Trong bất kì chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của công dân. Mỗi nhà nước dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong hiến pháp. Thừa kế tài sản là một chế định pháp luật quan trọng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015, thể hiện sự bảo hộ của Nhà nước đối với quyền sở hữu tài sản riêng của cá nhân. Di sản thừa kế của công dân được để lại rất phong phú về chủng loại, đa dạng về tính năng sử dụng, bao gồm: động sản, bất động sản. Tài sản có thể tồn tại lâu hơn cuộc sống của con người, chính vì thế giải quyết vấn đề tài sản này ra sao khi người có tài sản đó qua đời là vấn đề rất quan trọng để đảm bảo cho việc định đoạt tài sản đó để phù hợp với ý chí của người để lại di sản và cũng đảm bảo lợi ích hợp pháp khác của những người có quyền và nghĩa vụ liên quan khác cũng như lợi ích chung của toàn xã hội. Di chúc là sự bày tỏ ý chí của người để lại di sản nhằm định đoạt toàn bộ hoặc một phần tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của mình cho một hoặc nhiều người sau khi người đó chết. Tuy nhiên, về thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời sống kinh tế xã hội của đất nước, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn chưa trù liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trong thực tế. Còn một số quy định pháp luật về thừa chung chung, chưa chi tiết, chưa rõ ràng, lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Hơn nữa, khi đời sống vật chất của con người càng cao, người ta càng nghĩ tới việc định đoạt tài sản như thế nào trước khi chết thông qua việc lập di chúc. Vì vậy nên còn nhiều quan điểm trái ngược nhau, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều đó đã dẫn đến những tranh chấp xảy ra xoay quanh vấn đề thừa kế theo di chúc không ít trong xã hội hiện nay. Những khó khăn thường được thể hiện trong việc xác định phải có những điều kiện gì thì di chúc mới được coi là hợp pháp, điều kiện của người lập di chúc, ý chí của người lập di chúc, nội dung của di chúc và hình thức của di chúc. Trong thực tiễn thì các quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc, hiệu lực của di chúc hay cách phân chia 23 suất của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc,… còn có những cách hiểu khác nhau, dẫn tới việc nhận định và quyết định không giống nhau của một số bản án giải quyết cùng một vụ án tranh chấp về thừa kế theo di chúc. Việc định đoạt tài sản của người lập di chúc không đúng vi phạm luật định có thể làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của một số người khác dẫn đến những tranh chấp như đã và đang xảy ra trong thực tế là một trong những nguyên nhân làm tổn hại đến truyền thống đạo đức đã có từ lâu đời của dân tộc. Từ năm 2012 tới năm 2018, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa thụ lý giải quyết và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa kiểm sát giải quyết 147 vụ án về tranh chấp di sản thừa kế, riêng năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa kiểm sát giải quyết 21 vụ án sơ thẩm về thừa kế, có 3 vụ án phúc thẩm về thừa kế, Nhưng pháp luật về thừa kế và những quy định về pháp luật khác liên quan đến thừa kế chưa thực sự đồng bộ và thống nhất, vì thế nhiều vụ tranh chấp thừa kế đã phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao
Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu này là làm rõ nội dung và thực tiễn quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc, thông qua việc phân tích các quy định của Pháp luật Dân sự hiện hành liên quan đến di chúc, hình thức di chúc và các điều kiện có hiệu lực của di chúc Nghiên cứu cũng đánh giá thực trạng các tranh chấp dân sự liên quan đến thừa kế theo di chúc, từ đó chỉ ra những bất cập và thiếu sót trong luật định, nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc tại Việt Nam.
- Các vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế
- Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật thừa kế theo di chúc
- Đánh giá thực trạng các tranh chấp Dân sự về tài sản thừa kế liên quan đến thừa kế theo di chúc
- Nghiên cứu tham khảo tài liệu đã công bố liên quan đến đề tài
- Đưa ra những ý kiến để hoàn thiện quy định pháp luật về việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo di chúc.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em sử dụng các phương pháp như:
Phương pháp thu thập và phân tích tài liệu được thực hiện thông qua việc nghiên cứu các nguồn tư liệu có sẵn, nhằm đánh giá thực trạng giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
Bài viết này nghiên cứu, phân tích và tổng hợp hệ thống văn bản pháp luật về thừa kế theo di chúc tại Việt Nam từ năm 1945 đến nay Qua việc so sánh các quy định pháp lý qua các thời kỳ, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về sự phát triển và những thay đổi trong chính sách thừa kế, cũng như tác động của nó đến đời sống xã hội Nghiên cứu này không chỉ giúp làm rõ các quy định hiện hành mà còn cung cấp cái nhìn tổng quan về những xu hướng và thách thức trong lĩnh vực thừa kế theo di chúc tại Việt Nam.
