1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đăng ký thế chấp tài sản lý luận và thực tiễn

73 23 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 1,69 MB

Cấu trúc

  • PHẦN MỞ ĐẦU

    • 1. Lý do chọn đề tài

    • 2. Tình hình nghiên cứu

    • 3. Mục đích nghiên cứu

    • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

    • 7. Bố cục đề tài

  • CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ THẾ CHẤP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

    • 1.1. Khái niệm thế chấp tài sản

    • 1.2. Tài sản thế chấp

      • 1.2.1. Tài sản thế chấp là bất động sản và động sản.

      • 1.2.2. Tài sản thế chấp là quyền tài sản

      • 1.2.3. Tài sản thế chấp là tài sản gắn liền với đất

      • 1.2.4. Tài sản thế chấp là tài sản hình thành trong tương lai

      • 1.2.5. Tài sản thế chấp là tài sản được bảo hiểm

    • 1.3. Xử lý tài sản thế chấp

      • 1.3.1. Căn cứ xử lý tài sản thế chấp

      • 1.3.2. Chủ thể có quyền xử lý tài sản thế chấp.

      • 1.3.3. Phương thức xử lý tài sản thế chấp.

      • 1.3.4. Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản thế chấp

    • 1.4. Phân biệt thế chấp tài sản với một số biện pháp bảo đảm khác

    • 1.5. Hình thức và hiệu lực thế chấp tài sản

      • 1.5.1. Hình thức thế chấp tài sản

      • 1.5.2. Hiệu lực thế chấp

    • 1.6. Đăng ký thế chấp tài sản

      • 1.6.1. Các trường hợp đăng ký thế chấp

      • 1.6.2. Nguyên tắc đăng ký thế chấp

      • 1.6.3. Giá trị pháp lý khi đăng ký thế chấp tài sản.

      • 1.6.4. Chủ thể tham gia trong quan hệ đăng ký thế chấp tài sản

      • 1.6.5. Quyền, nghĩa vụ, nhiệm vụ và trách nhiệm của các bên trong quan hệ đăng ký thế chấp tài sản

    • 1.7. Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật về thế chấp tài sản

      • 1.7.1. Thời kỳ từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước ngày BLDS năm 1995 được thông qua

      • 1.7.2. Thời kỳ từ năm 1995 đến khi Bộ luật dân sự năm 2015 được ban hành

    • TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

  • CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

    • 2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký thế chấp tài sản

      • 2.1.1. Về chủ thể thế chấp tài sản

      • 2.1.2. Về hiệu lực của hợp đồng thế chấp

      • 2.1.3. Về các trường hợp đăng ký thế chấp tài sản

      • 2.1.4. Về giá trị pháp lý của việc đăng ký thế chấp tài sản

      • 2.1.5. Về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền thực hiện đăng ký thế chấp khi có sai sót

    • TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Có thể nói, vấn đề mà người có quyền trong các giao dịch dân sự quan tâm nhất chính là khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của người có nghĩa vụ. Do đó, các quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ra đời trước hết là nhằm hướng đến mục tiêu bảo vệ bên có quyền trong các giao dịch dân sự. Ngoài ra, trong lĩnh vực cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng, vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự còn có sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ tới quyết định cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng. Điều này chứng tỏ, giao dịch bảo đảm ngoài vai trò bảo vệ bên có quyền còn giữ một vai trò quan trọng khác đối với đời sống kinh tế – xã hội của các quốc gia. Ngoài ra trong việc tìm nguồn vốn thì vay là hoạt động được hướng đến nhiều nhất. Tuy đáp ứng được lợi ích cho các chủ thể, nhưng hoạt động này lại chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Rủi ro lớn nhất là các chủ thể có nghĩa vụ không thực hiện chi trả được khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ hay nói cách khác là mất khả năng thanh toán. Vì vậy trên cơ sở pháp luật dân sự quy định về các biện pháp bảo đảm, thì các chủ thể trong giao dịch bảo đảm thường áp dụng hình thức cho vay có tài sản bảo đảm đặc biệt là biện pháp thế chấp tài sản được sử dụng nhiều nhất. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quyết giao kết hợp đồng thế chấp hay không là thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bởi lẽ, việc nắm bắt các thông tin này sẽ giúp ích rất nhiều cho quá trình phân tích, đánh giá mức độ rủi ro của các giao dịch bảo đảm mà bên nhận thế chấp dự định thiết lập, làm cơ sở cho việc đưa ra các quyết định tài trợ vốn đúng đắn. Điều này minh chứng rằng, tiếp cận và sử dụng thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản là nhu cầu mang tính tất yếu của các nhà đầu tư trong môi trường kinh doanh của nền tài chính hiện đại. Ngoài ra, trong thực tiễn hiện nay đã có rất nhiều hợp đồng thế chấp bị vô hiệu, nhiều khoản vay có tài sản bảo đảm biến thành khoản vay không có tài sản bảo đảm. Hơn nữa, hiện nay pháp luật Dân sự cho phép một tài sản dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ. Điều này sẽ làm phát sinh một vấn đề đó là khi xảy ra tranh chấp thì bên nào sẽ được ưu tiên thanh toán ? Giải pháp cho trường hợp này đã được pháp luật quy định cụ thể đó là đăng ký thế chấp tài sản.Hiển nhiên, việc đăng ký chỉ thực sự mang lại ý nghĩa và có tác dụng tích cực đối với các chủ thể giao kết hợp đồng thế chấp khi pháp luật thiết lập một khuôn khổ, trật tự hay nói theo một cách khác là cơ chế xác định thứ tự ưu tiên khi xử lý tài sản bảo đảm, phạm vi thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được công khai hoá, phục vụ trực tiếp cho việc đánh giá mức độ rủi ro của các quyết định tài trợ và là điều kiện để phát sinh hiệu lực của hợp đồng thế chấp có hiệu lực.

Tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu các quy định pháp luật về đăng ký thế chấp tài sản hiện nay đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu, nhưng nội dung này chỉ chiếm một phần nhỏ Sự thay đổi trong các quy định pháp luật về thế chấp và đăng ký thế chấp đã dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau, gây tranh cãi và thiếu thống nhất Vì vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến đăng ký thế chấp tài sản là rất cần thiết, nhằm đưa ra những đề xuất cụ thể để hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng.

