1. Trang chủ
  2. » Kinh Tế - Quản Lý

Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 FTU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

36 91 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 36
Dung lượng 1,54 MB

Cấu trúc

  • 1.1 Chính sách tiền tệ phi truyền thống (3)
    • 1.1.1 Khái niệm (3)
    • 1.1.2 Điều kiện áp dụng (3)
    • 1.1.3 Các công cụ (3)
  • Chương 2: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN (5)
    • 2.1 Bối cảnh nền kinh tế Nhật Bản (5)
    • 2.2 Thực tiễn áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống tại Nhật Bản (6)
      • 2.2.1 Các chương trình nới lỏng định lượng (6)
      • 2.2.2 Định hướng mục tiêu (7)
      • 2.2.3 Lãi suất âm (9)
    • 2.3. Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ phi truyền thống với nền kinh tế Nhật Bản . 11 1. Tác động của chính sách tiền tệ phi truyền thống đối với Nhật Bản (11)
  • CHƯƠNG 3: BÀI HỌC VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG VỚI VIỆT (18)
    • 3.1 Thực tiễn áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống tại Việt Nam (18)
      • 3.1.1 Các công cụ được áp dụng tại Việt Nam (19)
      • 3.1.2 Đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách tiền tệ phi truyền thống ở Việt Nam (30)
    • 3.2. Đề xuất giải pháp nâng cao tính hiệu quả sử dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống tại Việt Nam (31)
      • 3.2.1 Triển khai kịp thời và đồng bộ các chủ trương, chính sách đã được ban hành (31)
      • 3.2.2. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành (32)
      • 3.2.3. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hiệu quả và có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp 33 3.2.4. Kết hợp với một số biện pháp hỗ trợ khác (33)

Nội dung

Chương 1: Cơ sởlý thuyết1.1 Chính sách tiền tệ phi truyền thống1.1.1 Khái niệmChính sách tiền tệ phi truyền thống (Nonstandard Monetary Policy) là biện pháp được sử dụng bởi một ngân hàng trung ương hoặc cơ quan chức trách khác nằm ngoài các biện pháptruyền thống trong thời kỳ kinh tế gặp khó khăn. Trong thời gian này, hầu hết các phương pháp truyền thống như thay đổi lãi suất chiết khấu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tiến hành các nghiệp vụ thị trường mở trở nên vô hiệu.1.1.2Điều kiện áp dụngTrongmột số thời điểm, CSTT truyền thống không thực sự có hiệu quả mặc dù NHTW vẫn nỗ lực nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Như vậy, chínhsách tiền tệ phi truyền thống sẽ được sử dụng trong các điều kiện sau:Thứ nhất, khi những cú sốc kinh tế quá mạnh làm LS danh nghĩa cần được đưa về mức 0%. Ở mức này, việc cắt giảm thêm LS là điều không thể. Vì vậy, CSTT mở rộng chỉ có thể được thực hiệnbằng cách sử dụng các công cụ CSTT phi truyền thống.Thứ hai, khi LS vẫn ở trên mức 0% nhưng các kênh truyền dẫn CSTT truyền thống bị suy yếu. Trong tình huống này, NHTW có thể tiếp tục giảm LS mục tiêu (tiếp tục sử dụng CSTT truyền thống) hoặc chuyển sang sử dụng các công cụ phi truyền thống.

Chính sách tiền tệ phi truyền thống

Khái niệm

Chính sách tiền tệ phi truyền thống là biện pháp mà ngân hàng trung ương áp dụng trong thời kỳ kinh tế khó khăn, khi các phương pháp truyền thống như điều chỉnh lãi suất, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và thực hiện nghiệp vụ thị trường mở không còn hiệu quả.

Điều kiện áp dụng

Trong một số thời điểm, chính sách tiền tệ truyền thống không mang lại hiệu quả như mong đợi, mặc dù Ngân hàng Trung ương vẫn nỗ lực để đạt được các mục tiêu đề ra Do đó, chính sách tiền tệ phi truyền thống sẽ được áp dụng trong những điều kiện nhất định.

Khi nền kinh tế trải qua cú sốc mạnh, lãi suất danh nghĩa cần được giảm về mức 0% Tại mức này, việc hạ thấp lãi suất thêm nữa là không khả thi Do đó, chính sách tiền tệ mở rộng chỉ có thể được thực hiện thông qua các công cụ phi truyền thống.

Khi lãi suất (LS) vẫn duy trì trên mức 0% nhưng các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ (CSTT) truyền thống trở nên kém hiệu quả, Ngân hàng Trung ương (NHTW) có thể lựa chọn tiếp tục giảm lãi suất mục tiêu để duy trì việc sử dụng CSTT truyền thống hoặc chuyển sang áp dụng các công cụ phi truyền thống.

Các công cụ

1.1.3.1 Nới lỏng định lượng/ tín dụng

Chính sách nới lỏng định lượng (QE) là một biện pháp tiền tệ đặc biệt, trong đó ngân hàng trung ương mua trái phiếu chính phủ và các chứng khoán khác để tăng cung tiền, khuyến khích cho vay và đầu tư Mục tiêu của QE là ngăn chặn lạm phát giảm xuống dưới mức mục tiêu Tuy nhiên, chính sách này cũng tiềm ẩn rủi ro, có thể dẫn đến lạm phát cao hơn trong dài hạn nếu hiệu quả điều chỉnh giảm phát vượt quá mong đợi, hoặc không đạt hiệu quả nếu các ngân hàng không sử dụng dự trữ bổ sung để cho vay.

