1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐỀ TÀI: ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH GVHD : TS. DIỆP GIA LUẬT

68 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Điều Tiết Và Giám Sát Hệ Thống Tài Chính
Người hướng dẫn TS. Diệp Gia Luật
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế TPHCM
Chuyên ngành Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ
Thể loại đề tài
Năm xuất bản 2013
Thành phố TPHCM
Định dạng
Số trang 68
Dung lượng 755 KB

Cấu trúc

  • 1.1. Khái niệm, phân loại (5)
  • 1.2. Chức năng của thị trường tài chính (7)
  • 2.1. Định nghĩa (8)
  • 2.2. Nguyên nhân thất bại thị trường tài chính (8)
  • 2.3. Những bất ổn trong hoạt động của thị trường tài chính (9)
  • 2.4. Vai trò của chính phủ (13)
  • 3.1. Đối với thị trường tiền tệ (14)
  • 3.2. Đối với thị trường vốn (18)
  • 4. Liên hệ Việt Nam (22)
    • 4.1. Tình hình giám sát điều tiết hệ thống tài chính của Việt Nam (22)
    • 4.2. Liên hệ mô hình giám sát hệ thống tài chính tại Việt Nam (25)
  • PHẦN 2:NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐIỀU TIẾT VÀ QUY ĐỊNH KHU VỰC TÀI CHÍNH (30)
    • 1.1. Thách thức của điều tiết khu vực tài chính (30)
    • 1.2. Các khó khăn gặp phải khi điều tiết và giám sát tài chính (30)
    • 2. Các hạn chế của điều tiết và quy định khu vực tài chính (31)
      • 2.1. Quy định tài chính và các hạn chế (31)
      • 2.2. Mạng lưới đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia (31)
      • 2.3. Hạn chế giữ tài sản (31)
      • 2.4. Các yêu cầu về vốn (32)
      • 2.5. Sửa sai kịp thời (32)
      • 2.6. Thanh tra tài chính : cấp phép và kiểm tra (33)
      • 2.7. Đánh giá quản lý rủi ro (33)
      • 2.8. Yêu cầu công khai thông tin (34)
      • 2.9. Bảo vệ người tiêu dùng (34)
      • 2.10. Hạn chế đối với cạnh tranh (35)
      • 3.1. Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng (35)
      • 3.2. Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện tại (36)
      • 3.3. Mục tiêu của hệ thống giám sát thanh tra tài chính (38)
      • 3.4. Một số khuyến nghị cho hoạt động cho hệ thống thanh tra giám sát, tài chính Việt Nam (41)
  • PHẦN 3: CÁC MÔ HÌNH KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH (42)
    • 1. Khái niệm khủng hoảng tài chính (42)
      • 1.1. Định nghĩa (42)
      • 1.2. So sánh khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế (43)
    • 2. Các loại khủng hoảng tài chính (44)
      • 2.1. Khủng hoảng tiền tệ (44)
      • 2.2. Khủng hoảng ngân hàng (52)
      • 2.3. Khủng hoảng nợ (56)
      • 2.4. Khủng hoảng kép (57)
      • 2.5. Khủng hoảng bong bóng tài sản (59)
      • 2.6. Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và mô hình khủng hoảng thế hệ thứ tư (61)
      • 3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ đến Việt Nam (65)
      • 3.2. Các giải pháp Chính Phủ Việt Nam nên làm trong thời gian tới (66)
      • 3.3. Bài học kinh nghiệm cho VN (67)

Nội dung

Khái niệm, phân loại

Thị trường tài chính là nơi diễn ra giao dịch các giấy tờ có giá, kết nối nguồn cung vốn và hình thành giá mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác Giá cả của các loại vốn đầu tư, bao gồm lãi suất vay, cho vay và các kỳ hạn ngắn, trung và dài hạn, cũng được xác định tại đây Để tạo ra một môi trường thị trường tài chính sôi động, cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố quan trọng.

Thị trường tài chính bao gồm các nguồn cung và cầu về vốn từ nhiều chủ thể kinh tế trong xã hội, như Nhà Nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư.

Công cụ tham gia trên thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động của thị trường, bao gồm các chứng từ có giá như công trái do Nhà Nước phát hành, chứng khoán từ các doanh nghiệp, trái phiếu của các tổ chức tài chính, cùng với các hình thức kỳ phiếu và séc.

Các chủ thể tham gia vào thị trường tài chính bao gồm các pháp nhân và thể nhân đại diện cho nguồn cung và cầu về vốn nhàn rỗi Những chủ thể này chủ yếu là ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và đặc biệt là các công ty môi giới.

Dựa trên nhiều tiêu thức phân loại mà có thể nhìn thị trường tài chính theo những cấu trúc khác nhau:

Thị trường tài chính được chia thành hai loại chính dựa trên thời gian vận động của vốn: thị trường tiền tệ và thị trường vốn Thị trường tiền tệ có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm, chủ yếu thông qua tài trợ gián tiếp qua ngân hàng thương mại, với các công cụ như khoản vay và chứng khoán đáo hạn trong vòng 1 năm, thường có độ an toàn cao Ngược lại, thị trường vốn phục vụ cho các đầu tư dài hạn, cho phép các chủ thể phát hành chứng khoán để huy động vốn, với thời gian đáo hạn lớn hơn 1 năm và độ rủi ro cao hơn so với các công cụ trên thị trường tiền tệ.

Thị trường tài chính được chia thành hai loại dựa trên cách thức huy động vốn: thị trường công cụ nợ và thị trường vốn cổ phần Trên thị trường công cụ nợ, người cần vốn đóng vai trò là người đi vay, cam kết trả lãi, kỳ hạn thanh toán và hoàn trả nợ gốc khi phát hành các công cụ nợ Ngược lại, trên thị trường vốn cổ phần, doanh nghiệp kêu gọi vốn từ các nhà đầu tư, những người sẽ tham gia với tư cách đồng sở hữu, chia sẻ thu nhập và tài sản của doanh nghiệp Mỗi hình thức huy động vốn đều có những lợi thế và rủi ro riêng, vì vậy các chủ thể phát hành và nhà đầu tư cần cân nhắc để chọn loại thị trường phù hợp.