Mục đích nghiên cứu

Tác giả nghiên cứu quy định pháp luật về thế chấp tài sản và thực tiễn áp dụng nhằm chỉ ra những hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật này Bài viết sẽ đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về thế chấp tài sản, từ đó đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy cho giảng viên và sinh viên chuyên ngành luật Ngoài ra, nó cũng là nguồn tham khảo hữu ích cho Tòa án và các cơ quan liên quan trong việc giải quyết các vụ việc thực tiễn liên quan đến thế chấp tài sản.

Bố cục đề tài

Đề tài bao gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, với hai chương chính Chương 1 trình bày lý luận về đăng ký thế chấp tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Chương 2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký thế chấp tài sản và một số kiến nghị

LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ THẾ CHẤP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Khái niệm thế chấp tài sản

Thế chấp tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, 2005 và 2015 Theo Bộ luật dân sự năm 2015, có chín biện pháp bảo đảm, trong đó thế chấp tài sản được định nghĩa tại khoản 1 Điều 317 là việc bên thế chấp sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm nghĩa vụ mà không giao tài sản cho bên nhận thế chấp Điều này cho thấy thế chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, trong đó bên thế chấp có thể dùng tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ cho cả bản thân hoặc cho bên thứ ba, tạo thành mối quan hệ thế chấp ba bên.

Trong một giao dịch thế chấp, A sở hữu một căn nhà có giấy chứng nhận và dùng căn nhà này để thế chấp cho Ngân hàng C, nhằm đảm bảo cho B vay tiền tại ngân hàng này Trong mối quan hệ thế chấp này, A là bên thế chấp (bên đảm bảo), B là bên có nghĩa vụ và Ngân hàng C là bên nhận thế chấp, tức là bên có quyền.

So với Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, quy định bên thế chấp chỉ có thể là bên có nghĩa vụ, BLDS năm 2005 và 2015 đã mở rộng phạm vi bên thế chấp, cho phép bên thế chấp có thể là bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba sử dụng tài sản của mình để đảm bảo nghĩa vụ Một điểm quan trọng là tài sản thế chấp sẽ không được chuyển giao cho bên nhận thế chấp Việc này là hợp lý, vì pháp luật không giới hạn về tài sản thế chấp, và có thể xuất hiện những tài sản khó di chuyển hoặc mà bên nhận thế chấp không đủ khả năng bảo quản, như dây chuyền sản xuất hay thực phẩm đông lạnh Nếu tài sản được chuyển giao cho bên nhận thế chấp quản lý, họ sẽ không có quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản đó.

Điều 292 BLDS năm 2015 quy định rằng bên thế chấp không thể sử dụng tài sản bảo đảm trong thời gian thực hiện nghĩa vụ, dẫn đến việc bên nhận thế chấp phải chịu chi phí quản lý và bảo trì tài sản Tuy nhiên, thế chấp vẫn là một biện pháp bảo đảm hiệu quả, cho phép bên có nghĩa vụ giữ lại tài sản mà không cần chuyển giao, đồng thời vẫn có thể khai thác giá trị của tài sản bảo đảm Do đó, thế chấp được ưa chuộng trong các giao dịch dân sự.

Từ những phân tích trên thế chấp tài sản có những đặc điểm sau:

Thế chấp là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ, bao gồm hai loại nghĩa vụ: nghĩa vụ chính và nghĩa vụ thế chấp Hai quan hệ này có thể xuất hiện trong cùng một hợp đồng hoặc trong hai hợp đồng khác nhau, trong đó hợp đồng thế chấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng chính Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể loại hợp đồng nào có thể áp dụng thế chấp, nhưng trong thực tiễn, nó chủ yếu được sử dụng cho các hợp đồng vay, bao gồm cả hợp đồng tín dụng.

Thế chấp tài sản là một nghĩa vụ phụ, phát sinh từ hợp đồng chính nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ chính trong trường hợp không được thực hiện như đã thỏa thuận Hợp đồng thế chấp không phải là mục đích ban đầu của các bên, mà là biện pháp dự phòng để hạn chế rủi ro cho bên nhận thế chấp Chẳng hạn, khi ký hợp đồng vay, bên vay có nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi suất, và để bảo đảm cho nghĩa vụ này, các bên thường ký kết hợp đồng thế chấp hoặc đưa vào hợp đồng vay các điều khoản về biện pháp bảo đảm.

Một đặc điểm nổi bật của biện pháp thế chấp tài sản là bên thế chấp không cần chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp, mà vẫn có quyền nắm giữ, quản lý và sử dụng tài sản đó Trong trường hợp bên nhận thế chấp lo ngại về khả năng định đoạt tài sản trong thời gian thế chấp, hai bên có thể thỏa thuận giao tài sản cho bên thứ ba giữ Để đảm bảo tính chất của biện pháp thế chấp, bên thế chấp cần chuyển giao cho bên nhận thế chấp các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản.

2 Lê Thị Thu Hiền,“Một số vấn đề pháp lý về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các

Trong nghiên cứu khoa học cấp trường tại Đại học Đà Lạt về "Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng", một điểm quan trọng là trạng pháp lý của tài sản thế chấp, bao gồm giấy chứng nhận quyền sử dụng và giấy chứng nhận quyền sở hữu Đặc biệt, đối với tài sản thế chấp là tàu bay, tàu biển hoặc phương tiện giao thông, bên thế chấp sẽ giữ bản chính các giấy tờ liên quan như Giấy chứng nhận quyền sở hữu tàu bay, Giấy chứng nhận đăng ký tàu biển Việt Nam và Giấy đăng ký phương tiện giao thông trong suốt thời gian hợp đồng thế chấp có hiệu lực.

Tài sản thế chấp có thể bao gồm bất động sản, động sản, và các vật phụ gắn liền với chúng Ngoài ra, tài sản gắn liền với đất cũng có thể được thế chấp, đặc biệt trong trường hợp quyền sử dụng đất thuộc sở hữu của người thế chấp.

Vào thứ năm, nhiều loại giao dịch thế chấp yêu cầu phải đăng ký biện pháp bảo đảm, và đây là hình thức bảo đảm phổ biến nhất trong thực tế, bao gồm cả tự nguyện và bắt buộc Hơn nữa, việc thực hiện đăng ký là điều kiện cần thiết để giao dịch thế chấp có hiệu lực.