Chính sách nới lỏng tín dụng (Credit Easing - CE) được thực hiện thông qua việc cho vay lãi suất thấp hoặc cho vay dưới chuẩn, giúp giảm chi phí vay mượn cho doanh nghiệp Điều này khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn, từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư và phát triển kinh tế.

Các hình thức nới lỏng định lượng/ tín dụng như sau:

Nới lỏng định lượng trực tiếp là biện pháp mà Ngân hàng Trung ương (NHTW) áp dụng nhằm kích thích nền kinh tế Qua việc mua một khối lượng tài sản tài chính phi rủi ro từ các Ngân hàng Thương mại (NHTM) và tổ chức tư nhân, NHTW góp phần nâng cao giá trị của các tài sản này Hành động này không chỉ làm giảm lãi suất mà còn thúc đẩy tăng trưởng lượng tiền cơ sở trong nền kinh tế.

Nới lỏng tín dụng trực tiếp là hành động của Ngân hàng Trung ương (NHTW) mua tài sản từ khu vực tư nhân nhằm tăng cường thanh khoản cho thị trường gặp khó khăn Hành động này giúp khơi thông nguồn vốn tín dụng và thúc đẩy hoạt động cho vay trong nền kinh tế.

• Nới lỏng định lượng/ TD gián tiếp: là nới lỏng điều kiện tài chính hoặc cho các

NHTM vay với thời gian đáo hạn lâu hơn, với tài sản thế chấp là các tài sản mà thị trường của chúng đang tạm thời bị suy giảm

1.1.3.2 Định hướng mục tiêu Đây là một trong những công cụ của NHTW nhằm truyền tải đến công chúng những thông điệp về CSTT trong tương lai của mình, trên cơ sở đó, tác động đến các quyết định tài chính của hộ gia đình, doanh nghiệp và các nhà đầu tư

Có 2 loại định hướng mục tiêu:

Định hướng mục tiêu kiểu Delphic của Ngân hàng Trung ương (NHTW) thể hiện sự khẳng định về triển vọng kinh tế mà không có cam kết cụ thể nào Loại định hướng này thường có tác động đến lãi suất ngắn hạn, ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư và người tiêu dùng trong nền kinh tế.

Khi lãi suất ngắn hạn đã chạm mức 0%, Ngân hàng Trung ương (NHTW) cần có những tín hiệu mạnh mẽ để kích thích nền kinh tế Định hướng mục tiêu kiểu Odyssian sẽ được áp dụng, trong đó NHTW thuyết phục thị trường rằng nền kinh tế sẽ dần phục hồi theo thời gian.

Chính sách lãi suất âm (NIRP) là một công cụ tiền tệ độc đáo của các ngân hàng trung ương, trong đó lãi suất mục tiêu được đặt ở mức âm, dưới 0% Đây là một biện pháp tương đối mới, xuất hiện từ những năm 1990, nhằm giảm thiểu tác động của khủng hoảng tài chính.

Chính sách lãi suất âm được áp dụng bởi ngân hàng trung ương và các ngân hàng tư nhân nhằm khuyến khích cho vay rộng rãi hơn, thúc đẩy doanh nghiệp và cá nhân đầu tư, tiêu dùng thay vì giữ tiền trong ngân hàng với chi phí Đây được coi là biện pháp cuối cùng để kích thích tăng trưởng kinh tế, thường được triển khai khi các chính sách truyền thống khác đã không đạt hiệu quả.

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN

Bối cảnh nền kinh tế Nhật Bản

Nền kinh tế Nhật Bản đã trải qua sự trì trệ kéo dài từ sau khi bong bóng tài sản sụp đổ vào năm 1990, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình chỉ đạt 0,5% trong suốt thập niên 1990, thấp hơn so với nhiều nước công nghiệp phát triển khác Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và chỉ số giá tiêu dùng CPI trung bình giai đoạn 1998 - 2005 giảm 0,3% Để cải thiện tình hình, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã thực hiện chính sách lãi suất 0% vào năm 1999, nhằm khuyến khích đầu tư và chi tiêu Kết quả là nền kinh tế có dấu hiệu khởi sắc nhẹ, với lãi suất giảm từ hơn 6% vào năm 1992 xuống còn 2,2% vào năm sau đó.

Sau sự sụp đổ của "bong bóng dot-com" vào năm 2000-2001, nền kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái mới với nhiều doanh nghiệp công nghệ phá sản, thị trường chứng khoán chìm trong sắc đỏ và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng Khi đó, Chính phủ không thể giảm lãi suất nữa do mức lãi suất đã ở ngưỡng thấp nhất, buộc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) phải áp dụng các chính sách phi truyền thống để đối phó với tình hình kinh tế khó khăn.

Thực tiễn áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống tại Nhật Bản

2.2.1 Các chương trình nới lỏng định lượng

❖ Đợt 1 (3/2001 - 3/2006): QEP (Quantitative Easing Policy)

Mục tiêu: CPI ổn định ở mức 0% hoặc tăng dương; hạ lãi suất

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đang mua vào các trái phiếu chính phủ dài hạn (JGBs) với khối lượng khoảng 30 - 35 nghìn Yên Mục tiêu của hành động này là tăng cung tiền, hạ lãi suất dài hạn, và cải thiện thanh khoản cho thị trường, từ đó khuyến khích đầu tư và tiêu dùng BOJ cũng hướng đến việc duy trì chỉ số CPI hàng năm ổn định ở mức 0% hoặc đạt tăng trưởng dương.