Bố cục chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề có nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Quy định pháp luật về vấn đề thừa kế theo di chúc trong luật dân sự Việt Nam
Chương 2: Tình hình hiện tại trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thừa kế theo di chúc và các giải pháp khắc phục theo quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc.
Chương 3: Nguyên nhân, giải pháp và kiến nghị để khắc phục giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc.
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC TRONG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Khái niệm về vấn đề thừa kế theo di chúc trong pháp luật Việt Nam
Thừa kế là một hiện tượng kinh tế xuất hiện từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, liên quan đến quyền sở hữu tư liệu sản xuất Nó được hiểu là việc chuyển giao tài sản của người đã khuất cho người còn sống, dựa trên truyền thống và phong tục của từng dân tộc Người thừa kế có trách nhiệm duy trì và phát triển giá trị vật chất, tinh thần cũng như các truyền thống mà thế hệ trước để lại Trong xã hội có giai cấp, quan hệ thừa kế được điều chỉnh bởi pháp luật, với mục tiêu đạt được những lợi ích nhất định từ Nhà nước.
Quan hệ thừa kế là một mối quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự, biến nó thành quan hệ pháp luật Pháp luật thừa kế xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong mối quan hệ thừa kế.
Quyền thừa kế là một quyền cơ bản của công dân được pháp luật công nhận, nhưng có sự khác biệt trong quy định giữa các hình thái kinh tế - xã hội và thể chế chính trị khác nhau Quyền thừa kế có bản chất giai cấp, liên quan mật thiết đến quyền sở hữu Trong chế độ tư hữu, giai cấp thống trị để lại di sản không chỉ về kinh tế mà còn về quyền lợi chính trị Ngược lại, trong chế độ công hữu, quyền lợi của giai cấp công nhân trở thành quyền lợi của toàn thể nhân dân, khuyến khích công dân tạo ra của cải cho bản thân, gia đình và xã hội.
Quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu tồn tại song song và phát triển cùng với sự tiến bộ của xã hội loài người Quan hệ sở hữu phản ánh mối quan hệ giữa con người về việc chiếm hữu tài sản vật chất trong quá trình sản xuất và phân phối Sự chiếm hữu này diễn ra giữa cá nhân và tập thể, tạo tiền đề cho quan hệ thừa kế Cả sở hữu và thừa kế đều là những yếu tố khách quan xuất hiện từ khi xã hội hình thành và phát triển đồng hành với nhau.
1.1.2 Khái niệm thừa kế theo di chúc
Di chúc là văn bản thể hiện ý chí của cá nhân về việc chuyển giao tài sản sau khi qua đời Pháp luật Việt Nam quy định hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật Cả hai hình thức này có thể áp dụng đồng thời trong việc phân chia di sản, tùy thuộc vào việc người để lại di sản có lập di chúc hay không, hoặc phần nào của di chúc không có hiệu lực Di chúc thể hiện ý nguyện cuối cùng của người lập, do đó pháp luật bảo vệ ý nguyện này trong việc phân chia tài sản cho những người thừa kế được chỉ định Tuy nhiên, quyền định đoạt của người lập di chúc có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật, và ý nguyện của họ được thể hiện qua các quan hệ dân sự mà pháp luật quy định.
Theo quy định hiện hành, cá nhân có thể thể hiện ý chí chuyển nhượng tài sản của mình sau khi qua đời thông qua di chúc Hành vi pháp lý này cho phép người để lại di sản chuyển quyền sở hữu tài sản cho người thụ hưởng sau khi họ qua đời.
1.1.3 Khái niệm tranh chấp thừa kế theo di chúc
Tranh chấp thừa kế theo di chúc liên quan đến quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ thừa kế, bao gồm các vấn đề như phân chia di sản, người nhận di sản thừa kế, hình thức và hiệu lực của di chúc.
Dấu hiệu của tranh chấp thừa kế theo di chúc:
Tranh chấp thừa kế theo di chúc không chỉ tồn tại trong suy nghĩ mà cần phải được thể hiện qua các hành vi cụ thể Các bên liên quan phải bộc lộ thái độ và hành vi của mình đối với vấn đề tranh chấp Hành động cao nhất trong quá trình này là gửi đơn yêu cầu Tòa án can thiệp để giải quyết tranh chấp.