Theo Nghị định số 102/2017/NĐ-CP, các giao dịch như thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp tài sản gắn liền với đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thế chấp tàu bay và tàu biển đều phải đăng ký Việc này nhằm đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong giao dịch, do không có sự chuyển giao tài sản Do đó, để giao dịch thế chấp có hiệu lực, cần phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Thế chấp tài sản là biện pháp bảo đảm đối vật, trong đó quyền của bên nhận thế chấp mang tính đối nhân Bên có nghĩa vụ sẽ thế chấp tài sản cụ thể như quyền sử dụng đất hoặc nhà xưởng Tài sản thế chấp không được giao trực tiếp cho bên nhận thế chấp, mà chỉ giao giấy tờ liên quan Dựa trên các giấy tờ này, bên thế chấp sẽ thực hiện quyền truy đòi tài sản nếu bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

Tài sản thế chấp

Tài sản đóng vai trò quan trọng trong pháp luật Dân sự Việt Nam, với việc phân loại tài sản giúp xây dựng các quy định pháp lý điều chỉnh giao dịch giữa các chủ thể Theo quy định của pháp luật dân sự, một trong những cách phân loại cơ bản là chia tài sản thành nhiều loại khác nhau.

Theo Khoản 9 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 định nghĩa tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, trong đó có bất động sản và động sản, có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai Tuy nhiên, để tránh bỏ sót các loại tài sản khác và làm rõ đặc tính pháp lý, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể Ngoài ra, theo Khoản 1 Điều 317 Bộ luật Dân sự năm 2015, thế chấp tài sản là việc bên thế chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo nghĩa vụ mà không giao tài sản cho bên nhận thế chấp, cho thấy tất cả các loại tài sản có thể giao dịch đều có thể trở thành đối tượng thế chấp, theo sự tự do lựa chọn của các bên trong quan hệ hợp đồng.

1.2.1 Tài sản thế chấp là bất động sản và động sản

Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, tài sản được phân loại thành bất động sản và động sản Bất động sản bao gồm đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất, tài sản khác gắn liền với đất, nhà, công trình xây dựng, và các tài sản khác theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 107) Ngược lại, động sản được định nghĩa là những tài sản không phải là bất động sản (khoản 2 Điều 107).

So với BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và 2015 đã mở rộng quy định về động sản trong thế chấp tài sản Theo khoản 1 Điều 346 BLDS năm 1995, thế chấp tài sản chỉ áp dụng cho bất động sản, điều này đã hạn chế khả năng thế chấp của bên có nghĩa vụ khi họ chỉ sở hữu động sản Việc này tạo ra rào cản trong việc sử dụng tài sản để đảm bảo nghĩa vụ, làm giảm tính linh hoạt trong các giao dịch tài chính.

 Tài sản thế chấp là bất động sản

Bất động sản bao gồm đất đai, nhà và các công trình xây dựng gắn liền với đất, cùng với các tài sản khác liên quan Tác giả hoàn toàn đồng ý với quy định này, vì trên thực tế, bất động sản chủ yếu là những tài sản giá trị.

4 Vũ Thị Hồng Yến (2017), “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của

Theo tài liệu "BLDS năm 2015" của Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, TP.Hồ Chí Minh, trang 23, bất động sản không bị di dời về mặt vật lý, hoặc nếu có thì khoảng cách di dời là không đáng kể Điều này đã làm tăng tính "địa điểm" và "địa phương" của bất động sản.

Bất động sản là tài sản an toàn trong giao dịch thế chấp, vì có giấy chứng nhận quyền sử dụng hoặc sở hữu từ cơ quan có thẩm quyền Thế chấp bất động sản không chuyển giao tài sản, bên nhận thế chấp giữ giấy tờ pháp lý liên quan, giúp kiểm soát tài sản dễ dàng Điều này hạn chế quyền tự do giao dịch của bên thế chấp và bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp khi đến hạn nghĩa vụ.

 Tài sản thế chấp là động sản

Khác với bất động sản có tính chất cố định, động sản lại mang tính di động, điều này có thể tạo ra rủi ro cho bên nhận thế chấp trong trường hợp bên thế chấp vi phạm nghĩa vụ.

Khi A thế chấp chiếc xe ô tô bán tải cho Ngân hàng B để vay 300 triệu đồng, nếu đến hạn mà A không trả nợ, Ngân hàng B có quyền xử lý tài sản để thu hồi nợ Tuy nhiên, A đã sử dụng chiếc xe này làm tài sản bảo đảm nghĩa vụ và bỏ trốn.

Bà P, chủ sở hữu ba tàu cá chuyên khai thác hải sản, đã thế chấp tàu để đảm bảo khoản vay 2.250.000.000 đồng tại ngân hàng Tuy nhiên, bà cùng đồng phạm đã sử dụng tàu để cắt trộm cáp quang và bị bắt, dẫn đến việc Tòa án kết án về tội "Phá hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia" Theo pháp luật hình sự, tài sản thế chấp là công cụ phạm tội sẽ bị tịch thu, nhưng theo pháp luật dân sự, quyền lợi của bên nhận thế chấp cần được bảo vệ Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 19/9/2008, Tòa án đã bác kháng cáo và chấp nhận kháng nghị về việc tịch thu ba tàu cá, khẳng định rằng mặc dù tàu được thế chấp hợp lệ, quyền sở hữu của bà P vẫn tồn tại, dẫn đến việc tịch thu tài sản này Quyết định này đã khiến các khoản nợ vay của bà P tại ngân hàng trở thành các khoản nợ không có tài sản bảo đảm hợp pháp.

Trần Đông Tùng (2010) đã nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm mở rộng phạm vi đăng ký và cung cấp thông tin liên quan đến tình trạng pháp lý của động sản Đề tài này được thực hiện trong khuôn khổ nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, dưới sự quản lý của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp, tại Hà Nội.

Trong bài viết trên trang thông tin pháp luật dân sự Civillaw network, vấn đề xử lý vật chứng là tài sản bảo đảm tiền vay đã được phân tích qua một vụ án cụ thể Bài viết nhấn mạnh rằng nếu không có sự xử lý đúng đắn, giao dịch bảo đảm sẽ trở nên vô nghĩa Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đã khẳng định quyền lợi của bên nhận thế chấp bằng cách cho phép xử lý tàu cá thế chấp Cụ thể, ba tàu cá đã được bán đấu giá để thanh toán nợ ngân hàng, và chỉ số tiền còn lại mới bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đặc tính di động của động sản có thể gây rủi ro cho bên nhận thế chấp, vì bản chất của thế chấp không yêu cầu chuyển giao tài sản Bên thế chấp vẫn giữ quyền khai thác và sử dụng tài sản, và chỉ khi bên thế chấp sử dụng tài sản cho mục đích hợp pháp thì lợi ích của bên nhận thế chấp mới được đảm bảo.