+ 12/2008 - 12/2009: Chương trình mua lại JGBs/CFI toàn diện

• Bối cảnh: khủng khoảng tài chính thế giới 2008 ảnh hưởng đến kinh tế Nhật Bản

• Diễn biến: tăng thanh khoản; hạ lãi suất dài hạn, hỗ trợ thị trường tài chính

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã quyết định dành hơn 20,4 nghìn tỷ Yên để mua các trái phiếu chính phủ dài hạn, đồng thời mở rộng chương trình mua các công cụ nợ hỗ trợ doanh nghiệp, bao gồm hơn 3 nghìn tỷ Yên cho thương phiếu và hơn 1 nghìn tỷ Yên cho trái phiếu doanh nghiệp.

+ 10/2010 - 4/2013: CME (Nới lỏng tiền tệ toàn diện)

• Diễn biến: CPI hàng năm tăng 1% kể từ 2012 và ổn định 2% trong dài hạn

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã đặt mục tiêu tăng cường mua sắm trái phiếu chính phủ và trái phiếu tái chiết khấu kho bạc với tổng giá trị 68,5 nghìn tỷ Yên, cùng với 4,5 nghìn tỷ Yên cho thương phiếu và trái phiếu doanh nghiệp Ngoài ra, BOJ cũng sẽ đầu tư 1,72 nghìn tỷ Yên vào trái phiếu của các quỹ tín thác bất động sản và quỹ hoán đổi danh mục Đồng thời, BOJ triển khai các chính sách hỗ trợ thị trường vốn vay nhằm khôi phục sự sôi động của thị trường tín dụng.

Tổ chức Đối tượng hưởng lợi Nội dung

Quỹ hỗ trợ tăng trưởng

(GSFF) Định chế tư nhân Tài trợ các khoản vay kì hạn 1 năm Quỹ kích thích ngân hàng cho vay (SBLF)

Khu vực thể chế phi tài chính, Ngân hàng

Hỗ trợ lên đến 100% khoản tăng ròng của tiền đặt cọc khi ngân hàng cho khu vực thể chế phi tài chính vay

Đợt 3 của chương trình nới lỏng định tính và định lượng (QQE) bắt đầu từ tháng 4 năm 2013, với mục tiêu chính là tăng cường cho vay và thúc đẩy tổng cầu thông qua việc khuyến khích chi tiêu, đầu tư và xuất khẩu Đồng thời, chương trình cũng đặt ra mục tiêu kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hàng năm ở mức tăng 2%.

Từ tháng 4 năm 2013 đến tháng 10 năm 2014, chính phủ đã tiếp tục đầu tư vào các tài sản như trái phiếu chính phủ có thời hạn trên 3 năm với tổng giá trị 50 nghìn tỷ Yên, cùng với công cụ nợ tài trợ cho doanh nghiệp với 1 nghìn tỷ Yên Đồng thời, các chính sách SBLF và GSFF đã được tăng cường nhằm khuyến khích ngân hàng cho vay và thúc đẩy người dân tích cực vay mượn.

Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang phục hồi, việc triển khai chính sách nới lỏng định lượng (QQE 1) đã tạo ra những tín hiệu tích cực cho nền kinh tế Nhật Bản.

Từ tháng 10 năm 2014 đến nay, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã nâng mức tài sản mua vào trái phiếu chính phủ lên 70 nghìn Yên mỗi năm và kéo dài thời gian đáo hạn lên 7-10 năm, đồng thời tăng gấp đôi giá trị của hai chính sách SBLF và GSFF BOJ cũng dành 1 nghìn tỷ Yên cho các chứng chỉ quỹ ETF và 30 nghìn tỷ Yên cho J-REIT Sau đại dịch COVID-19, tốc độ mua vào các loại tài sản này đã tăng đáng kể, với số liệu cho thấy mức mua vào không giới hạn, 12 nghìn tỷ Yên và 180 nghìn tỷ Yên mỗi năm cho các loại tài sản tương ứng.

Vào tháng 3/2001, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) công bố chương trình nới lỏng định lượng (QEP) nhằm tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lên 0% và duy trì mức tăng trong những năm tiếp theo Đến tháng 10/2003, BOJ cho biết sẽ dựa vào xu hướng CPI trong tương lai để quyết định dừng chính sách, không chỉ xem xét CPI hiện tại Cuối năm 2005 và đầu năm 2006, CPI bắt đầu tăng trưởng dương, khiến BOJ lạc quan và quyết định dừng chính sách nới lỏng ngay lập tức Tuy nhiên, vào tháng 10/2010, BOJ thông báo về chương trình CME với nhiều khía cạnh mơ hồ như thời gian thực hiện, khối lượng tài sản mua vào và mức lạm phát, dẫn đến việc không đạt được mục tiêu ban đầu.

Vào tháng 4 năm 2013, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã công bố chương trình nới lỏng định tính và định lượng (QQE), đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc định hướng thị trường Các tiêu chí của chương trình này được thể hiện một cách rõ ràng và cụ thể, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

(1) mục tiêu lạm phát 2% nhanh nhất có thể

Ngân hàng trung ương cam kết duy trì lãi suất trong khoảng 0-0.1%, đồng thời dự kiến chi tiêu 50 nghìn tỷ Yên cho trái phiếu chính phủ Nhật Bản (JGBs), 1 nghìn tỷ Yên cho quỹ giao dịch trao đổi (ETF) và 30 tỷ Yên cho ETF hàng năm.