 Nếu căn cứ vào cơ cấu tổ chức, thị trường tài chính được chia thành 2 loại cơ bản: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp

Thị trường sơ cấp là nơi phát hành và bán các chứng từ có giá cho người mua đầu tiên, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các công cụ tài chính tham gia vào thị trường.

Thị trường thứ cấp là không gian giao dịch các chứng từ có giá đang lưu hành, phục vụ nhu cầu chuyển nhượng vốn đầu tư Điều này không chỉ tạo ra tính thanh khoản cho các công cụ tài chính mà còn nâng cao sức hấp dẫn của thị trường đối với nhà đầu tư.

Chức năng của thị trường tài chính

Chức năng chuyển giao vốn từ khu vực tiết kiệm sang khu vực đầu tư có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các trung gian tài chính.

Thị trường tài chính là cầu nối quan trọng giữa người tiết kiệm và người kinh doanh, giúp chuyển giao vốn từ những người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có khả năng khai thác cơ hội đầu tư hiệu quả.

Thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc tích lũy và tập trung vốn, nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất kinh doanh.

Thị trường tài chính tối ưu hóa việc sử dụng vốn cho cả nhà đầu tư và người vay Nhà cho vay kiếm lãi từ lãi suất, trong khi người vay cần tính toán hiệu quả sử dụng vốn để trả cả gốc lẫn lãi, đồng thời tạo ra thu nhập và tích lũy cho bản thân.

Thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Chính phủ thực hiện các chính sách mở cửa và cải cách kinh tế Điều này được thể hiện qua việc phát hành trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước.

Thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc sử dụng các chứng từ có giá, bao gồm việc bán cổ phiếu, trái phiếu và đổi tiền Nó cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán, giúp nhà đầu tư dễ dàng giao dịch Bên cạnh đó, thị trường tài chính cũng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá trị của doanh nghiệp, hỗ trợ quyết định đầu tư hiệu quả.

2.Thất bại của thị trường tài chính

Định nghĩa

Thất bại của thị trường là một thuật ngữ kinh tế học miêu tả tình trạng thị trường không phân bổ thật hiệu quả các nguồn lực

Thất bại thị trường tài chính xảy ra khi thị trường không thể phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, dẫn đến sự kém hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên.

Biểu hiện của thất bại thị trường tài chính là bất ổn tài chính và khủng hoảng tài chính.

Nguyên nhân thất bại thị trường tài chính

Nguyên nhân thất bại thị trường là do thông tin bất đối xứng dẫn đến lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức

Một trong những giả thiết để có một thị trường hoàn hảo là thông tin giữa các chủ thể kinh tế phải đồng đều Kinh tế học Keynes chỉ ra rằng thị trường hiếm khi hoàn hảo và sự phi đối xứng thông tin là yếu tố gây ra sự không hoàn hảo này Sự chênh lệch thông tin có thể xảy ra trước hoặc trong quá trình giao dịch, dẫn đến việc một bên có ít thông tin hơn sẽ gặp bất lợi trong lựa chọn Hậu quả của phi đối xứng thông tin có thể gây ra rủi ro đạo đức cho bên nắm giữ nhiều thông tin hơn, từ đó tạo ra các thất bại thị trường.

Theo Joseph Stiglitz, tình trạng phi đối xứng về thông tin xuất phát từ việc các chủ thể kinh tế có sự quan tâm khác nhau đến các đối tượng khác nhau, dẫn đến thông tin mà họ nắm giữ về cùng một đối tượng cũng sẽ khác nhau Thông thường, các chủ thể kinh tế hiểu rõ về bản thân mình hơn là về người khác Mức độ chênh lệch thông tin này phụ thuộc vào cấu trúc và đặc điểm của thị trường.

Lựa chọn nghịch xảy ra trước khi giao dịch, khi những người có rủi ro cao tích cực tìm kiếm khoản vay, trong khi người cho vay lo ngại về khả năng mất vốn do thiếu thông tin về người đi vay Kết quả là họ hạn chế cho vay đối với cả người vay rủi ro cao và thấp, dẫn đến sự không hiệu quả trong hoạt động của thị trường tài chính.

Rủi ro đạo đức xảy ra khi người vay có xu hướng đầu tư vào các dự án rủi ro cao, mang lại lợi ích cho họ nếu thành công, nhưng lại gây thiệt hại cho người cho vay nếu dự án thất bại Mâu thuẫn lợi ích giữa người cho vay và người vay dẫn đến việc người cho vay có thể cho vay ít hơn khả năng của họ, từ đó làm giảm hiệu quả của hoạt động cho vay và đầu tư.

Những bất ổn trong hoạt động của thị trường tài chính

2.3.1Thị trường tài chính phát triển tự do cũng đồng thời là quá trình hình thành bong bóng thị trường

Thị trường tài chính (TTTC) và thị trường hàng hóa hiện vật có những khác biệt cơ bản, đặc biệt là về sự biến động giá cả và thời gian đầu tư Trong khi giá cả trên thị trường hàng hóa hiện vật thường ổn định và cần thời gian dài để ra quyết định đầu tư, giá cả chứng khoán (CK) trên TTTC có thể vượt xa giá trị thực Điều này chủ yếu phụ thuộc vào niềm tin của nhà đầu tư vào khả năng sinh lợi của thị trường Các nhà đầu tư tham gia TTCK thường chia sẻ khát khao làm giàu nhanh chóng với ít nỗ lực, và chính niềm tin cùng khát vọng lợi nhuận cao đã giúp họ vượt qua nỗi sợ hãi rủi ro, mạnh dạn tiến sâu vào thị trường.

