1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM

36 2,1K 11

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hiện Trạng Chênh Lệch Vùng Ở Việt Nam
Định dạng
Số trang 36
Dung lượng 386 KB

Cấu trúc

  • 1. Quan niệm và bản chất của chênh lệch vùng (4)
    • 1.1 Khái niệm và phân loại (4)
    • 1.2. Bản chất và nguyên nhân (4)
  • 2. Hệ thống chỉ tiêu sử dụng để phân tích chênh lệch vùng (7)
    • 2.1 Nhóm chỉ tiêu về kinh tế- xã hội (7)
    • 2.2 Các công cụ đánh giá sự chênh lệch (7)
  • 3. Sự cần thiết của việc nghiên cứu vấn đề chênh lệch vùng (9)
  • 1. Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn (11)
    • 1.1 Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi cả nước (11)
      • 1.1.1. Chênh lệch về GDP và GDP/ người (11)
      • 1.1.2. Chênh lệch về thu nhập và chi tiêu bình quân tháng (13)
      • 1.1.3. Chênh lệch về tỷ lệ thất nghiệp thành thị (15)
      • 1.1.4. Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ nghèo (16)
    • 1.2 Chênh lệch giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi 6 vùng (16)
      • 1.2.1 Chênh lệch về GDP/người (16)
      • 1.2.2. Chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn trong mỗi vùng (18)
  • 2. Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn (19)
    • 2.1 Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn trên phạm vi cả nước (19)
      • 2.1.1 Chênh lệch về GDP và GDP/người (19)
      • 2.1.2 Chênh lệch giữa các vùng về thu nhập và chi tiêu (22)
      • 2.1.3 Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ nghèo (23)
    • 2.2 Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn trên phạm vi sáu vùng (26)
      • 2.2.1 Chênh lệch giữa vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và khu vực ngoài vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (26)
      • 2.2.2 Chênh lệch giữa vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ và khu vực ngoài vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ (28)
      • 2.2.3 Chênh lệch giữa vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ và khu vực ngoài vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ (30)
  • 1. Định hướng và chính sách phát triển vùng (33)
  • 2. Phát triển bền vững các vùng và địa phương (34)

Nội dung

Quan niệm và bản chất của chênh lệch vùng

Khái niệm và phân loại

Chênh lệch vùng là sự khác biệt trong mức độ phát triển và mức sống của cư dân giữa các khu vực tại một thời điểm cụ thể Sự chênh lệch này được thể hiện qua cả khía cạnh số lượng và chất lượng, với đơn vị đo lường là lần hoặc phần trăm.

Xét về khía cạnh kinh tế có hai loại hình mất cân bằng( chênh lệch vùng):

- Sự chênh lệch về thu nhập và mức sống.

- Sự mất cân bằng về phân bố dân cư và phân bố các hoạt động kinh tế.

Bản chất và nguyên nhân

Chênh lệch vùng phản ánh sự khác biệt về trình độ phát triển và mức sống giữa các khu vực Sự chênh lệch này có thể xuất hiện trong từng tỉnh, giữa các tỉnh và giữa các vùng khác nhau Cụ thể, nó diễn ra giữa vùng phát triển và vùng chậm phát triển, giữa vùng duyên hải và vùng nội địa, cũng như giữa đô thị và nông thôn.

Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng được thể hiện rõ qua tốc độ phát triển và trình độ công nghệ Những khu vực có mật độ dân cư cao và mức độ công nghiệp hóa cao thường có quy mô hoạt động kinh tế lớn hơn, trong khi các vùng có mật độ dân cư thấp và trình độ công nghiệp hóa thấp lại có quy mô kinh tế nhỏ hơn.

Chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng được thể hiện qua cơ cấu kinh tế lãnh thổ, phản ánh khả năng khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực cũng như mức thu nhập của người dân Các vùng dân cư thưa thớt và thu nhập thấp thường phụ thuộc vào ngành sản xuất dựa vào tài nguyên thiên nhiên, chủ yếu phát triển nông nghiệp theo kiểu tự cung tự cấp với sản phẩm hàng hóa hạn chế Ngược lại, những vùng có thu nhập cao và nguồn nhân lực dồi dào với kỹ năng chuyên môn cao, cùng với lợi thế về vị trí địa lý và phát triển hạ tầng như sân bay, cảng biển và đường giao thông, thường phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghiệp chế tác.

Theo quan điểm hệ thống, vùng được xem như một hệ thống với sự khác biệt về các yếu tố phát triển, dẫn đến sự không đồng đều trong sự phát triển kinh tế - xã hội giữa các lãnh thổ Trong một vùng, có thể xảy ra sự phát triển mạnh ở một số nơi, trong khi các khu vực khác lại phát triển chậm hơn hoặc rơi vào tình trạng kém phát triển Xu hướng này tạo ra sự không cân đối về mặt kinh tế - xã hội, khiến cho trình độ phát triển giữa các vùng trở nên khác nhau Do đó, sự chênh lệch giữa các vùng là điều tất yếu.

Chênh lệch mức sống giữa các vùng thể hiện rõ qua sự khác biệt về thu nhập, chi tiêu và mức độ tiếp cận văn hóa, tinh thần, cũng như các chỉ tiêu xã hội khác.

Sự phân bố dân cư giữa các vùng khác nhau chịu ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu, nguồn nước và lịch sử phát triển kinh tế, dẫn đến sự khác biệt về mật độ dân số, cơ cấu dân số và trình độ lao động Tỷ lệ lao động nam nữ và cơ cấu lao động theo lứa tuổi cũng tác động đến chi phí lao động Những chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế là nguyên nhân chính gây ra sự khác biệt về năng suất lao động và mức sống giữa các vùng Các vùng đô thị và đồng bằng với lịch sử phát triển kinh tế lâu dài thường tập trung nhiều lao động có tay nghề cao, tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành nghề yêu cầu kỹ năng cao và đóng góp lớn vào thu nhập quốc gia Ngược lại, vùng trung du miền núi với ít lực lượng lao động có kỹ thuật thường có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp hơn so với các vùng phát triển và đô thị.

Tóm lại có thể khái quát lại những nguyên nhân chính dẫn đến sự chênh lệch phát triển vùng ở những nội dung sau:

Sự phân bố không đồng đều của các nguồn lực tự nhiên như dầu lửa, than đá, đất đai và nguồn nước ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế và đời sống người dân, đặc biệt ở những khu vực được thiên nhiên ưu đãi Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các tài nguyên này sẽ cạn kiệt và không thể tái tạo, do đó, việc phân bố hợp lý các nguồn lực nhân tạo trở nên quan trọng trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế vùng.

Thứ hai, việc điều chỉnh lao động trong bối cảnh phát triển kinh tế gặp nhiều khó khăn do lao động là yếu tố quyết định cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng lãnh thổ Để đạt được sự cân bằng về lao động và thu nhập giữa các khu vực, di dân được xem là giải pháp lý thuyết Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc di cư gặp phải nhiều rào cản như khoảng cách địa lý, tâm lý, và các mối quan hệ xã hội Xu hướng di dân thường phụ thuộc vào lứa tuổi, và mặc dù di cư giúp cân bằng phát triển, nó cũng có thể tạo ra sự mất cân bằng mới khi lực lượng di cư chủ yếu là lao động trẻ, khỏe mạnh và có trình độ học vấn cao, dẫn đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực tại địa phương gốc.