Thời gian kì vọng của lạm phát là 2 năm, với định hướng thị trường của BOJ rõ ràng và cụ thể hơn Điều này đã tạo ra tác động tích cực đối với lạm phát kỳ vọng Cụ thể, chỉ số lạm phát đang dần tiệm cận lạm phát lõi thực tế khi chính sách QQE được thực hiện.

Biểu đồ: Lạm phát kì vọng của Nhật Bản Ghi chú:

✓ Lạm phát kỳ vọng được tính theo dự đoán về lạm phát 6-10 năm

✓ Chỉ số lạm phát lõi đã trừ đi yếu tố giá về thực phẩm, năng lượng và tăng thuế

✓ Đường dọc là mốc từ 4/2013 (QQE 1 bắt đầu)

Vào tháng 1 năm 2016, dự trữ của hệ thống ngân hàng Nhật Bản đạt 259.3 nghìn tỷ Yên, gấp hơn 28 lần mức dự trữ bắt buộc 9 tỷ Yên Để khuyến khích các ngân hàng thương mại tích cực cho vay, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã áp dụng chính sách lãi suất âm (-0.1%) đối với một phần tiền gửi tại ngân hàng trung ương Điều này có nghĩa là các ngân hàng sẽ phải trả lãi cho số tiền dư thừa gửi tại BOJ thay vì nhận lãi BOJ kỳ vọng rằng việc giảm lãi suất tiền gửi sẽ thúc đẩy các ngân hàng cho vay nhiều hơn, từ đó kích thích hoạt động kinh tế và khuyến khích doanh nghiệp gia tăng chi tiêu hoặc tái đầu tư.

Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) đang áp dụng lãi suất đối với 10.000 tỷ Yên (tương đương 88 tỷ USD), chiếm khoảng 4% tổng số tiền trong các tài khoản ngân hàng BOJ có kế hoạch duy trì số tiền này trong khoảng từ 10.000 đến 30.000 tỷ Yên.

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) sẽ duy trì lãi suất 0,1% đối với 210.000 tỷ Yên tiền gửi trong năm 2015 thông qua việc mua trái phiếu chính phủ theo chính sách nới lỏng tiền tệ Đồng thời, lãi suất 0% cũng được áp dụng cho 40.000 tỷ Yên tiền dự trữ bắt buộc và các khoản tiền hỗ trợ cho các tổ chức tài chính nhằm thúc đẩy đầu tư vào các lĩnh vực tăng trưởng và dự án phục hồi sau thiên tai BOJ sẽ hàng tháng tăng lượng tiền được hưởng lãi suất 0% để giảm thiểu tác động tiêu cực lên các ngân hàng khi thực hiện chính sách lãi suất âm quy mô lớn.

Chính sách lãi suất âm buộc người dân phải trả lãi khi gửi tiền tại ngân hàng, dẫn đến nhiều tác động tiêu cực cho nền kinh tế Thứ nhất, trong bối cảnh lãi suất âm, người tiêu dùng có xu hướng rút tiền và giữ lại ở nhà, điều này làm giảm khả năng kích cầu cho nền kinh tế Thứ hai, khi tiền được cất giữ tại nhà, ngân hàng sẽ thiếu hụt nguồn vốn để cho vay, gây khó khăn cho hoạt động tín dụng.

Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ phi truyền thống với nền kinh tế Nhật Bản 11 1 Tác động của chính sách tiền tệ phi truyền thống đối với Nhật Bản

2.3.1 Tác động của chính sách tiền tệ phi truyền thống đối với Nhật Bản

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) là tổ chức tiên phong trong việc áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống trên toàn cầu Mặc dù những nỗ lực này rất đáng ghi nhận, nhưng các chính sách mà BOJ thực hiện vẫn chưa mang lại hiệu quả rõ rệt cho nền kinh tế Nhật Bản.

Mục tiêu lạm phát của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) luôn gắn liền với các chương trình nới lỏng định lượng như QEP, CME và QQE, nhằm cải thiện tình hình lạm phát Tuy nhiên, thực tế cho thấy các mục tiêu này không đạt được Cụ thể, trong chương trình QEP, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã giảm xuống -0,48% thay vì ổn định ở 0% hoặc có mức tăng dương Chương trình CME đặt mục tiêu lạm phát 1%, nhưng thực tế lại giảm 1,3 điểm phần trăm so với trước khi thực hiện Dù QQE được thực hiện mạnh mẽ với mục tiêu lạm phát 2% hàng năm, kết quả vẫn không khả quan Năm 2014, Nhật Bản đạt lạm phát 2% chủ yếu nhờ vào việc tăng thuế tiêu thụ từ 5% lên 8%, không phải do sự gia tăng tổng cầu.

Từ tháng 4/2014 đến tháng 4/2017, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Nhật Bản chỉ tăng 0,27% mỗi năm Nếu tiếp tục với đà này, Nhật Bản có thể mất gần 5 năm nữa, tức đến năm 2022, mới đạt được mục tiêu lạm phát 2% Đồng thời, đất nước này cũng sẽ phải chờ đến cuối năm 2018 hoặc đầu năm 2019 mới có thể tiến vào giai đoạn "bình thường hóa chính sách tiền tệ" (Ugai và Adachi, 2017).

Xét đến các tác động khác lên nền kinh tế nhờ CSTT phi truyền thống mà BOJ thực hiện cũng không mấy tích cực Cụ thể:

Lãi suất cơ bản đã giảm đáng kể, dẫn đến sự cải thiện của các chỉ số chứng khoán, đặc biệt là ETF và REIT mà BOJ chú trọng Dự kiến, điều này sẽ thúc đẩy hoạt động vay mượn để tăng cường đầu tư, sản xuất và tiêu dùng Tuy nhiên, thống kê cho thấy lượng cho vay của ngân hàng vẫn giảm, bất chấp nỗ lực của BOJ Chỉ khi BOJ áp dụng chính sách lãi suất âm vào tháng 01/2016, hoạt động cho vay mới bắt đầu tăng trở lại.