Khi tài sản thế chấp được sử dụng đúng mục đích, nó sẽ được bảo vệ an toàn Ngược lại, nếu tài sản này vi phạm pháp luật, sẽ bị tịch thu và xử lý theo quy định Để đảm bảo quyền lợi, bên nhận thế chấp cần đăng ký biện pháp bảo đảm khi ký hợp đồng, nhằm công khai quyền sở hữu trên tài sản đó.

Theo Điều 106 BLDS năm 2015, quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản động sản không yêu cầu đăng ký, trừ khi luật có quy định khác Điều này cho thấy động sản được phân chia thành hai loại: động sản có đăng ký quyền sở hữu và động sản không cần đăng ký quyền sở hữu.

Xử lý tài sản thế chấp

1.3.1 Căn cứ xử lý tài sản thế chấp

Xử lý tài sản thế chấp là một trong những căn cứ quan trọng để chấm dứt quyền thế chấp tài sản Khi tài sản thế chấp được xử lý, quyền sở hữu sẽ chuyển từ bên thế chấp sang bên nhận thế chấp Việc này chỉ được thực hiện theo các quy định pháp luật cụ thể Theo Điều 303 BLDS năm 2015 và Điều 56 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, có những trường hợp rõ ràng mà việc xử lý tài sản thế chấp có thể diễn ra.

Thứ nhất, Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ

Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn nếu vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc quy định của pháp luật.

A đã sử dụng quyền sử dụng đất trị giá 1 tỷ đồng để thế chấp cho khoản vay 800 triệu đồng tại Ngân hàng B nhằm trả nợ cho công nhân, với thời hạn vay 1 năm Tuy nhiên, sau 6 tháng, Ngân hàng B phát hiện A đã sử dụng khoản vay này để xây nhà, dẫn đến yêu cầu thu hồi nợ trước hạn Do A không có khả năng trả nợ, Ngân hàng B có quyền xử lý quyền sử dụng đất để đảm bảo khoản vay.

800 triệu đồng và lãi phát sinh trong thời hạn 6 tháng

Theo quy định của pháp luật, tài sản bảo đảm phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ khác Nếu một tài sản được dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, trong đó có nghĩa vụ đã đến hạn thanh toán, thì các nghĩa vụ còn lại, mặc dù chưa đến hạn, cũng được coi là đã đến hạn Tất cả các bên nhận bảo đảm đều có quyền tham gia vào việc xử lý tài sản này.

Thứ tư, các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định

Trong trường hợp tài sản bị xử lý không phải do lỗi của bên thế chấp mà do ý chí của các bên, ví dụ như khi A làm ăn thua lỗ và không có khả năng trả nợ, việc xử lý tài sản thế chấp, như quyền sử dụng đất, có thể diễn ra ngay khi giá đất đang tăng cao Điều này không chỉ giúp A trả nợ cho bên nhận thế chấp mà còn tạo ra khoản tiền dư để tiếp tục kinh doanh Nếu bên nhận thế chấp đồng ý, tài sản thế chấp sẽ được xử lý theo thỏa thuận.

1.3.2 Chủ thể có quyền xử lý tài sản thế chấp

Khi xử lý tài sản thế chấp, quyền và lợi ích thuộc về bên nhận thế chấp, không phải bên thế chấp Quyền định đoạt tài sản này cần được xem là quyền mặc nhiên của bên nhận thế chấp, vì họ đã chấp nhận rủi ro khi cho vay Việc này đảm bảo quyền lợi cho bên nhận thế chấp trong trường hợp bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ.

1.3.3 Phương thức xử lý tài sản thế chấp

Phương thức xử lý tài sản thế chấp là quy trình định đoạt tài sản nhằm bù đắp quyền lợi cho bên nhận thế chấp khi có vi phạm nghĩa vụ Kết quả của việc định đoạt tài sản thế chấp luôn được quy đổi ra tiền, đóng vai trò là thước đo ngang giá so với giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.

11 Vũ Thị Hồng Yến (2017), “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của

BLDS năm 2015”, Nxb chính trị quốc gia sự thật, TP.Hồ Chí Minh, tr.61

12 Vũ Thị Hồng Yến (2017), “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của

BLDS năm 2015”, Nxb chính trị quốc gia sự thật, TP.Hồ Chí Minh, tr.61

Theo khoản 1 Điều 303 Bộ luật Dân sự năm 2015, bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thoả thuận các phương thức xử lý tài sản thế chấp, bao gồm: bán đấu giá tài sản, bên nhận bảo đảm tự bán đấu giá, hoặc nhận chính tài sản để thay thế cho nghĩa vụ của bên bảo đảm, cùng với các phương thức khác Điều này cho thấy pháp luật đã quy định việc xử lý tài sản thế chấp dựa trên sự thoả thuận tự nguyện giữa các bên.

Theo khoản 2 Điều 303 BLDS năm 2015, nếu không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm, tài sản sẽ được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác Trong tình huống bên thế chấp không tự nguyện chuyển giao tài sản, bên nhận thế chấp có thể bảo vệ quyền lợi của mình thông qua thủ tục tố tụng tại Tòa án Việc xử lý tài sản thế chấp sẽ phụ thuộc vào quyết định của Tòa án và thường được thực hiện bằng phương thức bán đấu giá.

1.3.4 Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản thế chấp

Việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán là cần thiết khi một tài sản được sử dụng để đảm bảo nhiều nghĩa vụ, theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015 Thứ tự này dựa trên thời điểm đăng ký thế chấp, đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể có quyền lợi trên tài sản thế chấp.

Nếu các biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, thứ tự thanh toán sẽ được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng Trong trường hợp này, các bên nhận thế chấp có quyền ưu tiên thanh toán từ việc xử lý tài sản, do đó thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký.