Vấn đề vốn đầu tư là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự mất cân bằng giữa khu vực đô thị và nông thôn Để phát triển kinh tế một vùng lãnh thổ, việc thu hút và huy động vốn là điều cần thiết Các trung tâm tài chính thường tập trung ở khu vực đô thị, dẫn đến chi phí sử dụng vốn tăng cao và tính an toàn của vốn giảm khi khoảng cách xa Điều này tạo ra rào cản trong việc huy động và cung cấp vốn đầu tư cho các vùng xa.

Sự đổi mới với những phát minh, kỹ thuật và công nghệ mới là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển Tuy nhiên, những thành tựu này không xuất hiện đồng đều giữa các vùng lãnh thổ, mà thường tập trung ở các điểm trung tâm trước, rồi mới dần lan tỏa ra xung quanh Điều này dẫn đến sự mất cân bằng trong quá trình phát triển.

Sự phát triển kinh tế diễn ra theo cơ chế số nhân và mang tính chu kỳ, cho thấy quá trình phát triển lũy tích là liên tục và có những giai đoạn lặp lại.

- Thứ sáu, quan hệ giữa mất cân bằng với giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội.

Mức độ cân bằng kinh tế- xã hội giữa các quốc gia có sự khác biệt rõ rệt, phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của mỗi nước Các nước kém phát triển thường có mức độ mất cân bằng thấp, trong khi các nước đang phát triển lại đối mặt với tình trạng mất cân bằng cao Ngược lại, ở các nước công nghiệp, mức độ mất cân bằng đã giảm và đạt được xu hướng đồng đều hơn.

Hệ thống chỉ tiêu sử dụng để phân tích chênh lệch vùng

Nhóm chỉ tiêu về kinh tế- xã hội

Nhóm chỉ tiêu về kinh tế:

- Chênh lệch về tốc độ tăng trưởng GDP.

- Chênh lệch về GDP/người.

- Chênh lệch về thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người.

Nhóm chỉ tiêu về xã hội:

- Chênh lệch về giáo dục, chăm sóc sức khỏe.

Chênh lệch về cơ hội việc làm giữa khu vực thành thị và nông thôn thể hiện rõ qua tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố và tỷ lệ thời gian sử dụng lao động tại nông thôn Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động mà còn tác động đến sự phát triển kinh tế bền vững của cả hai khu vực Việc cải thiện cơ hội việc làm là cần thiết để thu hẹp khoảng cách này và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Các công cụ đánh giá sự chênh lệch

a Dùng bảng biểu và bản đồ

Công tác thống kê cung cấp số liệu về thu nhập, việc làm và mức sống ở từng khu vực, giúp phân tích sự mất cân bằng giữa các vùng Các số liệu này thường được trình bày qua bảng biểu hoặc bản đồ Đặc biệt, đường cong Lorenzt là công cụ phổ biến để đánh giá tình trạng mất cân bằng trong xã hội.

Để đánh giá mức độ mất cân bằng thu nhập trong một quốc gia, người ta thường sử dụng đường cong lũy tích của thu nhập so với dân số Trong trường hợp không có mất cân bằng, đồ thị sẽ là một đường thẳng 45 độ Tuy nhiên, thực tế cho thấy đường cong này thường cong lõm xuống, và độ cong càng lớn thì mức độ mất cân bằng thu nhập càng cao Phương pháp chỉ số cũng được áp dụng để phân tích tình hình này.

Việc áp dụng đường cong Lorenz giúp phân tích độ bất bình đẳng thông qua chỉ số Gini bằng cách so sánh diện tích vùng lõm với diện tích tam giác Chỉ số Gini càng cao ở một quốc gia, mức độ bất bình đẳng càng lớn.

Chỉ số mức tập trung của ngành là một thước đo quan trọng để đánh giá mức độ tập trung của các hoạt động kinh tế trong một vùng hoặc khu vực cụ thể Thông qua chỉ số này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về sự phân bố và tập trung của các ngành nghề, từ đó giúp các nhà đầu tư và hoạch định chính sách đưa ra quyết định chính xác hơn.

ICij: chỉ số mức tập trung của ngành j trong khu vực i.

Pij: số lao động của ngành j trong khu vực i.

Pi: tổng số lao động của ngành trong khu vực.

Pj: tổng số lao động của ngành j trong toàn quốc hoặc toàn vùng.

P: tổng số lao động của các ngành trong toàn quốc hoặc vùng.

- Chỉ số địa phương hóa( location quotient)

Pij và Pj giải thích như trên.

Mi: dân số của khu vực i.

M: tổng số dân của cả nước hoặc vùng.

Sự cần thiết của việc nghiên cứu vấn đề chênh lệch vùng

Nhịp độ tăng trưởng GDP ở các vùng khó khăn thấp hơn mức trung bình toàn quốc, trong khi tăng trưởng dân số lại cao hơn Điều này dẫn đến sự chênh lệch ngày càng lớn về GDP/người giữa các vùng, gây ra mối lo ngại Để giảm bớt sự chênh lệch này, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách điều chỉnh phù hợp.

Chênh lệch vùng chứa đựng hai mặt của một vấn đề: mặt tiêu cực và mặt tích cực.

Vùng nghèo thường nằm ở những khu vực hẻo lánh, mặc dù có tiềm năng tài nguyên phong phú, nhưng lại thiếu đầu tư và phát triển kinh tế, dẫn đến thu nhập thấp cho cư dân Ngược lại, các vùng có vị trí địa lý thuận lợi, dù tiềm năng tự nhiên hạn chế, lại phát triển mạnh mẽ nhờ giao thông thuận tiện và dân cư đông đúc Sự chênh lệch này tạo ra dòng chảy tài nguyên và lao động từ các vùng nghèo sang các vùng phát triển.

Sự di chuyển tạo ra hai không gian chính: không gian tích cực với sức hút và sức đẩy mạnh mẽ, và không gian thụ động chủ yếu bị hút Điều này dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế và đời sống xã hội giữa các cộng đồng và tầng lớp dân cư ở các vùng khác nhau, có khả năng gây ra xung đột với những hậu quả xã hội khó lường.

Các quốc gia đang tìm cách khắc phục chênh lệch vùng để thúc đẩy phát triển kinh tế ở các khu vực chậm phát triển, từ đó tăng trưởng kinh tế toàn quốc Sự phát triển của các vùng kinh tế mạnh mẽ kích thích quá trình đô thị hóa và lan tỏa lợi ích kinh tế đến các khu vực kém phát triển, đồng thời tạo ra cơ hội cho người dân tự điều tiết việc làm và thu nhập của họ.

HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG Ở VIỆT NAM

Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn

Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi cả nước

Trên toàn quốc, có sự chênh lệch rõ rệt giữa khu vực đô thị và nông thôn về GDP, GDP bình quân đầu người, thu nhập, chi tiêu và một số chỉ tiêu xã hội khác.