Thị trường tài chính cần có các nhà đầu tư để phát triển và thúc đẩy luân chuyển vốn hiệu quả trong nền kinh tế Tuy nhiên, hiệu quả của thị trường tài chính chỉ đạt được khi kiểm soát được các yếu tố cấu thành Khi thị trường thu hút những nhà đầu tư "ngây thơ" chỉ biết kiếm lời, tính hiệu quả dần biến mất do quyết định mua bán bị chi phối bởi tâm lý bầy đàn Các nhà đầu tư thường hành động dựa trên thông tin không đầy đủ, dẫn đến giá cả thị trường phản ánh xu hướng hơn là giá trị thực Điều này làm cho giá cả không còn là chỉ số chính xác để phân bổ nguồn lực, và có thể dẫn đến hiện tượng bong bóng thị trường Bong bóng hình thành khi giá hàng hóa vượt xa giá trị thực, gây ra sự bất ổn cho thị trường Khi bong bóng nổ, nó gây tổn hại cho cả thị trường và nền kinh tế, như đã xảy ra trong giai đoạn phát triển nóng của thị trường chứng khoán Việt Nam khi VN-INDEX vượt 1000 điểm.

Sự xuất hiện ngày càng đa dạng của các hàng hóa mới trên thị trường tài chính đã góp phần tạo ra bong bóng giá tài sản Sự phát triển của thị trường chứng khoán thúc đẩy việc hình thành các công cụ tài chính mới, thường là kết quả của quá trình chứng khoán hóa và ứng dụng công nghệ thông tin Những công cụ này giúp nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro để đạt được lợi nhuận bền vững hơn, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn những rủi ro nguy hiểm hơn.

Cơ chế tạo rủi ro trong thị trường chứng khoán khiến lợi nhuận từ thị trường ổn định thuộc về một cá nhân, trong khi tổn thất lại được chia sẻ cho nhiều người khác, dẫn đến việc các nhà đầu tư phải liên tục mua bán và đẩy giá lên cao để tối đa hóa lợi nhuận Điều này được gọi là rủi ro đạo đức, và đã tạo ra bong bóng chứng khoán trên thị trường tài chính Mỹ Quá trình hình thành bong bóng thường liên quan đến động cơ kiếm lời và những kỳ vọng thái quá từ nhà đầu tư Khi bong bóng nổ, nó gây ra tổn hại nghiêm trọng cho thị trường và nền kinh tế Trong lĩnh vực tài chính, bong bóng không chỉ xảy ra thường xuyên mà còn có sức lây lan và mức độ tàn phá lớn, được ví như vũ khí hủy diệt hàng loạt tài chính mà Warren Buffett đã nhắc đến.

Bóng càng căng, sức công phá càng lớn và hệ lụy càng rộng Việc tìm kiếm kẻ thổi bong bóng là điều không tưởng, vì tất cả các lực lượng trên thị trường đều đồng lòng làm căng quả bóng Đây là thất bại của thị trường tài chính, vốn được hình thành để phân bổ nguồn lực vốn hợp lý, nhưng chính các bộ phận cấu thành đã đẩy thị trường xa rời chức năng của mình Những gì thị trường có được không phản ánh sự thật, dẫn đến phồn vinh giả tạo; sự phát triển kinh tế không cho phép mức thu nhập cao như vậy, sản xuất không hỗ trợ mức tiêu dùng quá mức, và lợi nhuận của công ty chứng khoán không đủ để các nhà đầu tư trả giá cao Cuối cùng, thị trường phải trở về đúng vị trí của mình, để mọi thứ đổ vỡ Thị trường không có khả năng tự trở về trạng thái cân bằng như thuyết thị trường hữu hiệu, mà ngược lại, trong quá trình vận hành, thị trường có xu hướng tạo ra bong bóng Thị trường tài chính không phải luôn là con đường hiệu quả để cung cấp nguồn vốn khan hiếm cho những nơi sử dụng chúng hiệu quả nhất.

2.3.2.Tự do hóa thị trường tài chính ảnh hưởng thế nào đến các ngân hàng thương mại?

Hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) khác biệt rõ rệt so với đầu tư trên thị trường chứng khoán, khi NHTM phải luôn sẵn sàng hoàn trả tiền gửi của khách hàng và đảm bảo tính thanh khoản trong khi vẫn tăng trưởng lợi nhuận NHTM đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, và sự an toàn của các ngân hàng là yếu tố then chốt cho sự phát triển ổn định của thị trường tài chính Để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, không chỉ phụ thuộc vào quản trị rủi ro của từng ngân hàng mà còn cần có quy định chặt chẽ từ ngân hàng trung ương và các quy định toàn cầu Các quy định như tỉ lệ dự trữ bắt buộc và yêu cầu của Basel I, cùng với chức năng người cứu cánh cuối cùng của ngân hàng trung ương, đều nhấn mạnh tầm quan trọng này Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hóa thị trường tài chính, hoạt động của NHTM lại được nới lỏng, dẫn đến sự thiếu kiểm soát Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã chỉ ra rằng việc đề cao khả năng tự điều chỉnh của thị trường tài chính gắn liền với năng lực tự điều chỉnh của mỗi ngân hàng Sau khủng hoảng 1929-1933, đáng lẽ các quy định nghiêm ngặt phải được củng cố, nhưng dưới thời Tổng thống Ronald Reagan, nhiều hạn chế đã bị gỡ bỏ, đặc biệt là Đạo luật Gramm-Leach-Bliley (1999) đã xóa nhòa ranh giới giữa ngân hàng đầu tư và NHTM, cho phép ngân hàng Mỹ tự do đầu tư chứng khoán với nhiều rủi ro hơn.

Ngân hàng (NH) chuyển hóa các chứng khoán bán mua dễ dàng cho nhà đầu tư phố Wall, giúp giảm rủi ro cho NH và tạo cơ hội thu lợi nhuận hấp dẫn, nhanh chóng Sự nới lỏng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng đã góp phần vào việc hình thành bong bóng tài sản ngày càng lớn.