Trong trường hợp tài sản được sử dụng để đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ dân sự, giao dịch bảo đảm đã đăng ký sẽ được ưu tiên thanh toán so với giao dịch bảo đảm không đăng ký Nguyên tắc này thể hiện rằng chủ thể nào công bố quyền lợi trên tài sản thế chấp trước thì sẽ được ưu tiên thanh toán trước.

Trong trường hợp các biện pháp bảo đảm không có hiệu lực đối với người thứ ba, thứ tự thanh toán sẽ được xác định dựa trên thứ tự mà các biện pháp bảo đảm được thiết lập.

Phân biệt thế chấp tài sản với một số biện pháp bảo đảm khác

Tại Điều 292 BLDS năm 2015 quy định chín biện pháp bảo đảm như sau:

Khi giao kết hợp đồng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, các bên có thể lựa chọn giữa nhiều biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật, như cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản Mỗi biện pháp bảo đảm đều có những tính chất, đặc điểm và vai trò riêng, do đó, các bên cần hiểu rõ để áp dụng phù hợp Việc phân biệt rõ ràng giữa biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản và các biện pháp khác như cầm cố tài sản, bảo lãnh tài sản, đặt cọc và ký cược là rất quan trọng trong quá trình giao kết hợp đồng.

 Thế chấp tài sản và cầm cố tài sản

Thế chấp tài sản và cầm cố tài sản là hai biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong lĩnh vực dân sự Cầm cố tài sản được định nghĩa tại Điều 309 BLDS 2015 là việc bên cầm cố giao tài sản thuộc quyền sở hữu cho bên nhận cầm cố nhằm bảo đảm nghĩa vụ Điểm khác biệt giữa cầm cố và thế chấp nằm ở việc chuyển giao tài sản: trong cầm cố, bên cầm cố phải chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố, trong khi bên thế chấp vẫn giữ tài sản của mình.

Hai biện pháp bảo đảm tài sản đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, nhưng thời điểm phát sinh hiệu lực lại khác nhau Đối với thế chấp tài sản, hiệu lực bắt đầu từ thời điểm đăng ký Trong khi đó, đối với cầm cố tài sản, thời điểm hiệu lực phụ thuộc vào loại tài sản: nếu là bất động sản, hiệu lực cũng bắt đầu từ thời điểm đăng ký; còn nếu không phải là bất động sản, hiệu lực phát sinh khi bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản.

 Thế chấp tài sản và bảo lãnh

Thế chấp tài sản và bảo lãnh là hai biện pháp quan trọng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong lĩnh vực dân sự Theo quy định tại khoản 1 Điều, khái niệm bảo lãnh được xác định rõ ràng, góp phần bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong giao dịch.

Theo Điều 335 Bộ luật Dân sự năm 2015, bảo lãnh là cam kết của bên thứ ba (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi đến hạn Điều này cho thấy rằng bảo lãnh khác với hình thức thế chấp tài sản.

13 Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (chủ biên), “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm

Trong bảo lãnh, bên bảo lãnh đóng vai trò là một chủ thể thứ ba bên cạnh bên có nghĩa vụ và bên có quyền Khác với thế chấp, nơi tính chất bảo đảm gắn liền với tài sản, trong quan hệ bảo lãnh, tính chất bảo đảm được thể hiện qua cam kết của bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền.

Biện pháp thế chấp tài sản và biện pháp bảo lãnh là hai hình thức bảo đảm khác nhau trong pháp luật Trong khi thế chấp tài sản mang tính chất đối vật, yêu cầu xác định cụ thể tài sản bảo đảm và giá trị của nó, thì bảo lãnh lại mang tính chất đối nhân, chỉ cần một cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên bảo lãnh Điều này có nghĩa là bên bảo lãnh không cần phải chỉ định tài sản cụ thể ngay từ đầu; chỉ khi bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ, bên bảo lãnh mới phải cung cấp tài sản của mình để bù đắp cho sự vi phạm đó.

 Thế chấp tài sản và đặt cọc

Theo khoản 1 điều 328 BLDS 2015, đặt cọc được định nghĩa là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị khác nhằm đảm bảo cho việc giao kết hoặc thực hiện hợp đồng Biện pháp đặt cọc không chỉ giúp bảo đảm cho hợp đồng mà còn khác biệt với thế chấp, vì đối tượng của đặt cọc chủ yếu là tiền hoặc tài sản quý giá, trong khi thế chấp có thể áp dụng cho tất cả các loại tài sản.

 Thế chấp tài sản và ký cược

Theo khoản 2 Điều 329 BLDS năm 2015, ký cược là việc bên thuê tài sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị trong một thời hạn để đảm bảo việc trả lại tài sản thuê Biện pháp này chỉ áp dụng trong quan hệ cho thuê tài sản và yêu cầu chuyển giao tài sản ký cược để bảo đảm Nếu tài sản thuê không còn, tài sản ký cược sẽ thuộc về bên cho thuê mà không cần xử lý Đây là điểm khác biệt chính giữa ký cược và thế chấp tài sản.

Như vậy, qua việc so sánh giữa thế chấp tài sản với một số biện pháp bảo đảm

Sự khác biệt về tính chất, đặc điểm, đối tượng và vai trò trong giao kết hợp đồng bảo đảm giúp các chủ thể tránh nhầm lẫn và sai lầm, từ đó lựa chọn biện pháp bảo đảm phù hợp với khả năng thực hiện nghĩa vụ Điều này cũng đảm bảo các bên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Hình thức và hiệu lực thế chấp tài sản

1.5.1 Hình thức thế chấp tài sản

Tự do thỏa thuận là nguyên tắc cốt lõi trong giao kết hợp đồng dân sự, cho phép các bên lựa chọn hình thức ký kết phù hợp Hợp đồng có thể được thực hiện dưới dạng lời nói, văn bản hoặc thông qua các hành vi cụ thể.

BLDS năm 2015 đã bỏ quy định cụ thể về hình thức hợp đồng thế chấp như trong BLDS năm 2005, mà cho phép các bên tự do lựa chọn hình thức hợp đồng theo Điều 119 Trước đây, việc thế chấp tài sản yêu cầu phải lập thành văn bản, có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính, và trong một số trường hợp, văn bản này cần phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.