1.1.1 Chênh lệch về GDP và GDP/ người

Sự khác biệt về mức độ phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng giữa đô thị và nông thôn thể hiện rõ qua các chỉ số như sự tập trung của các cơ sở sản xuất và mức tăng trưởng kinh tế Đô thị có nhiều đầu mối giao thông và điều kiện phát triển sản xuất thuận lợi, dẫn đến hoạt động kinh tế sôi động và văn hóa- nghệ thuật phát triển cao hơn Ngược lại, nông thôn, đặc biệt là vùng miền núi khó khăn, có trình độ phát triển thấp hơn, tạo ra sự chênh lệch kinh tế đáng kể.

Sự phát triển của khu vực nông thôn Việt Nam vẫn phụ thuộc vào cơ cấu sản xuất truyền thống, dẫn đến việc chưa khai thác hết tiềm năng lao động Cơ cấu ngành nghề chủ yếu tập trung vào nông nghiệp, khiến cho nhiều lao động không được sử dụng hiệu quả Tại hai vùng sản xuất nông sản lớn là Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp đã tăng từ 72,4% lên 78,8% và từ 77% lên 91% trong giai đoạn 1994-2003 Tuy nhiên, khu vực dịch vụ và nông thôn vẫn chưa đủ khả năng tạo ra việc làm để hấp thụ lao động dư thừa từ nông nghiệp, đây là một trong những nguyên nhân chính hạn chế tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hiện nay.

GDP2005 = 21 tỉ USD, mức tăng = 8,4%/năm

Tỷ trọng nông thôn / GDP = 20,9% (2005)

Tốc độ tăng của NN

Tốc độ tăng của CN

Tốc độ tăng của DV

Cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam hiện nay đang chuyển dịch chậm và không đồng đều giữa các vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ 64% nông nghiệp và 36% phi nông nghiệp, cho thấy sự tiến bộ trong cơ cấu ngành nghề Trong khi đó, các vùng khác như miền núi phía Bắc và Tây Nguyên vẫn giữ tỷ lệ cao về nông nghiệp, với Tây Bắc là 93% nông nghiệp và 7% phi nông nghiệp, Đông Bắc là 88,4% và 11,6%, Tây Nguyên là 91% và 9%, Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long là 78,8% và 21,2% Sự khác biệt này cho thấy nhu cầu cần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tại các khu vực chưa phát triển.

Tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam đã tăng từ 20,7% năm 1995 lên 24,2% năm

Từ năm 1996 đến 2003, tốc độ tăng trưởng kinh tế đô thị đạt khoảng 8,2%, gấp 1,4 lần so với khu vực nông thôn, trong khi khu vực đô thị hóa với 25,8% dân số đã tạo ra 77,2% GDP cả nước Năm 2003, GDP bình quân đầu người ở đô thị đạt khoảng 22,4 triệu đồng, trong khi ở nông thôn, nơi có 74,2% dân số, chỉ đạt 2,3 triệu đồng, tương đương 31% mức bình quân toàn quốc và hơn 10% mức bình quân đô thị Tăng trưởng kinh tế nông thôn trong giai đoạn này chỉ đạt 5,8% theo GDP.

Đến năm 2003, chênh lệch dân số giữa khu vực đô thị và nông thôn là 0,35 lần, trong khi chênh lệch mật độ dân số lên tới 3,2 lần Từ năm 1995 đến nay, sự phân hóa này đã có những thay đổi đáng kể.

Từ năm 1995 đến năm 2003, mức chênh lệch GDP giữa hai khu vực ngày càng gia tăng, với GDP thực tế tăng từ 2,7 lần lên 3,39 lần và GDP/người giảm từ 10,32 lần xuống 9,74 lần Điều này cho thấy trong gần 10 năm, GDP chỉ tăng thêm 0,25%, trong khi GDP/người đã giảm 0,06%.

Bảng 2 Một số chỉ tiêu về dân số, GDP và GDP/người của khu vực đô thị và nông thôn

GDP (tỷ đồng, giá thực tế)

GDP/người (triệu đồng, giá thực tế)

3 chênh lệch giữa đô thị và nông thôn

Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám Thống kê 1995, 2003, Nxb Thống kê, Hà

Nội, 1996, 2004 và xử lý của các tác giả.

1.1.2 Chênh lệch về thu nhập và chi tiêu bình quân tháng

Hơn 10 năm qua, Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, nhờ đó thu nhập của dân cư liên tục tăng song có sự khác biệt lớn giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư của hai khu vực này là 6,95% giai đoạn 1996-2000 và 7,5% giai đoạn 2001-2005.

Năm 2002, thu nhập bình quân đầu người một tháng toàn quốc đạt 356 nghìn đồng, tăng 20,6% so với năm 2000 Cụ thể, thu nhập ở khu vực thành thị đạt 622 nghìn đồng, tăng 18,4%, trong khi khu vực nông thôn đạt 275 nghìn đồng, tăng 22,3% so với năm 1999 So với các năm 1996, 1999 và 2002, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị lần lượt gấp 2,71 lần, 2,30 lần và 2,26 lần so với khu vực nông thôn, cho thấy thu nhập của hộ gia đình thành thị vẫn cao hơn nhiều so với nông thôn.

Bảng3: Thu nhập bình quân đầu người một tháng phân theo thành thị, nông thôn

Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn (lần) 2,71 2,30 2,26

Chênh lệch giữa hai nhóm thu nhập 6,99 7,65 8,14

Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2003, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004.

Theo Tổng cục Thống kê, khi chia các hộ điều tra thành 10 nhóm thu nhập, khoảng cách giữa nhóm có thu nhập cao nhất và thấp nhất ngày càng gia tăng theo từng năm Cụ thể, vào năm 2000, thu nhập bình quân của nhóm hộ giàu nhất gấp 12 lần nhóm hộ nghèo nhất, và đến năm 2002, tỷ lệ này đã tăng lên 13,75 lần.

Chênh lệch thu nhập giữa nhóm cao nhất và nhóm thấp nhất tại Việt Nam đang gia tăng, từ 6,33 lần vào năm 1996 lên 8,1 lần vào năm 2002 Cụ thể, ở khu vực thành thị, tỷ lệ này là 7,7 lần năm 1996 và 8 lần năm 2002, trong khi ở khu vực nông thôn là 5,8 lần và 6 lần Điều này cho thấy khu vực thành thị không chỉ có mức tăng trưởng kinh tế cao hơn mà còn chứng tỏ sự chênh lệch thu nhập lớn hơn so với khu vực nông thôn.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, mức chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một tháng năm 2002 đạt 269 nghìn đồng, tăng 21,7% so với năm 2000, với mức tăng trung bình hàng năm là 8,6% Cụ thể, chi tiêu ở khu vực nông thôn là 211 nghìn đồng, trong khi khu vực thành thị là 461 nghìn đồng, gấp 2,2 lần Đặc biệt, chi tiêu cho giáo dục trong giai đoạn 2000-2003 bình quân mỗi người đi học một năm là 627 nghìn đồng, tăng 14,6% so với giai đoạn 1997-1998 Chi tiêu cho giáo dục cũng có sự chênh lệch rõ rệt giữa thành thị và nông thôn; ở thành thị, mức chi là 1,255 triệu đồng, gấp ba lần so với nông thôn Đối với nhóm hộ nghèo nhất, chi tiêu cho giáo dục chỉ là 236 nghìn đồng, trong khi nhóm hộ giàu nhất chi tới 1,418 triệu đồng, chênh lệch gấp 6 lần.