Sức hút của thị trường chứng khoán đã khiến các ngân hàng thương mại rơi vào tình thế vi phạm các nguyên tắc quản trị cơ bản Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn tại Mỹ là hệ quả của việc nới lỏng tiêu chuẩn cho vay một cách mạo hiểm, cho phép vay nhà mà không cần tiền đặt cọc Trong cuộc đua tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng và định chế tài chính đã mắc bẫy đòn bẩy tài chính cao, thể hiện qua tỷ lệ tài sản trên vốn, phản ánh việc sử dụng vốn vay để tăng trưởng tài sản Điều này làm gia tăng rủi ro trước sự giảm giá tài sản và nợ, dẫn đến tín dụng tăng trưởng nóng, tương tự như việc tăng cung tiền Hệ quả là sự sụp đổ của hệ thống tài chính và nguy cơ lạm phát khó tránh khỏi.

Vai trò của chính phủ

Khi thảo luận về vai trò của chính phủ trong hoạt động của thị trường tài chính, nhiều nhà kinh tế thường nhắc đến hình ảnh của Keynes, cho rằng kinh tế cần cả thị trường lẫn chính phủ, giống như việc vỗ tay cần phải có hai tay Thông thường, chính phủ chỉ can thiệp khi thị trường không hoạt động hiệu quả, nhằm khắc phục những khuyết tật của nó Tuy nhiên, những bất ổn trong quá trình phát triển của thị trường tài chính đã chỉ ra rằng cách hiểu này có phần không hợp lý Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ đã làm nổi bật sự cần thiết phải xem xét lại vai trò của chính phủ Dưới thời Tổng thống Ronald Reagan, thị trường tài chính được gọi là tự do hóa và toàn cầu hóa, nhưng việc thừa nhận tự do hóa tài chính chỉ có ý nghĩa khi thị trường phát triển và kinh tế tăng trưởng.

Thị trường tài chính (TTTC) cần sự can thiệp của chính phủ để duy trì sự ổn định và phát triển bền vững, vì tự nó không thể tự tạo ra sự cân bằng Trong giai đoạn đầu phát triển, TTTC thường hoạt động hiệu quả hơn với ít sự can thiệp, khi mà biến động giá cả còn trong tầm kiểm soát Tuy nhiên, khi quy mô thị trường lớn hơn và trở nên phức tạp, chính phủ cần có vai trò điều tiết mạnh mẽ hơn để kiểm soát sự phát triển, tránh tình trạng bong bóng tài chính Chính phủ không chỉ cần tạo điều kiện thuận lợi mà còn phải kìm hãm sự "nóng" của thị trường, giúp nhà đầu tư tiết chế lòng tham để đảm bảo sự phát triển ổn định của TTTC.

Để điều tiết khu vực tài chính, nhà nước sử dụng các công cụ đặc thù cho từng thị trường nhằm giảm thiểu bất đối xứng thông tin và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính.

Đối với thị trường tiền tệ

Nghiệp vụ thị trường mở

Ngân hàng trung ương thực hiện các hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở để điều tiết lượng tiền cung ứng Những hoạt động này có tác động trực tiếp đến cơ số tiền tệ, giúp quản lý và ổn định nền kinh tế.

Khi Ngân hàng trung ương thực hiện mua hoặc bán chứng khoán, cơ sở tiền tệ sẽ tăng hoặc giảm, từ đó ảnh hưởng đến mức cung tiền trong nền kinh tế.

Thị trường mở, khi chỉ bao gồm Ngân hàng trung ương và Ngân hàng thương mại, sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ (R) của các ngân hàng Nếu có sự tham gia của công chúng, nó sẽ tác động ngay đến lượng tiền mặt lưu thông (C) Công cụ này được coi là năng động và hiệu quả trong chính sách tiền tệ (CSTT) nhờ vào tính linh hoạt của thị trường, với khối lượng chứng khoán mua bán tỷ lệ thuận với quy mô tiền cung ứng cần điều chỉnh, đồng thời ít tốn kém và dễ đảo ngược Tuy nhiên, hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào các chủ thể tham gia trên thị trường và yêu cầu sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ và thị trường vốn.

Số tiền dự trữ bắt buộc là khoản tiền mà các ngân hàng phải giữ lại theo quy định của Ngân hàng trung ương, gửi tại ngân hàng này mà không được hưởng lãi Khoản tiền này không được sử dụng cho đầu tư hay cho vay và thường được tính dựa trên một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng Mục đích của việc giữ số tiền này là để đảm bảo khả năng thanh toán và duy trì sự ổn định cho hệ thống ngân hàng.

Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ, từ đó tác động đến khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, khả năng cho vay giảm, dẫn đến lãi suất cho vay tăng và lượng cung ứng tiền giảm, và ngược lại Đây là công cụ quản lý Nhà nước giúp Ngân hàng trung ương điều chỉnh lượng tiền cung ứng một cách mạnh mẽ, chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là có thể ảnh hưởng lớn đến mức cung tiền Tuy nhiên, tính linh hoạt của công cụ này không cao do quy trình thực hiện chậm, phức tạp và tốn kém, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.

Chính sách tái chiết khấu

Ngân hàng trung ương thực hiện hoạt động cho vay ngắn hạn cho các Ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu Hoạt động này được điều chỉnh bằng cách thay đổi lãi suất tái chiết khấu đối với thương phiếu và quy định hạn mức cho vay tái chiết khấu tại cửa sổ chiết khấu.