Mặc dù Bộ luật Dân sự 2015 cho phép các bên tự do lựa chọn hình thức hợp đồng, nhưng để đảm bảo an toàn pháp lý trong các giao dịch dân sự và bảo vệ lợi ích của các bên, một số loại hợp đồng vẫn yêu cầu phải tuân theo những hình thức nhất định.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 37 Bộ luật Hàng hải Việt Nam, hợp đồng thế chấp tàu biển Việt Nam phải được lập bằng văn bản và thực hiện theo pháp luật Việt Nam Tương tự, khoản 3 Điều 167 Luật đất đai năm 2013 cũng yêu cầu hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản.

Hợp đồng thế chấp tài sản phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký theo quy định của pháp luật để có hiệu lực Chẳng hạn, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất cần phải là văn bản được công chứng hoặc chứng thực và phải thực hiện đăng ký.

Theo Luật đất đai năm 2013, hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp và góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản Việc công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất diễn ra tại các tổ chức hành nghề công chứng trong tỉnh, thành phố nơi có đất, trong khi chứng nhận hợp đồng thực hiện tại Uỷ ban nhân dân cấp xã Để hợp pháp hóa việc thế chấp, quyền sử dụng đất cần được đăng ký tại văn phòng đăng ký đất đai.

Khi ký kết hợp đồng thế chấp, các bên không chỉ cần tuân thủ quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành mà còn phải tham khảo các văn bản pháp luật liên quan để đảm bảo hợp đồng được thực hiện đúng hình thức theo quy định pháp luật.

Thế chấp tài sản là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong giao dịch dân sự, và hợp đồng thế chấp chỉ có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện về chủ thể, nội dung và mục đích không trái pháp luật và đạo đức xã hội Theo Điều 319 BLDS năm 2015, hợp đồng thế chấp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định pháp luật khác Thế chấp tài sản sẽ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký Hợp đồng thế chấp cũng phải tuân thủ quy định về công chứng, chứng thực hoặc đăng ký, và nếu không thực hiện đúng, hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu.

Trong giao dịch thế chấp, nếu bên có nghĩa vụ đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ nhưng phát sinh tranh chấp về quyền và nghĩa vụ do giao dịch không có hiệu lực (do chưa được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký), liệu pháp luật có công nhận và bảo hộ không? Theo khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu giao dịch dân sự được xác lập bằng văn bản nhưng không đúng quy định của pháp luật, và một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ, Tòa án có quyền ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch theo yêu cầu của bên liên quan.

BLDS năm 2015 trường hợp trên được giải quyết theo hướng giao dịch không vô hiệu

Hiệu lực của giao dịch dân sự đã được phép vượt qua các thủ tục công chứng, chứng thực và đăng ký, mà các điều luật thường yêu cầu Điều này làm cho thời điểm hoàn tất các thủ tục này trở nên không còn ý nghĩa Theo Điều 129 BLDS năm 2015, một thời điểm mới được xác định để có hiệu lực giao dịch, đó là khi một hoặc các bên thực hiện từ 2/3 nghĩa vụ trở lên, hoặc hoàn thành toàn bộ nghĩa vụ, lúc này Tòa án sẽ quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch.

Đăng ký thế chấp tài sản

1.6.1 Các trường hợp đăng ký thế chấp Đăng ký thế chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc công khai, minh bạch hoá thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản, gắn liền với quyền dân sự của mỗi cá nhân Việc đăng ký thế chấp cũng là điều kiện để cho hợp đồng thế chấp có hiệu lực trong trường hợp pháp luật có quy định, ngoài ra còn là điều kiện để phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba

Theo quy định của pháp luật, việc đăng ký tài sản và biện pháp bảo đảm được chia thành hai trường hợp: bắt buộc và theo yêu cầu Cụ thể, Điều 4 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP nêu rõ các quy định liên quan đến việc này.

Việc đăng ký thế chấp tài sản là bắt buộc và bao gồm các loại như thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp tài sản gắn liền với đất khi tài sản đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, cũng như thế chấp tàu biển.

Đăng ký thế chấp tài sản theo yêu cầu bao gồm hai loại chính: thế chấp tài sản là động sản khác và thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai.

Pháp luật Việt Nam phân loại tài sản thành hai nhóm: tài sản bắt buộc đăng ký và tài sản không bắt buộc, bao gồm cả động sản và bất động sản Trong số đó, chỉ một số ít động sản như tàu bay và tàu biển thuộc nhóm bắt buộc đăng ký, trong khi nhiều động sản khác có thể đăng ký tự nguyện Việc quy định này được cho là hợp lý, vì tài sản có giá trị thấp như dép hay xe đạp không cần thiết phải đăng ký, điều này giúp giảm bớt ràng buộc và tiết kiệm thời gian cho cơ quan đăng ký So với pháp luật Pháp, nơi chỉ cho phép đăng ký thế chấp đối với bất động sản, pháp luật Việt Nam cho phép thế chấp cả động sản, cho phép bên sở hữu dùng tài sản của mình để đảm bảo nghĩa vụ dân sự mà không cần chuyển giao tài sản đó.

14 Trang thông tin trường đại học Viện kiểm sát Hà Nội, “thế chấp tài sản theo pháp luật

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tài sản thế chấp có thể là động sản hoặc bất động sản Tuy nhiên, tại Pháp, chỉ có bất động sản mới được đăng ký thế chấp Cơ quan đăng ký ở Pháp không tự động thực hiện việc đăng ký, mà chỉ tiến hành đăng ký đối với những bất động sản cụ thể theo trình tự và thủ tục pháp luật quy định.

Bộ luật dân sự Québec quy định rằng tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh có thể trở thành đối tượng của các giao dịch bảo đảm và cần được đăng ký Cụ thể, Điều 2684 quy định rằng người hoạt động kinh doanh có quyền thế chấp nhiều loại tài sản như súc vật, đồ nghề, thiết bị làm việc, quyền yêu cầu thanh toán từ khách hàng, sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, và các động sản hữu hình khác thuộc sở hữu của mình Đối với những người không hoạt động kinh doanh, việc thế chấp động sản hoặc giao dịch bảo đảm chỉ cần đăng ký nếu tài sản bảo đảm thuộc danh mục tài sản quy định tại Điều 15 của văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự, bao gồm các phương tiện đường bộ cụ thể.