Tỷ lệ chi tiêu cho ăn uống đã giảm từ 66% năm 1993 xuống 63% năm 2000 và 57% năm 2002, tuy nhiên vẫn ở mức cao Sự chênh lệch trong chi tiêu này còn thể hiện rõ giữa khu vực thành thị và nông thôn, cũng như giữa nhóm hộ giàu và hộ nghèo.

Năm 2002, chi tiêu cho ăn uống ở khu vực thành thị chiếm 52%, trong khi ở khu vực nông thôn là 61% Nhóm hộ giàu nhất chỉ chi 50% cho ăn uống, trong khi nhóm hộ nghèo nhất chi tới 70% Sự chênh lệch trong chi tiêu không phải cho ăn uống giữa hai nhóm này là rất lớn, với nhóm hộ giàu chi gấp 7,5 lần nhóm hộ nghèo Cụ thể, chi cho nhà ở, điện nước và vệ sinh gấp 10,4 lần; chi cho đồ dùng gia đình gấp 7,6 lần; chi cho y tế gấp 4 lần; chi cho đi lại và bưu điện gấp 15,8 lần; chi cho giáo dục gấp 6 lần; và chi cho văn hóa, thể thao và giải trí gấp 95,4 lần so với nhóm hộ nghèo nhất.

1.1.3 Chênh lệch về tỷ lệ thất nghiệp thành thị

Thiếu việc làm đề cập đến những người đã có việc nhưng mong muốn, sẵn sàng và có khả năng làm thêm Đến năm 2003, số lao động thiếu việc làm ở khu vực thành phố trên toàn quốc đạt 0,429 triệu người, chiếm 4,29% tổng số lao động trong khu vực thành thị.

Chênh lệch giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi 6 vùng

1.2.1 Chênh lệch về GDP/người

Trên 6 vùng lãnh thổ, sự chênh lệch giữa khu vực đô thị và nông thôn thay đổi tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội và vị trí của từng vùng Những vùng có kinh tế tăng trưởng nhanh và tỷ lệ đô thị hóa cao thường có chênh lệch GDP/người giữa đô thị và nông thôn lớn hơn Ngược lại, các vùng có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn và tỷ lệ đô thị hóa thấp hơn sẽ có sự chênh lệch ít hơn Những số liệu cụ thể sẽ minh chứng cho điều này.

- Vùng có tỷ lệ đô thị hóa cao thì chênh lệch về GDP/người cũng cao.

So sánh giữa các tỉnh, thành phố có tỷ lệ đô thị hóa cao và thấp cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các địa phương Cụ thể, tỉnh/thành phố có tỷ lệ đô thị hóa cao có GDP/người vượt trội hơn hẳn so với tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa thấp Ngoài ra, sự khác biệt về GDP/người giữa khu vực thành thị và nông thôn trong cùng một tỉnh cũng rất lớn.

Bảng5: Một số chỉ tiêu về chênh lệch giữa khu vực đô thị - khu vực nông thôn phân theo vùng

Tỷ lệ đô thị hóa năm 2003 (%)

Tốc độ Đô thị hóa 2001-2005 (%)

Chênh lệch GDP/người giữa khu vực đô thị và nông thôn năm

1 Trung du và miền núi phía Bắc 9,0 13,3 2,5 14,53

6 Đồng bằng sông Cửu Long 9,21 19,8 5,1 9,62

Nguồn: - Tổng cục Thống kê: Niên giám Thống kê 2003, Nxb Thống kê,Hà Nội, 2004

- Sở Kế hoạch và đầu tư các tỉnh: Báo cáo thực hiện 2005 và kế hoạch 2006

- Xử lý và tính toán của chuyên gia

- Vùng có tỷ lệ đô thị hóa thấp thì chênh lệch về GDP/người cũng thấp

Vào năm 2003, vùng Trung du miền núi phía Bắc có tỷ lệ đô thị hóa đạt 14,6%, trong đó Bắc Cạn ghi nhận tỷ lệ 15,7% với GDP/người là 2,5 triệu đồng, trong khi Lạng Sơn có tỷ lệ đô thị hóa cao hơn là 19,2% và GDP/người đạt 4,2 triệu đồng Sự chênh lệch giữa Bắc Cạn và Lạng Sơn về tỷ lệ đô thị hóa là 1,3 lần, trong khi GDP/người chênh lệch 1,68 lần.

Tây Nguyên hiện có tỷ lệ đô thị hóa đạt 27,3% và GDP/người là 3,6 triệu đồng Trong đó, tỉnh Kon Tum ghi nhận tỷ lệ đô thị hóa 31,4% với GDP/người là 3,4 triệu đồng, trong khi Lâm Đồng có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất khu vực là 39,7% và GDP/người đạt 3,8 triệu đồng Sự chênh lệch về tỷ lệ đô thị hóa giữa Lâm Đồng và Kon Tum là 1,45 lần, trong khi chênh lệch GDP/người là 1,11 lần.

1.2.2 Chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn trong mỗi vùng

Mức chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất tại Việt Nam đang gia tăng Cụ thể, năm 1996, chênh lệch toàn quốc là 6,99 lần, tăng lên 7,4 lần vào năm 1999 và đạt 8,1 lần vào năm 2002 Từng vùng cũng ghi nhận sự khác biệt rõ rệt: Đồng bằng sông Hồng là 6,13 lần, Trung du miền Núi Bắc Bộ 5,68 lần, Bắc Trung Bộ 5,73 lần, duyên hải Nam Trung Bộ 5,47 lần, Tây Nguyên 12,71 lần, Đông Nam Bộ 7,57 lần và Đồng bằng sông Cửu Long 6,36 lần.

Năm 1999, tỷ lệ phát triển kinh tế của các vùng tại Việt Nam cho thấy sự chênh lệch rõ rệt: Đồng bằng sông Hồng đạt 7,0 lần, Trung du miền núi Bắc Bộ 6,78 lần, Bắc Trung Bộ 6,95 lần, Duyên hải Nam Trung Bộ 6,31 lần, Tây Nguyên 12,9 lần, Đông Nam Bộ 10,32 lần và Đồng bằng sông Cửu Long 7,86 lần.

Năm 2002, mức thu nhập bình quân đầu người giữa các vùng tại Việt Nam cho thấy sự chênh lệch rõ rệt, với Đông Nam Bộ có mức cao nhất là 9,0 lần và vùng Trung du miền núi Bắc Bộ là 5,68 lần Từ năm 1999 đến 2002, chênh lệch thu nhập đã giảm ở tất cả các vùng, trong đó Tây Nguyên giảm mạnh nhất từ 12,9 lần xuống 6,4 lần, trong khi Đồng bằng sông Hồng giảm ít nhất từ 7,0 lần xuống 6,9 lần.

Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn

Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn trên phạm vi cả nước

2.1.1 Chênh lệch về GDP và GDP/người

Trong giai đoạn 1996-2003, các vùng phát triển và vùng khó khăn đều ghi nhận sự tăng trưởng kinh tế, nhưng với tốc độ khác nhau Cụ thể, tốc độ phát triển kinh tế của vùng phát triển đạt 1,37 lần mức trung bình cả nước và gấp 1,6 lần mức tăng trưởng của vùng khó khăn Mặc dù vùng khó khăn có tốc độ tăng trưởng thấp hơn mức trung bình cả nước, nhưng do tốc độ tăng dân số cao hơn, các chỉ tiêu phát triển và GDP/người của vùng này ngày càng cách xa so với vùng phát triển.