Chi tiêu cá nhân tại Nhật Bản chỉ tăng 8,3% trong Quý 1/2017 so với 16 năm trước, tương đương với mức tăng trung bình hàng năm chỉ 0,52% Nguyên nhân chính của sự gia tăng yếu này là tình trạng già hóa dân số nghiêm trọng và mức tăng lương chậm, với lương trung bình chỉ tăng 4,5% từ tháng 03/2001 đến hết quý 1/2017, tức khoảng 0,28% mỗi năm Sự chậm trễ trong tăng lương đã khiến các hộ gia đình giảm kỳ vọng về thu nhập và tích cực tiết kiệm hơn, dẫn đến chi tiêu ngày càng ít do lo ngại về tương lai kinh tế Đầu tư trong nước cũng giảm đáng kể, mặc dù BOJ đã cố gắng hạ lãi suất dài hạn để kích thích đầu tư Chi phí kinh doanh cao, sản xuất bão hòa, và tình trạng thiếu lao động đã khiến nhiều công ty Nhật chuyển sản xuất ra nước ngoài để tận dụng nhân công giá rẻ Hơn nữa, hoạt động khởi nghiệp tại Nhật Bản rất yếu so với Châu Âu và Mỹ, do các doanh nghiệp duy trì kỳ vọng thấp về tăng trưởng thị trường nội địa và không mở rộng vào các lĩnh vực sáng tạo.

Xuất khẩu sau khủng hoảng đã giảm rõ rệt (năm 2009 giảm 33% so với 2008)

Nhờ các chương trình nới lỏng định lượng, đồng Yên đã giảm giá, kết hợp với sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, hoạt động xuất khẩu của Nhật Bản đã có dấu hiệu khởi sắc trong những năm gần đây Tuy nhiên, mức tăng trưởng xuất khẩu vẫn còn hạn chế do hàng hóa Nhật Bản phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các sản phẩm của Trung Quốc và các quốc gia mới nổi khác.

Chi tiêu cá nhân, đầu tư và xuất khẩu của Nhật Bản không có nhiều cải thiện, dẫn đến sự tăng trưởng yếu của GDP Tính đến tháng 03/2001, GDP danh nghĩa đạt 532 nghìn tỷ Yên, nhưng sau 16 năm, đến tháng 03/2017, con số này chỉ tăng lên 540 nghìn tỷ Yên, với mức tăng trung bình hàng năm chỉ đạt 0,09%.

Trong cùng thời kỳ, GDP thực tế chỉ tăng từ 468 nghìn tỷ Yên lên 528 nghìn tỷ Yên, với mức tăng trung bình chỉ 0,8% mỗi năm Những chỉ số này cho thấy tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn.

CSTT phi truyền thống của Nhật Bản không mang lại nhiều thay đổi tích cực cho nền kinh tế, khiến quốc gia này vẫn gặp khó khăn trong việc thoát khỏi tình trạng giảm phát và trì trệ kinh tế kéo dài.

Bảng 1: Mục tiêu và kết quả các chương trình nới lỏng định lượng của BOJ

2.3.2 Nguyên nhân thất bại và bài học rút ra

+ Thực hiện chính sách tiền tệ phi truyền thống chưa đi kèm với cải tổ nền kinh tế

Ngoài BOJ, nhiều NHTW trên thế giới thực hiện chính sách tiền tệ phi truyền thống, nhưng không phải tất cả đều thành công trong việc đạt mục tiêu đề ra Điều này cho thấy rằng chính sách tiền tệ phi truyền thống chưa đủ để cải thiện nền kinh tế, mà cần sự phối hợp đồng bộ với các yếu tố khác Nhật Bản, mặc dù có nền tảng công nghệ tốt, lại có số lượng công ty khởi nghiệp ít ỏi Hằng năm, số công ty mới thành lập gần như không tăng do tỷ lệ phá sản đạt 4% Tình trạng này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của chính sách tiền tệ phi truyền thống và sự phát triển của quốc gia Thêm vào đó, thị trường lao động cứng nhắc và triết lý làm việc trọn đời khiến người lao động ít có khả năng khởi nghiệp Nhật Bản cũng đối mặt với tình trạng già hóa dân số và thiếu lao động, nhưng chính sách không khuyến khích nhập cư làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc mở rộng sản xuất do thiếu lực lượng lao động.

Các bất cập trong việc phân bổ vốn từ ngân hàng thông qua chương trình nới lỏng định lượng của BOJ đã hạn chế khả năng hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và mở rộng kinh doanh Để đưa nền kinh tế Nhật Bản thoát khỏi tình trạng ảm đạm, bên cạnh chính sách tiền tệ phi truyền thống của BOJ, Chính phủ Nhật Bản cần triển khai các biện pháp thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp, đồng thời phát triển và tạo ra những ngành nghề mới.

+ Chưa có sự phối hợp hiệu quả CSTT phi truyền thống với CSTK

CSTK (Công sách tài khóa) liên quan đến việc điều hành và quản lý chi tiêu công của Chính phủ Những tác động của CSTK có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của CSTT (Công sách tiền tệ) và ngược lại, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa hai chính sách này.