1 o ,2 o ,9 o ,10 o và 11 o của khoản 1 điều 15; xe moóc và xe bán moóc, nhà lưu động, tàu thuỷ, tàu bay 15

Theo pháp luật Bang Quebec (Canada), việc đăng ký thế chấp tài sản (động sản) là bắt buộc và phụ thuộc vào chủ thể bảo đảm là doanh nghiệp hoặc cá nhân không hoạt động kinh doanh, chứ không dựa vào loại tài sản thế chấp Đối với doanh nghiệp, việc đăng ký thế chấp tạo ra giá trị pháp lý đối kháng với bên thứ ba Trong khi đó, cá nhân không hoạt động kinh doanh chỉ cần thực hiện đăng ký thế chấp đối với những tài sản được pháp luật quy định.

So sánh quy định về đăng ký thế chấp tài sản giữa Pháp và Bang Québec – Canada cho thấy sự khác biệt trong các trường hợp bắt buộc phải đăng ký thế chấp Trong khi đó, pháp luật Việt Nam không phân biệt giữa động sản và bất động sản trong việc thế chấp, dẫn đến sự đa dạng trong phân loại nhóm tài sản có thể được thế chấp.

15 Trang thông tin pháp luật Dân sự Civillaw network, “Kinh nghiệm của Bang Québec –

Việc đăng ký quyền đối với động sản trong quá trình xây dựng bộ luật Dân sự mới tại Canada là rất quan trọng, đặc biệt là trong việc thực hiện đăng ký thế chấp Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, các bên tham gia giao dịch bảo đảm cần lựa chọn biện pháp thế chấp tài sản và thực hiện đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật hiện hành Điều này giúp tránh những tranh chấp không mong muốn và đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể tham gia.

1.6.2 Nguyên tắc đăng ký thế chấp

Theo Điều 7 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP, nguyên tắc đăng ký thế chấp tài sản bao gồm hai điểm chính: thứ nhất, việc đăng ký phải dựa trên nội dung kê khai và các giấy tờ trong hồ sơ phải phù hợp với thông tin tại cơ quan đăng ký; thứ hai, việc đăng ký tự kê khai yêu cầu cá nhân hoặc tổ chức phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin đã cung cấp.

Nguyên tắc đầu tiên trong quá trình đăng ký là đảm bảo rằng nội dung kê khai và các giấy tờ trong hồ sơ đăng ký phải phù hợp với thông tin đã được cung cấp tại cơ quan đăng ký.

Theo khoản 1 Điều 7 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP, nguyên tắc đăng ký thế chấp tài sản phải dựa trên nội dung kê khai trong đơn yêu cầu đăng ký Cụ thể, việc đăng ký biện pháp bảo đảm như quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển phải phù hợp với thông tin lưu giữ tại cơ quan đăng ký Cơ quan này không được yêu cầu bổ sung giấy tờ ngoài quy định pháp luật và không được yêu cầu các bên ký kết hợp đồng sửa đổi tên hoặc nội dung hợp đồng bảo đảm, trừ trường hợp sai sót do lỗi kê khai Do đó, cơ quan đăng ký sẽ thực hiện đăng ký dựa trên nội dung trong hồ sơ của người yêu cầu.

A cần đăng ký thế chấp tài sản là tàu biển tại cơ quan có thẩm quyền, với hồ sơ đầy đủ theo quy định tại Điều 32 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP Hồ sơ bao gồm Phiếu yêu cầu đăng ký, Hợp đồng thế chấp tàu biển, và Văn bản ủy quyền nếu có Lưu ý rằng không yêu cầu cung cấp giấy chứng nhận phương tiện thủy nội địa hay hợp đồng mua tàu biển Do đó, A chỉ cần thực hiện đăng ký theo nội dung đã quy định và cơ quan đăng ký không được yêu cầu thêm bất kỳ giấy tờ nào khác.

Khi nhận đơn yêu cầu đăng ký thế chấp tài sản, cơ quan có thẩm quyền chỉ chú trọng đến việc hồ sơ đăng ký phải đầy đủ, chính xác, rõ ràng và không có tẩy xóa Nếu hồ sơ hợp lệ, cơ quan sẽ tiến hành nhập các thông tin cơ bản vào cơ sở dữ liệu về giao dịch đảm bảo.

Thứ hai, nguyên tắc đăng ký tự kê khai và chịu trách nhiệm trước pháp luật:

Nguyên tắc này được quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 102/2017/NĐ-

Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật về thế chấp tài sản

1.7.1 Thời kỳ từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước ngày BLDS năm

Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng đối mặt với nhiều khó khăn trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, với Kho bạc chỉ còn 1,25 triệu đồng Đông Dương, trong đó một nửa là tiền rách Ngân hàng Đông Dương vẫn bị tư bản thực dân kiểm soát và tìm cách phá hoại tài chính của ta Nguồn thu ngân sách rất hạn chế so với nhu cầu chi tiêu của chính quyền Trước tình hình khó khăn này, Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nỗ lực từng bước xây dựng nền tài chính tiền tệ độc lập và thực hiện 21 chính sách mới về kinh tế.

Vào tháng 2 năm 1951, trong khuôn khổ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15-SL vào ngày 6/5/1951, thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam Ngân hàng có nhiệm vụ chính là quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý Kho bạc Nhà nước, huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, cũng như quản lý hoạt động kim dung bằng các biện pháp hành chính, quản lý ngoại hối và đấu tranh tiền tệ với địch.

20 Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II vào tháng 2/1951 đã đề ra những chủ trương và chính sách mới về kinh tế-tài chính, nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài chính và chính sách kinh tế Sự kiện này cũng dẫn đến việc thành lập Ngân hàng Quốc gia và phát hành đồng bạc mới nhằm ổn định tiền tệ, đồng thời cải tiến chế độ tín dụng.

Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vào ngày 6/5/1951 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển hệ thống tiền tệ và ngân hàng tại Việt Nam Trong giai đoạn này, Ngân hàng Quốc gia đã đóng góp tích cực vào việc củng cố hệ thống tiền tệ độc lập, tự chủ, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, đồng thời tăng cường sức mạnh của lực lượng kinh tế quốc doanh.

Sự phát triển của hoạt động ngân hàng đã đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế quốc gia, nhưng để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững, cần thiết phải có các quy định pháp luật điều chỉnh Những quy định này bao gồm các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong đó biện pháp thế chấp tài sản là một phần quan trọng.