Cơ cấu kinh tế giữa các vùng ở Việt Nam cho thấy sự khác biệt rõ rệt Tại các vùng phát triển, tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ trong GDP luôn cao hơn mức trung bình toàn quốc, đạt tới 80% GDP khu vực và gấp 1,06 lần so với cả nước Ngược lại, vùng khó khăn chỉ có 12% GDP đến từ công nghiệp và dịch vụ, tương ứng với hệ số 0,16 lần so với toàn quốc.

Bảng6: chênh lệch về cơ cấu kinh tế giữa vùng khó khăn, năm 2003 (tổng GDP = 100%)

Tổng công nghiệp và dịch vụ

Riêng công nghiệp Riêng dịch vụ

Tỷ trọng so với GDP (%)

Tỷ trọng so với GDP (%)

Tỷ trọng so với GDP (%)

So với cả nước (lần)

Chênh lệch giữa phát triển và vùng khó khăn (lần)

Theo Tổng cục Thống kê, các vùng khó khăn và chậm phát triển vẫn chưa có sự chuyển dịch rõ rệt trong cơ cấu kinh tế, chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp Mặc dù vậy, trình độ phát triển vẫn còn thấp, chưa tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn và hiệu quả sử dụng đất chưa cao Thu nhập trên 1 hécta gieo trồng còn thấp so với mức trung bình cả nước, cùng với kết cấu hạ tầng nghèo nàn, không đồng bộ và kém phát triển.

- Tăng trưởng kinh tế và chênh lệch vùng.

Trình độ phát triển của các vùng được đánh giá qua hai chỉ tiêu chính là GDP bình quân đầu người và chỉ số phát triển con người (HDI) Những chỉ số này phản ánh mức độ phát triển kinh tế và chất lượng cuộc sống của người dân trong từng khu vực.

Chênh lệch GDP bình quân đầu người giữa các vùng ở Việt Nam rất lớn, với Nam Bộ cao gấp 6,6 lần so với Tây Bắc Tuy nhiên, chỉ số HDI giữa các vùng lại có sự chênh lệch thấp hơn, chủ yếu do tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ đi học và tuổi thọ của dân số ở các vùng tương đối đồng đều.

Bảng7: Chênh lệch và thứ hạng các vùng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội

GDP bình quân đầu người (2002)

Xếp hạng các vùng kinh tế Thu nhập bình quân/người

GDP bình quân/người Về HDI

Cả nước 6.269 0,696 = - - Đồng bằng sông hồng

Tây Nguyên 2.818 0,604 6 7 7 Đông Nam Bộ 16.596 0,751 1 1 1 Đồng bằng sông Cửu

Dữ liệu thống kê cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa mức thu nhập bình quân đầu người, GDP bình quân đầu người và chỉ số HDI ở các vùng Các vùng có GDP bình quân đầu người và chỉ số HDI cao thường có thu nhập bình quân đầu người cao, và ngược lại So với toàn quốc, chỉ vùng Đông Nam Bộ đạt cả ba chỉ tiêu này ở mức cao hơn, tiếp theo là vùng Đồng bằng sông Hồng, trong khi các vùng còn lại đều thấp hơn mức trung bình của cả nước.

Trong các vùng của Việt Nam, chỉ có Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ đạt tỷ lệ huy động ngân sách cao hơn mức trung bình toàn quốc Ngược lại, các vùng khác đều có tỷ lệ huy động ngân sách thấp hơn, với Tây Bắc chỉ đạt 1/4 và Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1/3 so với mức trung bình.

Bảng 8 trình bày sự chênh lệch giữa các vùng và mức trung bình toàn quốc về tăng trưởng GDP, GDP bình quân đầu người, tỷ lệ vốn đầu tư và tỷ lệ tổng thu ngân sách so với GDP Những số liệu này giúp đánh giá sự phát triển kinh tế của từng vùng so với cả nước, từ đó đưa ra các chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Các vùng Tốc độ tăng GDP GDP/người

% tổng vốn đầu tư trên GDP

% vốn đầu tư trong nước trên GDP

% thu ngân sách trên GDP

Toàn quốc 1,00 1,00 1,00 1,00 1,00 Đồng bằng sông Hồng 0,88 0,99 1,33 1,12 1,3 Đông Bắc 0,88 0,75 0,73 0,89 0,62

Tây Nguyên 1,50 0,40 1,28 1,83 0,40 Đông Nam Bộ 1,25 1,75 1,11 1,0 1.65 Đồng bằng sông Cửu

Nguồn: UBDP - Viện Khoa học x ã hội Việt Nam: Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2002.

Năm 2003, GDP/người của cả nước đạt 7,5 triệu đồng, trong đó vùng phát triển có GDP/người là 11,1 triệu đồng, gấp 1,52 lần mức trung bình cả nước và 1,6 lần vùng khó khăn Đông Nam Bộ, một trong những vùng phát triển lớn, có GDP/người lên tới 17,8 triệu đồng, gấp 2,7 lần mức trung bình Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đạt GDP/người 20,3 triệu đồng, tương đương 3 lần mức trung bình cả nước, trong khi vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đạt 9,4 triệu đồng, gấp 1,4 lần Ngược lại, các vùng còn khó khăn chỉ đạt GDP/người khoảng 4-5 triệu đồng, tương đương 0,53 lần mức trung bình cả nước.

2.1.2 Chênh lệch giữa các vùng về thu nhập và chi tiêu

Giữa vùng phát triển và vùng khó khăn có sự chênh lệch về mức sống dân cư.

Mức chênh lệch thu nhập giữa các nhóm cao nhất và thấp nhất ở Việt Nam không quá lớn, với các con số cụ thể như sau: Đồng bằng sông Hồng là 6,73 lần, Đông Bắc 6,01 lần, Tây Bắc 5,86 lần, Bắc Trung Bộ 5,82 lần, Duyên hải Nam Trung Bộ 5,83 lần, Tây Nguyên 6,75 lần, Đông Nam Bộ 8,73 lần và Đồng bằng sông Cửu Long 7,14 lần.

Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng tại 7 khu vực (Đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long) đều tăng so với năm 1999, ngoại trừ Tây Nguyên, nơi ghi nhận giảm 30,4% do giá cà phê và một số nông sản giảm mạnh, cùng với ảnh hưởng lớn từ hạn hán và lũ lụt Dữ liệu thống kê từ năm 1994 đến 2002 cho thấy Đông Nam Bộ có thu nhập bình quân đầu người cao nhất, gấp 2,5 lần so với Tây Bắc, khu vực có thu nhập bình quân thấp nhất.

Chi tiêu bình quân đầu người 1 năm cho giáo dục cao nhất ở miền Đông Nam

Bộ (1,139 triệu đồng) và thấp nhất là vùng Tây Bắc (278 nghìn đồng).

