo dục nói chung và giáo dục thể chất ở bậc tiểu học nói riêng.
1.6.5 Điều kiện sân bãi dụng cụ
Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai công tác giáo dục thể chất (GDTC) tại trường học, góp phần đảm bảo chất lượng dạy và học Bộ GD&ĐT đã đề ra chiến lược phát triển giáo dục từ đầu thế kỷ XXI, nhấn mạnh việc tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực xã hội nhằm hiện đại hóa cơ sở vật chất và trang thiết bị giảng dạy Đặc biệt, trong bối cảnh đổi mới phương pháp dạy học tích cực, việc trang bị công nghệ thông tin và các thiết bị dạy học là rất cần thiết, nhất là ở bậc tiểu học Tuy nhiên, do khó khăn kinh tế, nhiều trường học vẫn thiếu sân bãi và dụng cụ tập luyện cơ bản, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng GDTC ở cấp tiểu học.
Kết quả dạy học môn Giáo dục thể chất (GDTC) ở bậc tiểu học chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố chính, bao gồm người học, người thầy, chương trình, phương pháp và biện pháp dạy học, cùng với cơ sở vật chất như sân bãi và dụng cụ thiết bị Trong đó, yếu tố người học và người thầy giữ vai trò quyết định, trong khi các yếu tố khác đóng vai trò hỗ trợ quan trọng.
1.7 Các công trình nghiên cứu có liên quan
Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất (GDTC) trong các trường học đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học và nhà giáo dục chuyên môn từ nhiều lĩnh vực khác nhau Các nghiên cứu và công trình tiêu biểu của các tác giả đã đóng góp đáng kể vào việc cải thiện GDTC trong môi trường giáo dục.
Từ năm 2001 đến 2003, Viện Khoa học Thể dục Thể thao cùng các trường đại học và cao đẳng đã tiến hành điều tra thể chất của người Việt Nam trong độ tuổi từ 6 đến 20 Năm 2008, tác giả Bùi Quang Hải thực hiện nghiên cứu về sự phát triển thể chất của học sinh từ 6 đến 10 tuổi tại một số tỉnh phía Bắc bằng phương pháp quan sát dọc.
Các công trình khảo sát đã cung cấp thông tin thực tiễn quan trọng, làm cơ sở cho việc phân tích và so sánh sự phát triển thể chất của học sinh ở các nhóm tuổi khác nhau Từ đó, có thể đề xuất những giải pháp phát triển vừa thực tiễn vừa khoa học hơn.
Tác giả Trịnh Trung Hiếu đã nghiên cứu cải tiến chương trình thể dục cho học sinh tiểu học tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao thể lực cho học sinh Mặc dù vậy, nghiên cứu chỉ tập trung vào nội dung tập luyện trong giờ học, trong khi vấn đề tập luyện ngoại khóa vẫn chưa được đề cập đầy đủ.
Tuy nhiên đổi mới phương pháp dạy học môn GDTC ở bậc tiểu học cho đến nay vẫn chưa được thực sự các nhà nghiên cứu quan tâm
Hướng nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng Giáo dục Thể chất (GDTC) bậc tiểu học vẫn còn hạn chế Một trong những công trình tiêu biểu là nghiên cứu của tác giả Huỳnh Trọng Khải vào năm 2000, tập trung vào sự phát triển thể chất của học sinh nữ tiểu học từ 7 đến 11 tuổi tại TP Hồ Chí Minh Nghiên cứu này đã chứng minh rõ ràng hiệu quả của GDTC trong việc phát triển thể chất cho cả nam và nữ học sinh tiểu học.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Chủ thể nghiên cứu: Một số giải pháp nâng chất lượng Giáo dục thể chất cho học sinh tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm các chuyên gia, cán bộ quản lý, lãnh đạo, nhà sư phạm và học sinh trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội.