Tranh chấp thừa kế theo di chúc là một trong những loại tranh chấp phổ biến trong xã hội, xảy ra từ khi hình thành quan hệ thừa kế Những tranh chấp này thường liên quan đến việc giải thích và thực hiện các điều khoản trong di chúc, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan.
Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015 cho thấy sự đa dạng và phong phú trong các loại tranh chấp thừa kế Khi có quan hệ thừa kế, tranh chấp thừa kế sẽ xuất hiện, thường liên quan đến ít nhất hai cá nhân Tranh chấp này phản ánh sự xung đột giữa các quyền và lợi ích của các cá thể trong xã hội.
1.1.4 Đặc điểm của di chúc
Di chúc là một giao dịch dân sự đơn phương, thể hiện quyền cá nhân của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi qua đời Để lập di chúc hợp pháp, người lập phải hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt và không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép Chủ thể có quyền lập di chúc có thể chuyển giao một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho những người mà họ đã xác định trước đó.
Người thành niên có đủ điều kiện về minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa và cưỡng ép có quyền lập di chúc để quyết định về phần tài sản của bản thân.
Người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi có quyền lập di chúc bằng văn bản với sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ Do chưa đủ khả năng và nhận thức về việc lập di chúc, pháp luật yêu cầu sự kiểm soát từ cha mẹ hoặc người giám hộ Người lập di chúc có quyền quyết định tài sản của mình cho bất kỳ ai mà họ muốn, không phụ thuộc vào quan hệ huyết thống Họ có thể để lại một phần hoặc toàn bộ tài sản theo ý chí của mình và có quyền truất quyền hưởng di sản của những người thừa kế theo pháp luật như cha, mẹ, vợ, con mà không cần nêu lý do.
- Di chúc có hiệu lực kể từ ngày người lập di chúc chết: Theo khoản 1 Điều
Theo Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc chỉ có hiệu lực khi có sự kiện mở thừa kế, tức là khi người lập di chúc qua đời Do đó, mặc dù di chúc đã được lập hợp pháp, nhưng trong thời gian người lập di chúc còn sống, di chúc không phát sinh hiệu lực và những người thừa kế theo di chúc chưa có quyền gì đối với tài sản Tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc cho đến khi họ qua đời.
- Di chúc có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ bất cứ lúc nào: Theo khoản 1 Điều 640
Bộ luật Dân sự 2015 có nói rằng “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay
2 Điểm a khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015
Theo Khoản 2 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc có thể bị hủy bỏ bất cứ lúc nào Khi một di chúc mới được lập, di chúc cũ sẽ không còn hiệu lực Di chúc mới cần nêu rõ rằng nó thay thế cho di chúc cũ và phải được thực hiện tại cơ quan có thẩm quyền Đối với di chúc chung của vợ chồng, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hay hủy bỏ phải có sự đồng ý của cả hai Nếu vợ chồng mâu thuẫn trong việc này, ý kiến của mỗi người chỉ có giá trị đối với phần tài sản của mình.
Hình thức của di chúc
Di chúc có thể được lập dưới hai hình thức chính: di chúc bằng văn bản và di chúc bằng miệng Di chúc bằng miệng chỉ được thực hiện trong trường hợp không thể lập di chúc bằng văn bản.
Di chúc bằng văn bản
Di chúc là tài liệu thể hiện ý chí của người lập di chúc, có thể được viết tay, đánh máy hoặc in ấn, và có thể có hoặc không có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Di chúc bằng văn bản bao gồm 4 hình thức: 4
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
- Di chúc bằng văn bản có công chứng
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực
4 Điều 628 Bộ luật Dân sự 2015
Theo Bộ luật dân sự 2015, di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ cần phải lập bằng văn bản Đối với di chúc không có người làm chứng, người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc của mình.
Nếu người lập di chúc không tự viết, họ có thể đánh máy hoặc nhờ người khác soạn thảo, nhưng cần có ít nhất hai người làm chứng Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt các chứng nhân, và những người này phải xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc bằng cách ký vào bản di chúc.
Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực di chúc nếu cần thiết Mặc dù việc công chứng và chứng thực không bắt buộc đối với di chúc bằng văn bản, nhưng nó sẽ đảm bảo tính hợp lệ cao hơn Một số di chúc bằng văn bản cũng có giá trị tương đương với di chúc đã được công chứng hoặc chứng thực.