Trong bối cảnh thu nhập của người dân trên toàn quốc đang tăng lên, đã xuất hiện rõ rệt những nhóm vùng khác nhau với các mức thu nhập không đồng đều Có thể phân chia các vùng thành ba nhóm chính dựa trên mức thu nhập của cư dân.

- Vùng có mức thu nhập cao hơn so với mức trung bìn của cả nước là Đông Nam Bộ.

- Vùng có mức thu nhập tương đương mức trung bình của cả nước là vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.

- Vùng có mức thu nhập thấ hơn mức trung bình của cả nước là Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Có sự khác biệt rõ rệt giữa GDP bình quân đầu người và thu nhập bình quân đầu người ở từng vùng Cụ thể, ở những vùng có GDP bình quân đầu người và thu nhập bình quân đầu người thấp, thu nhập thường vượt trội hơn so với GDP bình quân đầu người, trong khi ở các vùng khác, tình hình lại diễn ra ngược lại.

2.1.3 Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ nghèo

Theo điều tra mức sống của Tổng cục Thống kê năm 2004, chênh lệch tỷ lệ nghèo giữa các vùng ở Việt Nam vẫn rất lớn Cụ thể, vùng Tây Bắc có tỷ lệ nghèo cao nhất, gấp 12,1 lần so với Đông Nam Bộ về nghèo lương thực - thực phẩm và 10,85 lần về tỷ lệ nghèo chung.

Tỷ lệ nghèo cao ở các vùng miền núi trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên và Trung Bộ là nguyên nhân chính cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế của các khu vực khác Nhóm lao động nghèo tại đây thường có trình độ học vấn và chuyên môn thấp, sở hữu tài sản ít ỏi và năng suất lao động kém, điều này được thể hiện qua mức chi tiêu thấp hơn.

Bảng9: Tỷ lệ nghèo các vùng Đơn vị: %

Tỷ lệ nghèo lương thực

- thực phẩm Tỷ lệ nghèo chung

Toàn quốc 9,9 6,9 28,9 19,5 Đồng bằng sông Hồng 6,5 4,6 22,4 12,1 Đông Bắc 14,1 9,4 38,4 29,4

Duyên hải Nam Trung Bộ 10,7 12,3 51,8 33,1

Tây Nguyên 17,0 12,3 51,8 33,1 Đông Nam Bộ 3,2 1,8 10,6 5,4 Đồng bằng sông Cửu Long 7,6 5,2 23,4 19,5

Nguồn: Tổng cục Thống kê 2004, NXB Thống k ê, Hà Nội, 2004

- Chênh lệch về tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.

Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn trên phạm vi sáu vùng

2.2.1 Chênh lệch giữa vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và khu vực ngoài vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

Giai đoạn 2001-2005, các tỉnh Bắc Bộ ghi nhận tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, với hạ tầng và dịch vụ được cải thiện đáng kể Vùng Đồng Bằng Sông Hồng đạt tốc độ tăng trưởng 10,9%, vượt 1,46 lần so với cả nước, trong khi vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tăng trưởng 11,6%, cao hơn 1,06 lần so với Đồng Bằng Sông Hồng và 1,55 lần so với toàn quốc Nam Đồng Bằng Sông Hồng có tốc độ tăng trưởng 8%, tương đương 0,74 lần so với vùng Đồng Bằng Sông Hồng, và vùng trung du miền núi Bắc Bộ đạt 9,0%, bằng 1,2 lần so với mức tăng trưởng chung của cả nước.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Giai đoạn 1996-2003, cơ cấu kinh tế các tỉnh Bắc Bộ đã có sự chuyển biến tích cực, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại sự chênh lệch lớn trong cơ cấu kinh tế giữa các tỉnh.

Trong nông nghiệp, giá trị gia tăng của vùng Bắc Bộ năm 2003 chỉ chiếm 21,6% tổng sản phẩm, giảm 11,4% so với năm 1995 Cụ thể, vùng Đồng Bằng Sông Hồng có tỷ trọng nông nghiệp là 15,6%, trong khi vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ chiếm 15,1% Đáng chú ý, vùng Nam Đông Bằng Sông Hồng và vùng Trung Du miền núi Bắc Bộ lần lượt chiếm 41,3% và 40,2% Trong giai đoạn 1996-2003, mức gia tăng GDP nông nghiệp của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đạt 4303,5 tỷ đồng, tương đương 53,7% tổng GDP nông nghiệp của vùng Bắc Bộ và cao hơn 1,16 lần so với các khu vực ngoài vùng kinh tế trọng điểm.

Trong năm 2003, giá trị gia tăng trong ngành công nghiệp và xây dựng của vùng Bắc Bộ đạt 37,2% tổng sản phẩm, tăng từ 25,9% năm 1995 Vùng Đồng Bằng Sông Hồng ghi nhận tỷ lệ 41,0% (tăng từ 29,2%), trong khi vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đạt 41,2% (tăng từ 29,2%) Vùng Nam Đồng Bằng Sông Hồng và vùng trung du miền núi Bắc Bộ lần lượt có tỷ lệ 24,8% (tăng từ 15,8%) và 25,3% (tăng từ 18,6%) Trong giai đoạn 1996-2003, mức gia tăng GDP công nghiệp - xây dựng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đạt 39.669,3 tỷ đồng, chiếm 78,9% tổng giá trị của vùng Bắc Bộ và gấp 3,74 lần so với các vùng ngoài trọng điểm.

Trong năm 2003, giá trị gia tăng thực tế của dịch vụ tại vùng Bắc Bộ chiếm 41,2% tổng sản phẩm của khu vực này Các vùng khác như Đồng Bằng Sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Nam Đồng Bằng Sông Hồng và Trung du miền núi Bắc Bộ lần lượt có tỷ lệ là 43,4%, 43,7%, 33,9% và 34,5% Đặc biệt, tỷ lệ này đã tăng đáng kể so với năm 1995, khi chỉ đạt 18,6% Mức gia tăng GDP dịch vụ trong giai đoạn 1996-2003 tại vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực dịch vụ trong khu vực.

Bộ là 36710,2 tỷ đồng, chiếm 78,9% so với vùng Bắc Bộ và bằng 3,07 lần so với ngoài vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

- GDP bình quân đầu người.

Trong thời gian gần đây, các tỉnh nghèo ở Bắc Bộ đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm bớt khoảng cách GDP so với các tỉnh giàu có Tuy nhiên, mức chênh lệch GDP/người vẫn còn lớn, với GDP/người của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ năm 2003 đạt 9,1 triệu đồng, gấp 2,73 lần khu vực ngoài kinh tế trọng điểm Dự kiến đến năm 2005, GDP/người của vùng này sẽ đạt khoảng 11,6 triệu đồng, gấp 2,58 lần khu vực ngoài Điều này cho thấy chênh lệch GDP/người giữa các tỉnh trong Bắc Bộ có xu hướng gia tăng.

- Thu nhập và chi tiêu.

Mức chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa các tỉnh Bắc Bộ vẫn còn lớn Cụ thể, năm 1999, thu nhập bình quân của vùng Đồng Bằng Sông Hồng đạt 280,3 nghìn đồng, trong khi vùng Trung du miền núi Bắc Bộ chỉ đạt 210 nghìn đồng Đến năm 2002, thu nhập của vùng Đồng Bằng Sông Hồng tăng lên 353,3 nghìn đồng, trong khi vùng Đông Bắc chỉ đạt 195,9 nghìn đồng và Tây Bắc đạt 269 nghìn đồng Mức chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa Đồng Bằng Sông Hồng và Trung Du miền núi Bắc Bộ lần lượt là 1,28 lần vào năm 1996, 1,33 lần vào năm 1999 và 1,31 lần vào năm 2002.