Nghiên cứu được thực hiện trên 820 học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 tại trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội Mục tiêu của đề tài là khảo sát thực trạng kết quả môn giáo dục thể chất trong chương trình giảng dạy, đánh giá năng lực thể chất theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, và tìm hiểu nhu cầu cũng như sự ham thích của học sinh đối với các hoạt động thể thao ngoại khóa Ngoài ra, nghiên cứu còn xem xét các yếu tố ảnh hưởng và hình thức tập luyện ngoại khóa trong các môn thể thao.
Bài viết đề cập đến 18 nhà giáo, bao gồm các nhà sư phạm đang quản lý và giảng dạy tại các trường Đại học đào tạo sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất Họ cũng là cán bộ và giáo viên tại các trường Tiểu học ở huyện Phú Xuyên, cùng với học sinh Tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội.
Tại trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội, có 172 học sinh lớp 4, trong đó có 75 nữ Đây là nhóm đối tượng được chọn để thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá hiệu quả của các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất theo nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
2.2.1 Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu
Phương pháp nghiên cứu này được sử dụng nhằm hệ thống hóa kiến thức liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, từ đó hình thành cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng giáo dục thể chất Nó giúp đề xuất giả thuyết khoa học, xác định mục đích và mục tiêu nghiên cứu, đồng thời thu thập thêm số liệu để kiểm chứng và so sánh với dữ liệu đã có trong quá trình nghiên cứu.
Để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất tại trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội, nghiên cứu này sử dụng phương pháp tổng hợp các nguồn tư liệu khác nhau nhằm tìm ra luận cứ khoa học phù hợp với thực tiễn Đề tài đã tham khảo nhiều tài liệu từ thư viện Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội, thư viện trường tiểu học Minh Tân A, cũng như các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế, tạp chí chuyên ngành, và văn bản quản lý nhà nước liên quan Danh mục tài liệu tham khảo chi tiết được trình bày trong phần cuối của nghiên cứu.
Để đánh giá một đề tài nghiên cứu, cần tham khảo tài liệu và các công trình nghiên cứu liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc Việc này giúp định hướng nghiên cứu đúng đắn, phục vụ hiệu quả cho mục tiêu đã đề ra.
Mục đích của đề tài là sử dụng phương pháp phỏng vấn để thu thập thông tin phục vụ cho nghiên cứu và điều tra thực trạng giáo dục thể chất tại trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội Đề tài cũng nhằm xác định và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục thể chất trong các trường tiểu học hiện nay Trong quá trình nghiên cứu, đề tài áp dụng cả phương pháp phỏng vấn trực tiếp và gián tiếp để thu thập dữ liệu cần thiết.
Phỏng vấn gián tiếp là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc gửi phiếu hỏi đã được in sẵn đến các đối tượng như chuyên gia, nhà quản lý, giáo viên và học sinh Sau khi phát phiếu hỏi, các thông tin sẽ được thu thập và xử lý để đánh giá kết quả phỏng vấn.
Phỏng vấn trực tiếp là phương pháp hiệu quả để thu thập dữ liệu về tình hình giáo dục thể chất và thể thao trong trường học, cũng như thực trạng giảng dạy môn giáo dục thể chất Đối tượng phỏng vấn bao gồm học sinh, giáo viên và các nhà quản lý, nhằm hiểu rõ hơn về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực này.
Để đánh giá, sau khi thu thập phiếu phỏng vấn, chúng tôi sẽ áp dụng các phương pháp toán học thống kê để xử lý dữ liệu Tiếp theo, tiến hành phân tích và đánh giá thực trạng, đồng thời lựa chọn các giải pháp phù hợp để thực nghiệm trên đối tượng nghiên cứu.