Khi Ngân hàng trung ương điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu, nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vay mượn của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến cung tiền trong nền kinh tế Việc tăng lãi suất sẽ hạn chế các ngân hàng vay mượn, dẫn đến giảm cung tiền, trong khi giảm lãi suất sẽ khuyến khích vay mượn và tăng cung tiền Đối với các quốc gia có thị trường chưa phát triển, Ngân hàng trung ương có thể thực hiện cho vay tái cấp vốn ngắn hạn để hỗ trợ các ngân hàng thương mại Chính sách tái chiết khấu không chỉ giúp Ngân hàng trung ương giữ vai trò là người cho vay cuối cùng trong trường hợp khủng hoảng thanh toán, mà còn kiểm soát hoạt động tín dụng và điều chỉnh cơ cấu đầu tư vào các lĩnh vực cụ thể Tuy nhiên, hiệu quả của chính sách này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại và lãi suất tái chiết khấu có thể gây ra sự méo mó thông tin về cung cầu vốn trên thị trường.

Trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương có thể sử dụng ba công cụ tác động gián tiếp để quản lý lượng tiền cung ứng một cách hiệu quả, mà không cần đến các công cụ khác Tuy nhiên, trong những điều kiện đặc thù như ở các quốc gia đang phát triển hoặc trong các giai đoạn kinh tế quá nóng, Ngân hàng trung ương có thể cần áp dụng các công cụ điều tiết trực tiếp để đạt được mục tiêu kinh tế của mình.

Quản lý hạn mức tín dụng của các ngân hàng thương mại

Khái niệm hạn mức tín dụng là quy định của Ngân hàng trung ương về tổng dư nợ của các Ngân hàng thương mại, không được vượt quá một mức nhất định trong một năm, nhằm kiểm soát cung tiền Việc xác định hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng, lạm phát và tiêu thụ Ngân hàng trung ương sẽ phân bổ hạn mức này cho các Ngân hàng thương mại, và các ngân hàng này phải tuân thủ quy định không cho vay vượt quá hạn mức đã được xác định.

Cơ chế tác động của công cụ điều chỉnh lượng tiền cung ứng là việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế, có mối quan hệ thuận chiều với mục tiêu của Ngân hàng thương mại Công cụ này giúp Ngân hàng trung ương kiểm soát lượng tiền cung ứng hiệu quả, đặc biệt trong giai đoạn phát triển quá nóng và tỷ lệ lạm phát cao Tuy nhiên, nhược điểm lớn của nó là triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nền kinh tế và có thể dẫn đến nhiều hình thức tín dụng ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng trung ương, gây cản trở khi nhu cầu tín dụng tăng lên.

Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại

Ngân hàng trung ương thiết lập khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay để hướng dẫn các Ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất trong giới hạn đó Điều này ảnh hưởng đến quy mô tín dụng trong nền kinh tế và giúp Ngân hàng trung ương quản lý mức cung tiền hiệu quả.

Việc điều chỉnh lãi suất có tác động trực tiếp đến quy mô huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại, dẫn đến sự thay đổi trong lượng tiền cung ứng Điều này cho phép ngân hàng trung ương quản lý lượng tiền theo mục tiêu của từng giai đoạn, đặc biệt ở những quốc gia chưa thể áp dụng các công cụ gián tiếp Tuy nhiên, việc này có thể làm giảm tính khách quan của lãi suất, vốn là "giá cả" của vốn và nên được hình thành từ quan hệ cung cầu trong nền kinh tế Hơn nữa, sự thay đổi trong quy định điều chỉnh lãi suất có thể khiến các ngân hàng thương mại trở nên bị động và gia tăng chi phí trong hoạt động kinh doanh.

Đối với thị trường vốn

Thị trường vốn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế các nước có nền kinh tế thị trường Với thị trường chứng khoán là trung tâm, thị trường vốn thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ doanh nghiệp, tổ chức tài chính, chính phủ và địa phương, tạo ra nguồn vốn lớn cho nền kinh tế.

Thị trường vốn hoạt động dựa vào các tín hiệu như lãi suất, hệ số tín nhiệm và độ rủi ro, đóng vai trò như một van điều tiết cho nền kinh tế Nó chuyển hướng vốn từ những nơi sử dụng không hiệu quả sang những nơi có hiệu quả hơn, đồng thời từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn Nhờ đó, thị trường vốn hỗ trợ chính phủ và các tổ chức tài chính trong việc điều tiết nền kinh tế.

Thông qua thị trường vốn, chính phủ và các địa phương có thể huy động vốn cho các dự án đầu tư hoặc ngân sách bằng cách phát hành các công cụ nợ như trái phiếu và công trái Hình thức huy động vốn này không chỉ tích cực mà còn giúp kiềm chế lạm phát, vì nó giảm thiểu việc phát hành thêm tiền vào lưu thông để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu.

Hiểu biết về thị trường chứng khoán (TTCK) và vai trò của nó trong phát triển kinh tế là rất quan trọng để tạo điều kiện cho TTCK hoạt động hiệu quả Quản lý và giám sát TTCK không chỉ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho nhà đầu tư mà còn duy trì tính hiệu quả, công bằng và minh bạch trong giao dịch Điều này giúp dung hòa lợi ích của các chủ thể tham gia, đảm bảo sự ổn định của thị trường, hạn chế gian lận gây ảnh hưởng tiêu cực và kiểm soát các rủi ro có thể dẫn đến sụp đổ hệ thống.

Quản lý thị trường chứng khoán bao gồm việc ban hành và áp dụng các văn bản pháp lý cùng quy định chung nhằm đạt được các mục tiêu của thị trường chứng khoán Hoạt động này đảm bảo tính trung thực, minh bạch, công bằng và hiệu quả trong thị trường Các cơ quan quản lý thị trường chứng khoán có trách nhiệm thực hiện những mục tiêu này thông qua các hình thức quản lý khác nhau.

H́ình thức quản lý TTCK: có thể là quản lý bằng pháp luật hoặc tự quản Quản lý TTCK có những nội dung cơ bản sau:

Quản lý phát hành là một yếu tố quan trọng cho sự hoạt động và phát triển của thị trường chứng khoán Hiện nay, hoạt động này được thực hiện theo hai chế độ: chế độ đăng ký và chế độ cấp phép Dưới chế độ này, các tổ chức phát hành chứng khoán phải tuân thủ các quy định cụ thể của cơ quan quản lý chứng khoán và phải được cấp phép bởi cơ quan có thẩm quyền.