Công tác xóa đói giảm nghèo tại vùng Bắc Bộ được thực hiện qua nhiều hình thức đa dạng và mang lại hiệu quả rõ rệt Tuy nhiên, mức độ giảm nghèo lại có sự khác biệt giữa các vùng và tỉnh trong khu vực này.

Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng đã giảm từ 7,55% năm 1999 xuống còn 6,8% năm 2002 và 4,56% năm 2005 Trong khi đó, tỷ lệ hộ nghèo tại vùng Trung Du miền núi Bắc Bộ, bao gồm Tây Bắc và Đông Bắc, là 17,07% vào năm 1999, giảm xuống 14,04% ở Đông Bắc và 26,26% ở Tây Bắc vào năm 2002, và đạt 11,8% vào năm 2005 Nhìn chung, các hộ nghèo chủ yếu tập trung ở những tỉnh vùng núi, vùng sâu, vùng xa của Tây Bắc và Đông Bắc, với tỷ lệ hộ nghèo ở đây cao hơn mức trung bình toàn quốc.

2.2.2 Chênh lệch giữa vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ và khu vực ngoài vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ

Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và các khu vực xung quanh có sự chênh lệch về mức tăng trưởng kinh tế Cụ thể, toàn bộ vùng miền Trung đạt tốc độ tăng trưởng 9,4%, trong khi vùng kinh tế trọng điểm miền Trung tăng trưởng 9% Các khu vực cụ thể như vùng Duyên hải miền Trung ghi nhận mức tăng 8,7%, Bắc Trung Bộ là 8,0%, và Duyên hải Nam Trung Bộ là 8,9% Đặc biệt, vùng Tây Nguyên có mức tăng trưởng cao nhất với 12,6% Như vậy, tốc độ tăng trưởng của miền Trung vượt trội hơn so với mức trung bình của cả nước.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Trong giai đoạn 1996-2003, các tỉnh miền Trung đã có sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu kinh tế Tuy nhiên, vẫn tồn tại sự chênh lệch lớn về cơ cấu kinh tế giữa các tỉnh trong khu vực.

Vào năm 2003, giá trị gia tăng trong nông nghiệp của vùng miền Trung đạt 36% tổng sản phẩm khu vực, với vùng Duyên hải miền Trung là 32,6% và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là 26,8%, giảm từ 39,1% vào năm 1995 Trong khi đó, vùng Tây Nguyên có tỷ lệ cao nhất với 53,9%, mặc dù đã giảm từ 63,5% vào năm 1995 Giai đoạn 1996-2003, mức gia tăng GDP nông nghiệp của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đạt 4.894 tỷ đồng, tương đương 0,29 lần so với mức tăng trưởng của khu vực này.

Trong công nghiệp và xây dựng, giá trị gia tăng trong công nghiệp – xây dựng của miền Trung năm 2003 chiếm 27,9% so với tổng sản phẩm của miền Trung (năm

Từ năm 1995 đến nay, tỷ lệ GDP công nghiệp – xây dựng của vùng Duyên hải miền Trung đã tăng từ 19,3% lên 30%, trong khi vùng Tây Nguyên cũng ghi nhận sự tăng trưởng từ 14,1% lên 17,2% Giai đoạn 1996 – 2003, mức gia tăng GDP công nghiệp – xây dựng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đạt 6.790,1 tỷ đồng, chỉ bằng 0,41 lần so với mức tăng trưởng của các khu vực ngoài vùng kinh tế trọng điểm này.

Trong dịch vụ, giá trị gia tăng trong dịch vụ của vùng miền Trung năm 2003 chiếm 36,1% so với tổng sản phẩm Vùng Duyên hải miền Trung là 37,4% (năm

Trong giai đoạn 1996 – 2003, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ghi nhận mức gia tăng GDP dịch vụ đạt 6.506 tỷ đồng, tương đương 0,87 lần so với các khu vực ngoài vùng kinh tế trọng điểm Tỷ lệ GDP dịch vụ của vùng này đã tăng từ 39,7% năm 1995 lên 40,2% trong giai đoạn sau, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế dịch vụ tại đây Đồng thời, vùng Tây Nguyên cũng có sự gia tăng đáng kể, từ 22,4% năm 1995 lên 28,9%.

- GDP bình quân đầu người

Mức chênh lệch GDP/người giữa các tỉnh miền Trung không đáng kể Năm 2003, GDP/người của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đạt 4,9 triệu đồng, cao hơn 1,14 lần so với vùng ngoài kinh tế trọng điểm miền Trung và 1,36 lần so với vùng Tây Nguyên Dự kiến năm 2005, GDP/người của vùng này sẽ tăng lên khoảng 6,6 triệu đồng, gấp 1,18 lần so với vùng ngoài kinh tế trọng điểm miền Trung.

- Thu nhập và chi tiêu

Định hướng và chính sách phát triển vùng

Tiếp tục thực hiện các định hướng phát triển cùng của chiến lược 10 năm 2001-2010 và các nghị quyết của…

Tạo điều kiện cho tất cả các vùng trên cả nước phát triển nhanh chóng và phát huy lợi thế so sánh Hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các vùng và liên vùng, đồng thời tạo sự liên kết chặt chẽ nhằm nâng cao hiệu quả, phát triển ổn định và tăng cường sức cạnh tranh, khắc phục tình trạng chia cắt và khép kín theo địa lý.

Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm tại miền Bắc, miền Trung và miền Nam thành các trung tâm công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ viễn thông và giao thông quốc tế Phát huy thế mạnh của từng vùng để gia tăng đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước, đồng thời hỗ trợ các vùng khó khăn, nâng cao khả năng hội nhập kinh tế quốc tế với quy mô lớn và trình độ cao.

Chính phủ đã triển khai các chính sách trợ giúp nhằm tăng cường nguồn lực phát triển cho các vùng khó khăn, đặc biệt là các khu vực sâu, xa, biên giới, hải đảo và nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống Đồng thời, cần bổ sung các chính sách khuyến khích đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài tại những vùng này.

Việc phát triển kinh tế biển cần được thực hiện một cách toàn diện và có trọng tâm, nhằm tận dụng lợi thế so sánh để đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển, đồng thời bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế Cần hoàn thiện quy hoạch và nâng cao hiệu quả của hệ thống cảng biển, vận tải biển, cũng như khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, và phát triển du lịch biển, đảo Ngoài ra, cần đẩy mạnh ngành công nghiệp đóng tàu và các ngành dịch vụ bổ trợ, đồng thời hình thành các hành lang kinh tế xã hội tại các hải đảo, gắn liền với việc bảo đảm an ninh quốc phòng.

Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung cần tăng cường các biện pháp phòng chống thiên tai hiệu quả, đồng thời xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý Cần chú trọng khai thác cảng biển, phát triển vận tải biển, công nghiệp chế biến xuất khẩu, lọc hóa dầu, sản xuất vật liệu xây dựng, thủy điện, du lịch, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, cũng như trồng cây công nghiệp Hơn nữa, việc phát triển hiệu quả các khu kinh tế và khu công nghiệp ven biển cần gắn liền với các cảng biển, các tuyến đô thị mới và các hành lang đông tây.

Vùng trung du miền núi Bắc Bộ và Tây Nguyên cần tập trung phát triển kinh tế nhanh và bền vững, kết hợp với đảm bảo an ninh quốc phòng Cần đẩy mạnh phát triển thủy điện, công nghiệp khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng, và khai thác hiệu quả quỹ đất trồng cây công nghiệp, cây ăn quả xuất khẩu, cùng với trồng rừng nguyên liệu gắn liền với công nghiệp chế biến hiện đại Ngoài ra, phát triển du lịch sinh thái và văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ thương mại với các nước láng giềng cũng rất quan trọng Việc phát triển cần hài hòa giữa các tiểu vùng, các tầng lớp dân cư và đồng bào các dân tộc.

Vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long cần ưu tiên đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng để tối ưu hóa lợi thế về đất, nước và lao động Điều này sẽ thúc đẩy nhanh chóng giá trị sản phẩm nông nghiệp và thủy sản thông qua công nghệ tiên tiến, nâng cao tỉ suất hàng hóa Đồng thời, việc này cũng góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp chế biến, chế tác và sản xuất hàng tiêu dùng, cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ và tạo ra nhiều việc làm mới.

Tập trung phát triển Hà Nội thành trung tâm kinh tế lớn của miền Bắc và cả nước, trong khi xây dựng TP Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính, ngân hàng, viễn thông, công nghệ cao, thương mại, du lịch và y tế chất lượng cao của miền Nam Đồng thời, tiếp tục đầu tư vào Hải Phòng và Đà Nẵng để phát huy vai trò quan trọng của hai thành phố biển này Thừa hưởng lợi thế cố đô và di sản văn hóa thế giới, TP Huế sẽ được phát triển thành trung tâm du lịch dịch vụ lớn Cuối cùng, cần thúc đẩy TP Cần Thơ trở thành trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long.

Phát triển bền vững các vùng và địa phương

Việt Nam có 64 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, được chia thành 8 vùng địa lý kinh tế Các tỉnh trong cả nước đã thiết lập quy hoạch phát triển dài hạn đến năm 2030, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội bền vững.

Vào năm 2010, quy hoạch lãnh thổ vùng đã được xây dựng, nhưng chưa có sự kết hợp hiệu quả giữa các quy hoạch tỉnh và vùng Vùng không phải là cấp quản lý nhà nước, dẫn đến việc thiếu kế hoạch phát triển, giám sát và đánh giá tác động ở cấp vùng lãnh thổ Trong khi đó, các vấn đề phát triển bền vững thường yêu cầu sự phối hợp giữa nhiều tỉnh và thành phố, do đó cần thiết phải cải thiện sự liên kết trong quy hoạch phát triển.

Chiến lược phát triển vùng cần ưu tiên các vùng kinh tế trọng điểm có tiềm năng bứt phá, đồng thời hỗ trợ các khu vực kém phát triển và khó khăn Mục tiêu là tạo ra sự cân bằng trong phát triển không gian, từng bước thu hẹp khoảng cách xã hội và giảm bớt chênh lệch kinh tế Các vùng kinh tế trọng điểm sẽ đóng vai trò đầu tàu, thúc đẩy sự phát triển cho các vùng miền núi và vùng sâu, vùng xa.

Để đảm bảo quy hoạch và kế hoạch phát triển bền vững, cần thiết phải đổi mới hệ thống quản lý theo hướng hiệu quả hơn.

Tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức về phát triển bền vững cho các cấp chính quyền địa phương là rất quan trọng Chính quyền địa phương đóng vai trò chủ chốt trong việc chỉ đạo và phản ánh sự phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực, do đó là cấp phù hợp nhất để quy hoạch và lập kế hoạch cho sự phát triển bền vững ở địa phương.

Các vùng và khu vực đang tận dụng lợi thế riêng để phát triển kinh tế, gắn với nhu cầu marketing cả trong và ngoài nước Nhà nước tiếp tục hỗ trợ các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời đầu tư vào những khu vực còn khó khăn Quy hoạch phát triển toàn quốc được thống nhất, tạo liên kết trong sản xuất, thương mại và đầu tư, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật và nguồn nhân lực Việc nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân lực là cần thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các vùng.

Thu hút sự tham gia của các tổ chức đoàn thể và cộng đồng vào quá trình lựa chọn và thực hiện các phương án phát triển tại địa phương theo nguyên tắc "dân biết, dân làm" là rất quan trọng Điều này không chỉ đảm bảo tính minh bạch mà còn khuyến khích sự đồng thuận và trách nhiệm của người dân trong các quyết định liên quan đến sự phát triển của khu vực.

Ngày đăng: 25/01/2014, 14:31

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2. Một số chỉ tiêu về dân số, GDP và GDP/người của khu vực đơ thị và nơng thơn - HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM
Bảng 2. Một số chỉ tiêu về dân số, GDP và GDP/người của khu vực đơ thị và nơng thơn (Trang 13)
Bảng3: Thu nhập bình quân đầu người một tháng phân theo thành thị, nơng thơn - HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM
Bảng 3 Thu nhập bình quân đầu người một tháng phân theo thành thị, nơng thơn (Trang 14)
Bảng4: Tỷ lệ hộ nghèo các nghèo Tỷ lệ lương - HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM
Bảng 4 Tỷ lệ hộ nghèo các nghèo Tỷ lệ lương (Trang 16)
Bảng5: Một số chỉ tiêu về chênh lệch - HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM
Bảng 5 Một số chỉ tiêu về chênh lệch (Trang 17)
Bảng6: chênh lệch về cơ cấu kinh tế giữa vùng khĩ khăn, năm 2003 (tổng GDP = 100%) - HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM
Bảng 6 chênh lệch về cơ cấu kinh tế giữa vùng khĩ khăn, năm 2003 (tổng GDP = 100%) (Trang 20)
Bảng7: Chênh lệch và thứ hạng các vùng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội - HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM
Bảng 7 Chênh lệch và thứ hạng các vùng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội (Trang 21)
Bảng8: Chênh lệch giữa các vùng so với mức trung bình của cả nước về tăng trưởng GDP, GDP/người, % vốn đầu tư và % tổng thu ngân sách so với GDP - HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM
Bảng 8 Chênh lệch giữa các vùng so với mức trung bình của cả nước về tăng trưởng GDP, GDP/người, % vốn đầu tư và % tổng thu ngân sách so với GDP (Trang 22)
Bảng9: Tỷ lệ nghèo các vùng - HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM
Bảng 9 Tỷ lệ nghèo các vùng (Trang 24)
Bảng10: Tỷ lệ hộ được dùng điện và chênh lệch về lượng điện tiêu thụ bình quân đầu người giữa các vùng năm 2001 - HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG ở VIỆT NAM
Bảng 10 Tỷ lệ hộ được dùng điện và chênh lệch về lượng điện tiêu thụ bình quân đầu người giữa các vùng năm 2001 (Trang 25)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w