Di chúc của quân nhân tại ngũ cần có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, trong trường hợp quân nhân không thể thực hiện việc công chứng hoặc chứng thực.
- Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó
- Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó
- Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị
- Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó
Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, hoặc chấp hành hình phạt tù, cũng như những người đang thực hiện biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục hoặc cơ sở chữa bệnh, cần có sự xác nhận của người phụ trách tại các cơ sở này.
Di chúc miệng, hay còn gọi là chúc ngôn, là hình thức thể hiện bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế khi còn sống, nhằm xác định cách thức phân chia tài sản cho người khác sau khi qua đời.
Di chúc miệng chỉ được lập trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản
Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ
5 Khoản 2 Điều 630 Bộ Luật Dân sự 2015
6 https://luatvietan.vn/hinh-thuc-cua-di-chuc.html.
Một số quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo di chúc
1.3.1 Một số quy định của pháp luật đối với di chúc có hiệu lực
Di chúc là một giao dịch dân sự cần đáp ứng các điều kiện hiệu lực theo quy định pháp luật Để di chúc hợp pháp và có hiệu lực, nó phải tuân thủ các yêu cầu của pháp luật về thừa kế Theo Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015, thời điểm mở thừa kế là khi người có tài sản qua đời, do đó, việc phân chia tài sản theo di chúc chỉ diễn ra sau khi người để lại di sản mất.
Theo Bộ luật Dân sự 2015 thì di chúc có hiệu lực khi đảm bảo các yếu tố sau đây:
Chủ thể lập di chúc
Những người sau đây có quyền lập di chúc:
Người đã thành niên có quyền lập di chúc, ngoại trừ trường hợp họ mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh lý khác ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của bản thân.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc
Ý chí của người lập di chúc
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép
- Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật
Di chúc cần phải được lập thành văn bản để đảm bảo tính hợp pháp Trong trường hợp không thể lập di chúc bằng văn bản, di chúc miệng có thể được chấp nhận.
Nội dung của di chúc có hiệu lực
Nội dung di chúc được xác định bởi ý chí của người lập, nhưng phải tuân thủ quy định pháp luật và không vi phạm đạo đức xã hội.
Hình thức của di chúc có hiệu lực
Di chúc có hai hình thức chính: di chúc bằng văn bản và di chúc miệng Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm bảo tính hợp pháp, di chúc cần được lập theo một hình thức cụ thể.
Di chúc bằng văn bản:
7 Điều 627 Bộ luật Dân sự 2015
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết tay và ký vào bản di chúc (Điều 633 Bộ luật Dân sự 2015)
Di chúc bằng văn bản có sự chứng kiến của người khác yêu cầu người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ trước mặt các nhân chứng Những nhân chứng này sẽ xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc và cũng cần ký vào bản di chúc để đảm bảo tính hợp pháp.
- Di chúc bằng văn bản có công chứng (Điều 635 Bộ luật Dân sự 2015)
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực (Điều 635 Bộ luật Dân sự 2015)
Di chúc miệng được thiết lập khi một người có nguy cơ tử vong do bệnh tật hoặc lý do khác và không thể lập di chúc bằng văn bản Nếu sau ba tháng kể từ khi lập di chúc miệng, người lập di chúc vẫn sống, minh mẫn và sáng suốt, di chúc miệng sẽ tự động bị hủy bỏ.
Di chúc miệng được coi là hợp pháp khi người lập di chúc thể hiện ý chí cuối cùng trước ít nhất hai người làm chứng Ngay sau đó, những người làm chứng phải ghi chép lại và ký tên hoặc điểm chỉ Trong vòng 05 ngày làm việc từ khi ý chí cuối cùng được thể hiện, di chúc cần được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Di chúc là phương tiện để cá nhân thể hiện nguyện vọng của mình sau khi qua đời Để đảm bảo di nguyện được thực hiện đúng như mong muốn, người lập di chúc cần chú ý đến các yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo tính hợp pháp của di chúc Chỉ khi di chúc có hiệu lực, nó mới trở thành cơ sở để những người thừa kế thực hiện theo.