Năm 2014, Nhật Bản đã thực hiện chính sách nới lỏng định lượng quy mô lớn để kích thích nền kinh tế đang suy thoái, dẫn đến một số dấu hiệu tích cực Tuy nhiên, chính phủ ngay lập tức nâng thuế tiêu thụ từ 5% lên 8% vào tháng 04/2014, làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ Mặc dù Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã nỗ lực nới lỏng điều kiện tín dụng, nhưng nền kinh tế vẫn không phục hồi mạnh mẽ Chính phủ đã quyết định tăng chi tiêu công để kích cầu, nhưng trong bối cảnh dân số già hóa và mức sử dụng lao động gần đạt tiềm năng, chính sách này trở thành một sai lầm nghiêm trọng, đẩy Nhật Bản trở lại suy thoái.

Chính sách tài khóa của chính phủ sẽ không có tác động lớn đến tổng cầu trong dài hạn Trong ngắn hạn, mức lương cơ bản không tăng và thuế tiêu dùng gia tăng đã khiến chi tiêu của người dân Nhật Bản giảm sút Để nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ phi truyền thống, chính phủ cần phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Trung ương, nhằm tối ưu hóa tác động của các chính sách và tránh tình trạng mâu thuẫn.

+ Thời điểm thực hiện bình thường hóa chính sách tiền tệ chưa phù hợp

Khi áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống, Ngân hàng Trung ương (NHTW) thường tiến hành mua lại các tài sản tài chính để hỗ trợ nền kinh tế và giữ lãi suất ở mức thấp nhằm khuyến khích cho vay và tái cấu trúc nợ Tuy nhiên, việc này kéo dài có thể tạo ra rủi ro hệ thống cho nền kinh tế, đồng thời làm biến dạng thị trường tài sản, khiến lợi suất giảm không tự nhiên và giá trị tài sản không phản ánh đúng giá trị thực Hơn nữa, NHTW cũng phải đối mặt với rủi ro hoàn trả nợ khi các trái phiếu mà họ mua vào đến hạn.

BÀI HỌC VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG VỚI VIỆT

Thực tiễn áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống tại Việt Nam

Trên thế giới, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản là ngân hàng tiên phong áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống từ năm 2001 với gói nới lỏng định lượng, nhằm đối phó với tình trạng giảm phát kéo dài khi kênh truyền dẫn lãi suất không hiệu quả Đến năm 2008, các ngân hàng lớn như Cục dự trữ Liên bang Mỹ, Ngân hàng Trung ương Anh và Ngân hàng Trung ương Châu Âu cũng đã triển khai các biện pháp tương tự, bao gồm nới lỏng định lượng, định hướng thị trường và lãi suất âm Tuy nhiên, tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước chưa áp dụng các công cụ này do lãi suất điều hành vẫn còn cao và chính sách này chỉ nên thực hiện khi lãi suất gần mức 0%.

Hình 1 Lãi suất điều hành của NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 - 2017

Chính sách chống giảm phát được áp dụng ở nhiều quốc gia, nhưng tại Việt Nam, tình trạng lạm phát vẫn luôn hiện hữu Việc tăng cung tiền quá mức có thể dẫn đến lạm phát cao, gây ra nhiều bất ổn cho nền kinh tế, nhất là khi đồng VND chưa phải là đồng tiền mạnh và chưa được chấp nhận chuyển đổi rộng rãi trên toàn cầu.

Việc thực hiện chính sách nới lỏng định lượng có thể khiến đồng VND giảm giá mạnh so với ngoại tệ, điều này đi ngược lại với mục tiêu ổn định tỷ giá của Chính phủ Việt Nam Sự giảm giá của VND sẽ tạo áp lực lên nợ công và chi tiêu ngân sách, với mỗi 1% mất giá so với USD làm tăng nợ công thêm 10.000 tỷ đồng Hơn nữa, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa đủ phát triển để Ngân hàng Nhà nước có thể mua bán các tài sản tài chính nhằm tác động đến các khu vực và thị trường.

Sau cuộc khủng hoảng năm 2008, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chính sách tiền tệ phi truyền thống nhằm hỗ trợ tăng trưởng và ổn định thị trường Một trong những biện pháp quan trọng là nới lỏng tín dụng để hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông thôn.

Chính sách nới lỏng tín dụng đã hỗ trợ thị trường bất động sản và ngư dân trong giai đoạn 2008-2019, nhằm định hướng mục tiêu phát triển Những thị trường này dễ bị ảnh hưởng, vì vậy việc thực thi chính sách sẽ có tác động tích cực đến đời sống của đa số người dân Việt Nam, đặc biệt là những người có thu nhập thấp.

3.1.1 Các công cụ được áp dụng tại Việt Nam a) Chính sách nới lỏng tín dụng hỗ trợ nông nghiệp và nông thôn

Tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam chủ yếu dựa vào việc mở rộng diện tích và thâm canh, dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp so với quốc tế Nguyên nhân chính là đầu tư vào ngành nông nghiệp ngày càng giảm, không tương xứng với đóng góp của lĩnh vực này cho nền kinh tế do lợi nhuận thấp, chi phí cao và rủi ro từ thiên tai, dịch bệnh Cụ thể, tỷ trọng đầu tư cho ngành nông nghiệp đã giảm từ 13,85% tổng đầu tư xã hội năm 2000 xuống chỉ còn 6,2% vào năm 2010, trong khi đầu tư từ ngân sách nhà nước cũng giảm từ 21,5%.

Trong giai đoạn 2003 – 2007, đầu tư cho khuyến nông chỉ đạt 0,13% GDP, trong khi các nước khác là 4% Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp chỉ chiếm 3% tổng nguồn FDI Sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh mún và nhỏ lẻ, gây khó khăn cho việc áp dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực này.

Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách nhằm ưu tiên đầu tư vốn vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, với mục tiêu phục hồi và phát triển bền vững.

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/08/2008 của Ban Chấp hành Trung ương cùng với Nghị định 41/2010/NĐ-CP và Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định rõ các chính sách quan trọng nhằm tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững Chính sách này bao gồm việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam và dành nguồn tiền cung ứng hàng năm để tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng, hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông thôn, phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ.

Nghị định 116/2018/NĐ-CP đã mang lại nhiều điểm đột phá quan trọng, bao gồm việc nâng gấp đôi mức cho vay không có tài sản bảo đảm cho khách hàng cá nhân và hộ gia đình Đồng thời, nghị định cũng khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và hoàn thiện chính sách xử lý rủi ro liên quan đến quản lý dòng tiền trong lĩnh vực này Những cải cách này không chỉ giúp hạn chế rủi ro tín dụng mà còn thúc đẩy các tổ chức tín dụng tích cực hơn trong việc cho vay.

Các Nghị định đã thúc đẩy dòng vốn tín dụng đến nông thôn, tạo điều kiện cho việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp phù hợp với tình hình mới Trần lãi suất cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn đã giảm mạnh từ trên 20% vào năm 2011 xuống còn 15%.

2012 và 7% năm 2025, thấp hơn mức lãi suất cho vay thông thường

Quy định về trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn hiện thấp hơn từ 1%-2% so với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác Các ngân hàng cũng đã triển khai nhiều chính sách khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn, đồng thời chủ động cân đối nguồn vốn để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn trong lĩnh vực này Nhờ đó, khách hàng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn có nhiều cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng hơn.

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), dư nợ tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn đã tăng trưởng ổn định qua các năm, với tốc độ tăng trưởng bình quân gần 20% trong 10 năm qua, luôn vượt trội hơn so với tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế.

Trong giai đoạn 2017-2018, tín dụng nông nghiệp và nông thôn ghi nhận tốc độ tăng trưởng ấn tượng với 25,5% và 21,4%, vượt xa mức tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế là 18,24% và 13,88% Đến cuối tháng 12/2018, tổng dư nợ tín dụng cho lĩnh vực này đạt 1.786 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 25% tổng dư nợ toàn nền kinh tế Đặc biệt, mức cho vay tối đa không cần tài sản đảm bảo đối với cá nhân và hộ gia đình đã được nâng lên 200 triệu đồng.

6 tháng đầu năm 2019 mức dư nợ tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn tăng 5,8%

Hình 2 Tăng trưởng tín dụng và dư nợ tín dụng khu vực nông nghiệp, nông thôn từ năm 2009 - tháng 9/2015

Đầu tư tín dụng trong nông nghiệp và nông thôn đã đóng góp quan trọng vào việc cung cấp vốn cho người dân và doanh nghiệp, giúp thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại khu vực nông thôn Tăng trưởng ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đạt 3,76% vào năm 2018, cao nhất trong giai đoạn 2012-2018, đã góp phần nâng cao GDP lên 7,08% Sự chuyển mình tích cực của vùng nông thôn đã cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, với sản phẩm nông sản Việt Nam hiện có mặt tại hơn 180 quốc gia, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 thế giới.

Đề xuất giải pháp nâng cao tính hiệu quả sử dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống tại Việt Nam

3.2.1 Triển khai kịp thời và đồng bộ các chủ trương, chính sách đã được ban hành

Các chính sách nới lỏng tín dụng Nhà nước gần đây chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như nông nghiệp, ngư nghiệp và hỗ trợ người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, cũng như người lao động có thu nhập thấp Tuy nhiên, do đa số đối tượng hưởng lợi có trình độ hiểu biết hạn chế, việc hướng dẫn chi tiết từ các cơ quan ban hành chính sách là cần thiết để họ có

Các chính sách ban hành hiện nay vẫn chưa đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất Chẳng hạn, theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP, khách hàng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn có thể vay vốn mà không cần tài sản đảm bảo, nhưng lại yêu cầu phải nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, dẫn đến việc khách hàng vẫn phải có tài sản đảm bảo Tương tự, trong lĩnh vực bất động sản, mặc dù có Quyết định 1013/QĐ-TTg về lãi suất cho vay ưu đãi nhà ở xã hội, nhưng việc triển khai gặp khó khăn do các ngân hàng thương mại chưa được cấp nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để bù chênh lệch lãi suất, trong khi nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội lại rất hạn chế.

Để các chính sách tài chính phi truyền thống sớm được áp dụng trong thực tiễn, các Bộ, ban, ngành cần nhanh chóng ban hành các thông tư hướng dẫn Nghị định, Quyết định Các văn bản này cần đảm bảo tính đồng bộ để tránh chồng chéo, từ đó giảm thiểu khó khăn và chậm trễ trong quá trình thực hiện.

3.2.2 Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành Để ngành ngân hàng có thể đẩy mạnh cung ứng nguồn vốn tín dụng phục vụ hiệu quả lĩnh vực ưu tiên, rất cần sự quan tâm, triển khai đồng bộ các giải pháp từ phía các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân chính quyền các cấp và từ chính bản thân đối tượng được hưởng lợi

Trong chính sách nới lỏng tín dụng cho khu vực nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các ngân hàng, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội như Hội Nông dân Việt Nam và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam để truyền thông về các chính sách đến người dân Đồng thời, trong quá trình cho vay, kiểm tra, thu nợ và xử lý tài sản thế chấp, các ngành liên quan và chính quyền địa phương cần tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thực hiện nhiệm vụ của mình.