Quản lý giao dịch trên thị trường chứng khoán (TTCK) là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan quản lý, nhằm đảm bảo nguyên tắc công khai, bình đẳng, cạnh tranh và trung thực Điều này tạo ra một môi trường hiệu quả cho hoạt động của thị trường Quản lý giao dịch bao gồm hai nội dung chính: quản lý giao dịch trên sàn giao dịch (SGD) và quản lý giao dịch trên thị trường phi tập trung.

Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) là thị trường tập trung chủ yếu cho hoạt động giao dịch chứng khoán, và việc quản lý tại đây tuân theo các quy định nghiêm ngặt Chỉ những chứng khoán đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Sở và pháp luật mới được phép giao dịch sau khi có sự phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền Mặc dù các quy định về điều kiện niêm yết chứng khoán có thể khác nhau giữa các quốc gia, nhưng thường chỉ những công ty lớn và có uy tín cao mới được phép niêm yết và giao dịch trên SGDCK.

Thị trường phi tập trung là nơi thực hiện các giao dịch chứng khoán ngoài Sở, chủ yếu bao gồm chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, công ty công nghệ cao và công ty mạo hiểm Do tính chất hoạt động phức tạp và khối lượng giao dịch lớn, mức độ rủi ro trên thị trường này cao hơn so với Sở Giao dịch Chứng khoán Quản lý thị trường phi tập trung được thực hiện theo các quy định pháp lý bắt buộc, đồng thời tạo ra một “hành lang mở” cho các hoạt động giao dịch.

Quản lý các nhà kinh doanh chứng khoán là nhiệm vụ quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của thị trường chứng khoán Các nhà kinh doanh chứng khoán, bao gồm tổ chức và cá nhân, thực hiện nhiều nghiệp vụ như môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và lưu ký chứng khoán Do đó, việc quản lý hiệu quả các nhà kinh doanh này đóng vai trò then chốt trong sự phát triển bền vững của thị trường.

Tại nhiều thị trường, các cơ quan quản lý Nhà nước yêu cầu các tổ chức kinh doanh chứng khoán phải có vốn tối thiểu, trụ sở làm việc, đội ngũ nhân viên có kiến thức và kinh nghiệm, cùng với giấy phép hành nghề Các nhà kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ quy định thị trường và chịu sự giám sát từ các tổ chức quản lý.

Quản lý chứng khoán quốc tế trở nên cần thiết trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế, khi ranh giới giữa các thị trường chứng khoán ngày càng bị xóa nhòa Việc phát hành chứng khoán ra thị trường quốc tế không chỉ giúp huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn thu hút đầu tư nước ngoài và tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán Tuy nhiên, sự toàn cầu hóa này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro hệ thống, do đó, quản lý chứng khoán quốc tế là một yêu cầu cấp bách.

Quản lý chứng khoán quốc tế gồm 4 nội dung chính sau:

Thứ nhất, quản lý việc phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành trong nước ra thị trường nước ngoài.

Thứ hai, quản lý việc phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành nước ngoài trên thị trường chứng khoán trong nước.

Thứ ba, quản lý các giao dịch chứng khoán của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trên thị trường chứng khoán trong nước và ngược lại.

Thứ tư, quản lý của tổ chức nước ngoài trên TTCK.

Mục tiêu của việc điều tiết tài chính là giảm rủi ro hệ thống thông qua một cơ cấu điều tiết thống nhất và hiệu quả Điều này đòi hỏi một hệ thống điều tiết tài chính toàn diện, không chỉ dựa vào các phương pháp đơn lẻ, mà còn phải nhận diện các xu hướng trên thị trường để xác định rủi ro Các chi phí liên quan đến điều tiết cần được đánh giá, bao gồm cả những chi phí khó xác định từ các đối tượng điều tiết và chi phí do thất bại trong điều tiết Việc xác định độ rủi ro trên thị trường là cần thiết để nâng cao vai trò của các hệ thống tài chính, nhằm ngăn chặn khủng hoảng tài chính và mang lại những lợi ích thiết thực.

“cân, đong, đo, đếm” từ đó đưa ra được quy trình dự báo tác động điều tiết hệ thống tài chính có thể được sử dụng sau đó

Một cơ cấu điều tiết thống nhất giúp niêm yết và giao dịch các tài sản phái sinh tài chính, tạo ra thanh khoản và tính minh bạch tốt hơn Việc tuân thủ báo cáo bảo mật cho các quỹ phòng hộ và các tỷ lệ chu kỳ vốn thông qua dự phòng linh hoạt là rất quan trọng Quy tắc thị trường đóng vai trò sống còn trong việc đảm bảo các ngân hàng hoạt động cẩn trọng, với thông tin khai báo tình hình ngân hàng qua kiểm tra sức khỏe tài chính và các nghiên cứu khác Điều tiết tài chính không chỉ duy trì mà còn củng cố tỷ lệ nợ đầu cơ, đánh giá vốn mạnh và trung bình, đồng thời tìm ra cơ chế mất khả năng chi trả cho toàn bộ các công ty tài chính.

Việc điều tiết khu vực tài chính của chính phủ cần diễn ra thường xuyên và kịp thời để ứng phó với biến động thị trường, nhằm đảm bảo hoạt động hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế Tại Việt Nam, chính phủ đang đối mặt với tình trạng đóng băng của thị trường bất động sản và cần giải phóng vốn để thúc đẩy phát triển Các quy định điều tiết sẽ được điều chỉnh linh hoạt tùy theo từng tình huống cụ thể, khác với sự gò bó của nền kinh tế tập trung trước đây Chẳng hạn, lãi suất trần và tỉ lệ dự trữ trên thị trường tiền tệ thường xuyên thay đổi, trong khi thị trường vàng có các quy định kinh doanh linh hoạt và có những hỗ trợ nhất định cho thị trường bất động sản.