2.2.3 Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp quan sát sẽ được áp dụng trong suốt quá trình nghiên cứu để theo dõi các giờ học của học sinh, cùng với các điều kiện như sân tập, thiết bị và phương pháp tổ chức tập luyện Qua đó, chúng tôi sẽ xác định những yếu điểm, khó khăn và hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả giờ học, từ đó làm cơ sở để lựa chọn các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu tiến hành quan sát trực tiếp các giờ học nội khóa, tập trung vào nội dung giảng dạy trong giáo án, các hoạt động vận động, mật độ và cường độ hoạt động thể chất Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét tinh thần và thái độ học tập của học sinh, cũng như kết quả học tập sau mỗi giờ học Ngoài ra, đề tài còn tiến hành quan sát các buổi tập luyện ngoại khóa của học sinh, đánh giá các điều kiện đảm bảo cho việc tập luyện, cũng như phương pháp và hình thức tập luyện ngoại khóa tại trường.
2.2.4 Phương pháp kiểm tra sư phạm
Mục đích của nghiên cứu này là thu thập số liệu về sự phát triển thể lực của học sinh, nhằm đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục thể chất tại trường tiểu học Minh Tân A, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cung cấp số liệu để so sánh kết quả thực nghiệm ứng dụng các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh.
* Cách thức tiến hành: đề tài sử dụng 4/6 test kiểm tra theo tiêu chuẩn RLTT do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành (Quyết định 53/2008/BGDĐT của
Bộ Giáo dục và Đào tạo)
- Test 1: Nằm ngửa gập bụng (lần/30 giây)
+ Sân bãi dụng cụ: Đệm cao su hoặc ghế băng
Để thực hiện phương pháp kiểm tra, người tham gia ngồi với chân co 90 độ ở đầu gối, đảm bảo hai bàn chân tiếp xúc với sàn Một học sinh khác sẽ hỗ trợ bằng cách dùng hai tay giữ chắc phần dưới cẳng chân, nhằm ngăn không cho bàn chân của người được kiểm tra rời khỏi mặt sàn.
+ Cách tính thành tích: Mỗi lần ngả người, co bụng được tính một lần
Tính số lần đạt được trong 30 giây
- Test 2: Bật xa tại chỗ (cm)
+ Sân bãi dụng cụ đo: Hố cát nhảy xa trên sân điền kinh của nhà trường
Dụng cụ đo là thước dây
Để thực hiện bài kiểm tra, người tham gia đứng với hai chân mở rộng tự nhiên, đặt ngón chân sát mép vạch giới hạn Khi bật nhảy và tiếp đất, hai chân thực hiện đồng thời Bài kiểm tra này được thực hiện trong hai lần nhảy.
Thành tích được tính bằng khoảng cách từ vạch xuất phát đến vệt cuối cùng của gót chân, và kết quả cao nhất sẽ được ghi nhận Đơn vị đo lường sử dụng là centimet.
- Test 3: Chạy 30m xuất phát cao (giây)
+ Sân bãi, dụng cụ đo: Sân bãi kiểm tra là đường chạy trên sân điền kinh của nhà trường Dụng cụ đo: Đồng hồ bấm giây
Để tiến hành kiểm tra, mỗi lần sẽ có 02 học sinh tham gia Người được kiểm tra sẽ thực hiện tư thế xuất phát cao và bắt đầu chạy khi có tín hiệu, hoàn thành cự ly đã định trong một lần thử nghiệm.
+ Cách tính thành tích: được xác định là giây và số lẻ từng 1/100giây
- Test 4: Chạy tùy sức 5 phút (m)
Sân bãi và dụng cụ đo cho đường chạy dài tối thiểu 52m và rộng ít nhất 2m, với hai đầu kẻ đường giới hạn và khoảng trống ít nhất 1m ở ngoài hai đầu để quay vòng Vật chuẩn được đặt ở giữa hai đầu đường chạy để hỗ trợ việc quay vòng Trên đoạn 50m, đánh dấu từng đoạn 5m để xác định quãng đường lẻ (±5m) sau khi kết thúc thời gian chạy Thiết bị đo cần thiết bao gồm đồng hồ bấm giây.