1.3.2 Điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp Để di chúc có hiệu lực và đưa vào áp dụng, đảm bảo quyền lợi của người hưởng thừa kế thì di chúc đó phải là di chúc hợp pháp Theo đó, di chúc hợp pháp là di chúc tuân thủ các quy định pháp luật về ý chí, nội dung, hình thức, trình tự thủ tục Cụ thể Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Điều 630 Di chúc hợp pháp
1 Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật
8 Khoản 2 Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015
Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi cần được lập thành văn bản và phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ trong việc lập di chúc.
Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ cần được lập thành văn bản bởi người làm chứng và phải được công chứng hoặc chứng thực để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực.
Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015.
Di chúc miệng được coi là hợp pháp khi người lập di chúc thể hiện ý chí cuối cùng trước ít nhất hai người làm chứng, và những người này ghi chép lại, ký tên hoặc điểm chỉ ngay sau đó Trong vòng 05 ngày làm việc kể từ khi di chúc miệng được thể hiện, di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng (Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015) Để di chúc trở nên hợp pháp, nội dung của di chúc cần tuân thủ quy định tại Điều 631 BLDS, bao gồm các nội dung chủ yếu cần thiết.
- Ngày, tháng, năm lập di chúc
- Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc
- Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản
- Di sản để lại và nơi có di sản
Di chúc không chỉ bao gồm những nội dung chính mà còn có thể chứa đựng các căn dặn từ người để lại di sản đối với con cháu, cũng như việc chỉ định nghĩa vụ cho những người thừa kế.
Tiến trình phát triển quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết các tranh chấp thừa kế theo di chúc từ 1945 đến nay
chấp thừa kế theo di chúc từ 1945 đến nay
Pháp luật thành văn Việt Nam ra đời muộn hơn so với nhiều quốc gia khác, dẫn đến việc tư liệu pháp luật trước năm 1945 rất hạn chế Chế định thừa kế tại Việt Nam đã được điều chỉnh từ thời phong kiến thông qua các bộ luật, chiếu, chỉ dụ và lệnh của vua, nổi bật là Bộ luật Hồng Đức (1483) và Bộ luật Gia Long (1815).
Các bộ luật này quy định chi tiết và đầy đủ các mối quan hệ trong xã hội, bao gồm nhiều quy định hoàn chỉnh về thừa kế theo di chúc.
Bộ luật Hồng Đức quy định rằng con cái, bao gồm con trai, con gái và con nuôi, đều có quyền thừa kế di sản từ cha mẹ Đồng thời, mọi người có quyền để lại hương hỏa cho con cháu Luật cũng nêu rõ rằng cha mẹ cần lập chúc thư để chuẩn bị cho tuổi già Người cha, với vai trò trưởng họ, sẽ sử dụng đất đai để tạo phần hương hỏa, và khi con cái trở thành trưởng họ, họ sẽ tiếp nhận và chia phần hương hỏa của cha Nếu số lượng con cháu nhiều hơn diện tích ruộng đất, việc chia sẻ phần hương hỏa và di sản sẽ được thực hiện theo sự đồng thuận, miễn là không xảy ra tranh chấp.
Bộ luật Gia Long không công nhận quyền thừa kế của con gái, mà tập trung vào quyền lợi của con trai Theo quy định, "Nếu có mệnh lệnh của cha mẹ, phải theo đúng Vi phạm điều này sẽ mất phần của mình."
Bộ luật Hồng Đức, mặc dù ra đời trước Bộ luật Gia Long, lại thể hiện sự tiến bộ vượt trội với nguyên tắc bình đẳng trong thừa kế, không phân biệt giới tính hay con cái Đây là một quy phạm pháp luật quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân và giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc trong thời kỳ này Cả Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều là những tài liệu quý giá cho các nhà làm luật và nhà khoa học pháp lý hiện nay trong việc kế thừa và phát triển Trong thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam tiếp tục áp dụng các bộ luật như Dân luật Nam kỳ.
(1883), Dân luật Bắc kỳ (1931), Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật (1933) Trong các bộ luật này đều có quy định về thừa kế theo di chúc
1.4.1 Tiến trình phát triển quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc từ năm 1945 đến năm 1990
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập, nhằm đảm bảo sự phát triển bình thường của các quan hệ xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự Để ổn định tình hình chính trị - xã hội, Nhà nước cần ban hành một hệ thống pháp luật chặt chẽ, giúp thắt chặt mối quan hệ trong nhân dân và giải quyết các tranh chấp dân sự.