Liên hệ Việt Nam

Tình hình giám sát điều tiết hệ thống tài chính của Việt Nam

Trong gần 20 năm qua, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, với cấu trúc hoàn chỉnh và sự mở rộng về quy mô hoạt động, thu hút nhiều đối tượng tham gia Số lượng và đa dạng các định chế tài chính ngày càng tăng, cùng với sự cải thiện về năng lực tài chính, chất lượng kinh doanh và khả năng cạnh tranh Cơ cấu tổ chức được hoàn thiện, quản trị và kinh doanh được nâng cao, thích ứng dần với môi trường mới Các quy tắc vận hành của thị trường đã được thiết lập, đáp ứng yêu cầu phát triển, trong khi cơ sở vật chất và công nghệ được hiện đại hóa Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến Việt Nam, mặc dù không mạnh mẽ như các nước khác, nhưng đã làm lộ rõ những yếu kém và thách thức mà thị trường tài chính phải đối mặt.

- Khả năng ứng phó với các cú sốc của thị trường và điều tiết nguồn vốn từ bên ngoài vào là rất hạn chế

Trong giai đoạn 2007-2008, sự gia tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư gián tiếp, đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Tuy nhiên, sự tăng trưởng quá mức của thị trường tín dụng cùng với các yếu tố tiêu cực từ thị trường tài chính quốc tế đã tạo áp lực lên lạm phát và thâm hụt thương mại, gây hoang mang cho nhà đầu tư nước ngoài và làm suy giảm thị trường chứng khoán Điều này phản ánh khả năng điều tiết nguồn vốn bên ngoài còn yếu kém, do quản trị nguồn vốn của các định chế tài chính chưa hiệu quả, tính bảo hộ của Chính phủ đối với các thành viên thị trường vẫn còn phổ biến, dẫn đến sự ỷ lại và thiếu năng động trong việc ứng phó với cú sốc Hơn nữa, hiệu quả luân chuyển vốn chưa cao, thị trường thiếu cạnh tranh lành mạnh, tính liên kết giữa các cấu thành thị trường mỏng manh và tình thanh khoản của thị trường còn bị hạn chế.

Thị trường tài chính hiện chưa có một cơ chế vận hành hiệu quả, dẫn đến việc các lực lượng thị trường không thể phát huy tác dụng tối đa.

Cấu trúc thị trường tài chính hiện tại chưa hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nơi tồn tại nhiều thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp khác nhau Mỗi thành phần này đều cần dịch vụ tài chính và nguồn vốn tương ứng với mức độ phát triển của mình Tuy nhiên, dịch vụ tài chính ngân hàng và phân bổ nguồn vốn hiện tại chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của các thành phần kinh tế, dẫn đến hạn chế khả năng vận hành hiệu quả của thị trường tài chính.

Hệ thống chính sách và cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường hiện chưa đầy đủ, dẫn đến các quy định điều tiết thị trường chưa hoàn chỉnh và đồng bộ Đồng thời, khả năng của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều tiết và can thiệp thị trường một cách chủ động, linh hoạt và kịp thời còn hạn chế.

Thị trường hiện đang thiếu một hệ thống giám sát rủi ro và cảnh báo sớm hiệu quả Điều này dẫn đến việc chưa hình thành được các chỉ tiêu chuẩn để phản ánh tình trạng thị trường cũng như định hướng kỳ vọng cho các thành viên Đặc biệt, sự thiếu hụt đường cong lãi suất chuẩn là một vấn đề cần được khắc phục để cải thiện tính minh bạch và ổn định của thị trường.

Hệ thống công nghệ thông tin và thanh toán hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bao gồm cả hệ thống báo cáo và thống kê Những bất cập này đã gây khó khăn cho ngân hàng Nhà nước trong việc điều tiết thị trường hiệu quả.

Các tổ chức tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng chủ yếu nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản Tuy nhiên, họ chưa chú trọng phát triển các nghiệp vụ đầu tư trên thị trường này, dẫn đến việc chưa kết hợp được hai mục tiêu quan trọng là đảm bảo khả năng thanh khoản và gia tăng lợi nhuận.

Thị trường liên ngân hàng hiện vẫn còn đơn điệu, chủ yếu tập trung vào các giao dịch tiền gửi và tín dụng truyền thống Các nghiệp vụ phái sinh như đầu thầu tiền gửi và giao dịch kỳ hạn vốn chưa được triển khai, điều này hạn chế sự đa dạng và phát triển của hoạt động trong lĩnh vực này.

Thị trường tài chính hiện đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, bao gồm mất cân đối kỳ hạn, khả năng kiểm soát rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường của các tổ chức tín dụng (TCTD) còn yếu Nhiều TCTD chưa đủ khả năng quản lý và kiểm soát vốn tập trung toàn hệ thống, đồng thời chưa thiết lập bộ phận kinh doanh vốn và hệ thống quản lý rủi ro độc lập, dẫn đến năng lực tài chính của họ còn nhiều hạn chế.

Những hạn chế hiện tại đã tạo ra các thách thức cho thị trường tài chính Việt Nam, đặc biệt khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Trên phương diện vĩ mô, Việt Nam đang đối mặt với sức ép tỷ giá và sự dịch chuyển dòng vốn giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ Trong khi đó, ở cấp độ vi mô, những thách thức phát sinh từ tác động của khu vực sản xuất cũng đáng lưu ý Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tạo ra nhiều khó khăn cho nền kinh tế.

Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất trong những tháng đầu năm 2009 Các doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là những doanh nghiệp xuất khẩu và có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đang gặp khó khăn trong việc duy trì và mở rộng sản xuất Nhiều doanh nghiệp buộc phải thu hẹp quy mô do khó khăn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu và hạn chế về vốn cho các dự án FDI Tình trạng khó khăn trong khu vực sản xuất sẽ dẫn đến những thách thức trực tiếp đối với khu vực tài chính.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế Việt Nam, tạo ra thách thức lớn cho thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán Suy thoái kinh tế làm gia tăng khó khăn cho doanh nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận và tâm lý nhà đầu tư Sự sụt giảm giá chứng khoán năm 2008 đã khiến nhiều nhà đầu tư rút lui, dẫn đến khó khăn cho các công ty chứng khoán và quỹ đầu tư, làm chậm dòng vốn lưu chuyển và giảm hiệu quả hoạt động trên thị trường chứng khoán.

Liên hệ mô hình giám sát hệ thống tài chính tại Việt Nam

Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây đã chỉ ra những hậu quả nghiêm trọng khi hệ thống thanh tra giám sát không hiệu quả trong việc điều tiết và phối hợp giữa các cơ quan giám sát Hệ lụy không chỉ là các gói cứu trợ tài chính mà còn là khủng hoảng lòng tin và bất ổn xã hội Mặc dù việc cải cách hệ thống thanh tra giám sát đòi hỏi nhiều nguồn lực và chi phí, nhưng chi phí này vẫn thấp hơn so với hậu quả của sự kém hiệu quả Do đó, việc nâng cấp và thay đổi hệ thống thanh tra giám sát tài chính là yêu cầu cấp bách cho các quốc gia, bao gồm cả Việt Nam.

Mô hình giám sát tài chính hiện hành của Việt Nam

Hiện nay, mô hình giám sát tài chính tại Việt Nam được xây dựng theo cơ sở thể chế phân tán, trong đó Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện thanh tra và giám sát các tổ chức tín dụng (TCTD), trong khi Bộ Tài chính chịu trách nhiệm giám sát hoạt động chứng khoán và bảo hiểm, dưới sự quản lý trực tiếp của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) và Cục Bảo hiểm.

UBCKNN, được thành lập vào ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP, là cơ quan thuộc Chính phủ có nhiệm vụ quản lý Nhà nước về chứng khoán và Thị trường chứng khoán (TTCK) Một trong những quyền hạn quan trọng của UBCKNN là thanh tra, kiểm tra và giám sát các tổ chức, cá nhân tham gia TTCK, đồng thời xử lý các vi phạm liên quan đến hoạt động chứng khoán theo quy định pháp luật Để nâng cao hiệu quả quản lý, Ủy ban này đã được chuyển giao về Bộ Tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCK.

Sơ đồ: Mô hình giám sát tài chính hiện nay của Việt Nam

Sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán từ cuối năm 2006 đã vượt quá khả năng quản lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), do cơ quan này còn non trẻ và thiếu điều kiện cần thiết để giám sát hiệu quả Thêm vào đó, thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) hoạt động tự phát, không được quản lý và bảo vệ, dẫn đến thiếu minh bạch so với các trung tâm giao dịch chứng khoán chính thức.

Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính tăng cường quản lý và giám sát thị trường nhằm đảm bảo phát triển đúng định hướng, khai thác các mặt tích cực và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực, ngăn chặn các biến động lớn ngoài tầm kiểm soát.

Thành lập vào tháng 3 năm 2003, cơ quan này thuộc Bộ Tài chính và có nhiệm vụ quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên toàn quốc, bao gồm kiểm tra và giám sát doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cũng như văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBGSTCQG), được thành lập theo quyết định số 34/2008/QD – TTg, có chức năng tư vấn cho Thủ tướng trong việc điều phối giám sát thị trường tài chính quốc gia, bao gồm ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán Cơ quan này cũng chịu trách nhiệm phân tích, dự báo và cảnh báo về mức độ an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng, đồng thời cung cấp thông tin tổng hợp về thị trường tài chính cho Chính phủ.

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTG VN) được thành lập theo quyết định số 218/1999/QD – TTg, ngày 9 tháng 1 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ Nhiệm vụ chính của BHTG VN là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, đồng thời góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và thúc đẩy sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.

Kể từ khi thành lập, BHTG Việt Nam đã đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và nâng cao niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng, với mức tăng trưởng huy động vốn bình quân hàng năm đạt 30%, cùng với sự gia tăng số lượng tổ chức tham gia BHTG, đã khẳng định niềm tin vững chắc của người dân vào hệ thống tài chính.

Mặc dù Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần khắc phục Chức năng và nhiệm vụ của BHTG chưa được quy định rõ ràng theo tiêu chuẩn quốc tế, trong khi năng lực tài chính của cán bộ còn hạn chế Hơn nữa, việc thiếu sự phối hợp với các cơ quan trong mạng lưới an toàn quốc gia cũng ảnh hưởng đến khả năng thực hiện chức năng và nhiệm vụ của BHTG.

Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng

Vào ngày 30 tháng 7 năm 2009, Ngân Hàng Nhà nước đã chính thức thành lập Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, dựa trên việc tổ chức lại bốn đơn vị trực thuộc, bao gồm Thanh tra, Vụ các ngân hàng, Vụ các TCTD hợp tác và trung tâm phòng chống rửa tiền Sự ra đời của cơ quan này đánh dấu một bước cải cách quan trọng nhằm nâng cao khả năng thanh tra và giám sát hệ thống các tổ chức tín dụng Theo quyết định số 83/2009/QD – TTg ngày 27 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ, Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng có nhiệm vụ thực hiện thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng, đồng thời hỗ trợ Thống đốc NHNN trong việc quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng và thực hiện phòng chống rửa tiền theo quy định pháp luật.

HẠN CHẾ CỦA ĐIỀU TIẾT VÀ QUY ĐỊNH KHU VỰC TÀI CHÍNH

CÁC MÔ HÌNH KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

Ngày đăng: 01/03/2022, 13:50

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w