Các Bộ, ngành và chính quyền địa phương cần phối hợp chặt chẽ để tuyên truyền và hỗ trợ người dân trong việc tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai.

Chính phủ cần chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng Việc cải tiến quy trình và thủ tục, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay là rất cần thiết Đồng thời, cần công khai và minh bạch các quy trình cho vay để người dân có thể tiếp cận vốn một cách thuận lợi và nhanh chóng nhất.

3.2.3 Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hiệu quả và có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp

Chính sách nới lỏng tín dụng trong những năm qua đã góp phần tích cực vào các chương trình mục tiêu quốc gia như giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới, hỗ trợ người dân đô thị có thu nhập trung bình và thấp trong việc sở hữu nhà ở, cũng như giúp ngư dân phát triển hoạt động đánh bắt Tuy nhiên, quá trình triển khai chính sách vẫn gặp nhiều bất cập và vướng mắc mà khi thiết kế chính sách chưa được dự đoán đầy đủ.

Vốn vay không đến đúng đối tượng mong muốn do nhiều hộ gia đình, doanh nghiệp và đơn vị không đủ điều kiện vẫn tìm cách thay đổi tiêu chí để tiếp cận nguồn vốn ưu đãi Điều này xảy ra khi các cơ quan kiểm tra và thẩm định không thực hiện giám sát chặt chẽ, dẫn đến tình trạng trục lợi từ chính sách.

Việc sử dụng nguồn vốn vay không đúng mục đích đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng trong chính sách nới lỏng tín dụng cho khu vực nông nghiệp và nông thôn Nhiều hộ nông dân đã dùng vốn vay để chi tiêu hoặc giải quyết khó khăn tạm thời thay vì đầu tư vào sản xuất và kinh doanh Thêm vào đó, một số khoản vay không yêu cầu tài sản thế chấp và thiếu ràng buộc pháp lý, dẫn đến việc người vay không có áp lực phải sử dụng vốn đúng cách nhằm tăng thu nhập và trả nợ.

Vốn vay có thể bị sử dụng không hiệu quả do nhiều hộ nông dân và ngư dân thiếu kiến thức về sản xuất và kinh doanh, dẫn đến tình trạng làm ăn thua lỗ và nguy cơ mắc nợ xấu cao Để đảm bảo dòng tiền tín dụng được sử dụng đúng mục đích và mang lại hiệu quả cao, Ngân hàng Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ và hướng dẫn cụ thể cho người vay.

 + Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình cấp tín dụng của các TCTD

Các tổ chức tín dụng (TCTD) cần thiết lập quy trình kiểm tra và giám sát thường xuyên đối với việc vay vốn, sử dụng vốn và trả nợ của khách hàng Việc này giúp phát hiện kịp thời các khoản nợ quá hạn và nợ xấu, từ đó bảo đảm chất lượng tín dụng Đồng thời, TCTD cũng cần thực hiện cảnh báo sớm về rủi ro cho người vay Dựa trên kết quả kiểm tra và giám sát, các TCTD nên tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm, khắc phục sai sót và đề xuất điều chỉnh kịp thời để nâng cao hiệu quả của chính sách tín dụng.

3.2.4 Kết hợp với một số biện pháp hỗ trợ khác

Công cụ chính sách tiền tệ phi truyền thống của NHNN Việt Nam, chủ yếu là nới lỏng tín dụng, đã đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi và phát triển một số khu vực và thị trường sau khủng hoảng kinh tế Để nâng cao hiệu quả của chính sách này, cần kết hợp với các giải pháp hỗ trợ bổ sung.

Để nâng cao an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, cần tiếp tục tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và xử lý nợ xấu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) triển khai đồng bộ các biện pháp điều hành và chấn chỉnh hoạt động của các TCTD.

Kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng là cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng Đồng thời, cần kiểm soát và giảm tín dụng trong các lĩnh vực rủi ro nhằm chủ động kiểm soát nợ xấu phát sinh.

Ngày đăng: 01/03/2022, 11:49

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1. Lãi suất điều hành của NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 - 2017 - Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 FTU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Hình 1. Lãi suất điều hành của NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 - 2017 (Trang 18)
Hình 2. . Tăng trưởng tín dụng và dư nợ tín dụng khu vực nông nghiệp, nông thôn từ - Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 FTU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Hình 2. Tăng trưởng tín dụng và dư nợ tín dụng khu vực nông nghiệp, nông thôn từ (Trang 21)
Hình 3. Tốc độ tăng trường tín dụng và dư nợ tín dụng bất động sản  giai đoạn  2010-2018 - Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 FTU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Hình 3. Tốc độ tăng trường tín dụng và dư nợ tín dụng bất động sản giai đoạn 2010-2018 (Trang 24)
Hình 5. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế và BĐS - Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 FTU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Hình 5. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế và BĐS (Trang 25)
Hình 5. Sản lượng khai thác thuỷ sản của Việt Nam giai đoạn 1995-2020 - Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 FTU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Hình 5. Sản lượng khai thác thuỷ sản của Việt Nam giai đoạn 1995-2020 (Trang 27)
Hình 6. Sản lượng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam giai đoạn 1997 -2020 - Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 FTU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Hình 6. Sản lượng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam giai đoạn 1997 -2020 (Trang 27)
Hình 7. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam qua các năm, giai đoạn 2012-2019 - Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 FTU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Hình 7. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam qua các năm, giai đoạn 2012-2019 (Trang 29)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w