11 Điều 390 Bộ luật Hồng Đức
12 Điều 388 Bộ luật Gia Long
Vào ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 97/SL nhằm sửa đổi một số quy định trong luật dân sự, thiết lập các nguyên tắc mới phù hợp với nền dân chủ Việt Nam Đặc biệt trong lĩnh vực thừa kế, Sắc lệnh quy định tại Điều 10 rằng con cháu hoặc vợ chồng của người chết không bắt buộc phải nhận di sản, và khi nhận thừa kế, các chủ nợ không được yêu cầu trả nợ vượt quá giá trị di sản để lại Điều 11 của Sắc lệnh tiếp tục làm rõ các quy định liên quan đến quyền thừa kế.
Sắc lệnh 97 đã đưa ra những quy định mới về quyền thừa kế, cho phép người chồng hoặc vợ goá, cùng với các con đã thành niên, có quyền xin chia phần tài sản của người đã khuất sau khi thanh toán tài sản chung Sắc lệnh này công nhận quyền thừa kế của vợ chồng, con trai, con gái và con nuôi đối với tài sản của cha mẹ, đồng thời quy định quyền từ chối thừa kế và nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi di sản Mặc dù chưa hoàn thiện, Sắc lệnh 97 đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn và hỗ trợ tòa án giải quyết các tranh chấp thừa kế hiệu quả hơn.
Năm 1959, một mốc quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của Hiến pháp 1959, trong đó quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Đặc biệt, Hiến pháp đã công nhận vấn đề thừa kế như một nguyên tắc pháp lý quan trọng.
Nhà nước bảo vệ quyền thừa kế tài sản của công dân theo pháp luật Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định rằng tất cả các con, bao gồm con trai, con gái, con ngoài giá thú, con đẻ và con nuôi, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình và trong việc hưởng thừa kế.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã mở rộng quyền thừa kế cho tất cả các chủ thể, bao gồm con trai, con gái, con đẻ, con nuôi và con riêng của vợ hoặc chồng, dẫn đến gia tăng tranh chấp giữa các bên Để nâng cao hiệu quả xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều Thông tư hướng dẫn, như Thông tư số 549/NCPL ngày 27/8/1968 và Thông tư số 02/TATC ngày 02/8/1973, nhằm giải quyết các tranh chấp về thừa kế Cả Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 đều công nhận quyền thừa kế là quyền cơ bản của công dân, với Hiến pháp 1980 khẳng định rằng "Pháp luật bảo hộ" quyền này.
Thông tư 81 ngày 24/7/1981 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế, nhằm phục vụ công tác xét xử và bổ sung các điểm phù hợp với Hiến pháp mới Thông tư quy định rõ các nguyên tắc chung, trong đó khẳng định pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân, quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong việc để lại và nhận di sản thừa kế Nó cũng tôn trọng quyền định đoạt của người để lại di sản thông qua di chúc và quy định rằng việc thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa kế Người thừa kế có quyền lựa chọn nhận hoặc không nhận di sản, và trong quá trình giải quyết, cần kiên trì hòa giải để củng cố tình đoàn kết trong gia đình Về di sản thừa kế, Thông tư 81 chỉ rõ các tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản, bao gồm đất đai, nhà ở, tư liệu sản xuất, và các tài sản giá trị như vàng, bạc, bạch kim và kim cương.
Thông tư 81 quy định rõ về hình thức di chúc và quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc, đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế, bảo vệ quyền thừa kế của công dân trong hơn 9 năm qua Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng đã quy định quyền thừa kế của vợ, chồng (Điều 14, Điều 16, Điều 17 ), thể hiện sự đổi mới trong pháp luật thừa kế Mặc dù các quy định về thừa kế đã cơ bản giải quyết được tranh chấp và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, nhưng sự phát triển xã hội và các quan hệ mới đã khiến những quy định này không còn phù hợp, đòi hỏi các nhà làm luật phải điều chỉnh và bổ sung các quy định mới.
1.4.2 Tiến trình phát triển quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc từ năm 1990 đến năm 1996
Với sự gia tăng đa dạng và phổ biến của các vụ tranh chấp thừa kế theo di chúc, các nhà làm luật đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm giải quyết hiệu quả những tranh chấp này, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội càng làm nổi bật tầm quan trọng của việc xây dựng khung pháp lý chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan.
Điều 27 của Hiến pháp năm 1980 yêu cầu các nhà làm luật và các chuyên gia pháp lý cần phải xây dựng và ban hành những văn bản luật mới Những văn bản này sẽ thay thế các quy định cũ đã trở nên lỗi thời và không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn của xã hội mới.