Quyết định số 156/NH-QĐ ngày 18/11/1989 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng Theo quyết định này, tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh vay vốn có thể bao gồm bất động sản và động sản như tiền gửi, vàng bạc, cùng các vật dụng sinh hoạt khác.

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 quy định ba biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bao gồm thế chấp tài sản, cầm cố tài sản và bảo lãnh tài sản.

Nghị định số 17-HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, trong đó nêu rõ rằng thế chấp tài sản là hành động sử dụng động sản, bất động sản hoặc giá trị tài sản khác mà không chuyển giao cho bên nhận thế chấp.

Bộ luật Hàng hải Việt Nam ngày 30/6/1990 cũng quy định về biện pháp thế chấp tàu biển tại khoản 1 Điều 29

Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 29/4/1991, có hiệu lực cùng với Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, quy định bốn biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc và bảo lãnh Theo quy định, thế chấp tài sản là việc sử dụng bất động sản mà không giao cho bên nhận thế chấp Điểm khác biệt của biện pháp thế chấp tài sản trong pháp lệnh này so với Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Nghị định số 17-HĐBT năm 1990 là chỉ áp dụng cho bất động sản, không còn sử dụng động sản như trước đây.

Quyết định số 04-NH/QĐ ngày 08/01/1991 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn cho các tổ chức kinh tế và quy định về biện pháp thế chấp Quyết định này sau đó được thay thế bởi Quyết định số 198-QĐ/NH1 ngày 16/09/1994 của Thống đốc.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về ban hành các thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với các tổ chức kinh tế;

Luật đất đai năm 1993 cho phép người dân thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng Quy định chi tiết về việc thế chấp quyền sử dụng đất được nêu rõ trong Nghị định số 18/CP ngày 13/02/1995 của Chính phủ, nhằm thi hành pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được giao đất hoặc thuê đất từ nhà nước.

1.7.2 Thời kỳ từ năm 1995 đến khi Bộ luật dân sự năm 2015 được ban hành

Quốc hội khoá IX đã thông qua Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, có hiệu lực từ ngày 01/7/1996, đánh dấu BLDS đầu tiên của Việt Nam, thay thế Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 Bộ luật này quy định 7 biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự, bao gồm cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và phạt vi phạm Đặc biệt, việc thế chấp tài sản vẫn chỉ giới hạn ở bất động sản, tương tự như quy định trong Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 165/1999/NĐ-CP vào ngày 19/11/1999 nhằm cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 liên quan đến giao dịch bảo đảm.

Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm;

Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN đã ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng Tuy nhiên, quyết định này đã được thay thế bởi Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vào ngày 03/2/2005, nhằm sửa đổi và bổ sung một số điều trong quy chế cho vay.

Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, được Quốc hội khóa XI thông qua vào ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ 01/01/2006, đã thay thế BLDS năm 1995 Bộ luật này quy định bảy biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự, bao gồm cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp Đặc biệt, quy định về thế chấp tài sản trong BLDS 2005 có sự khác biệt đáng kể so với trước đây, cho phép thế chấp cả bất động sản và động sản Để cụ thể hóa các quy định này, nhiều văn bản dưới luật đã được ban hành.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Ngày đăng: 06/02/2022, 11:23

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (2017),“Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015”
Tác giả: Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2017
2. Lê Thị Thu Hiền,“Một số vấn đề pháp lý về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Đại học Đà Lạt Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Một số vấn đề pháp lý về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”
3. Vũ Thị Hồng Yến (2017), “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của BLDS năm 2015”, Nxb chính trị quốc gia sự thật, TP.Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của BLDS năm 2015”
Tác giả: Vũ Thị Hồng Yến
Nhà XB: Nxb chính trị quốc gia sự thật
Năm: 2017
4. Trần Đông Tùng (2010), “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc mở rộng phạm vi đăng ký và cung cấp thông tin về tình trạng pháp lý của động sản”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ tư pháp, Hà nội, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc mở rộng phạm vi đăng ký và cung cấp thông tin về tình trạng pháp lý của động sản”
Tác giả: Trần Đông Tùng
Năm: 2010
6. Thế giới luật, “Đi tìm triết lý thế chấp quyền tài sản trong pháp luật việt nam”, Nguyễn trường giang & ths. Bùi đức giang, https://thegioiluat.vn/bai- Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Đi tìm triết lý thế chấp quyền tài sản trong pháp luật việt nam”
7. Trang thông tin trường đại học Viện kiểm sát Hà Nội, “thế chấp tài sản theo pháp luật Pháp Và Thái Lan”, Nguyễn Minh oanh, http://tks.edu.vn/WebThongTinKhoaHoc/Detail/515?idMenu=81 Sách, tạp chí
Tiêu đề: thế chấp tài sản theo pháp luật Pháp Và Thái Lan”
9. Trang thông tin trường đại học kiểm sát Hà Nội, “Hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện”, http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/81/501 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện”
10. Trang thông tin pháp luật dân sự Civillaw network, “Vấn đề xử lý vật chứng là tài sản bảo đảm tiền vay nhìn từ một vụ án”,https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/11/29/2021-2/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Vấn đề xử lý vật chứng là tài sản bảo đảm tiền vay nhìn từ một vụ án”
11. Thời báo Ngân hàng, “Hậu hoạ khi hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu”, http://thoibaonganhang.vn/hau-hoa-khi-hop-dong-the-chap-bi-tuyen-vo-hieu.html.C. Bản án Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Hậu hoạ khi hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu”
1. Bản án số: 03/2017/KDTM-PT ngày 06/6/2017 của TAND tỉnh Thái Nguyên về “V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng” Sách, tạp chí
Tiêu đề: V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng
2. Bản án số: 233/2018/DS-PT ngày 19/11/2018 của TAND tỉnh Tây Ninh “V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng” Sách, tạp chí
Tiêu đề: V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng
3. Bản án số: 76/2018/DS-ST ngày 24/10/2018 của TAND tỉnh Nghệ An “V/v yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “V/v yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu
4. Bản án số: 1040/2018/DS-ST ngày 16/11/2018 cuả TAND thành phố Hồ Chí Minh về “V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng
5. Bản án số: 05/2010/KDTM-ST ngày 09/7/2010 của TAND tỉnh Phú Yên 6. Bản án số 06/2012/DS-ST: của TAND thành phố Đà Lạt, “V/v tranh chấphợp đồng dân sự vay tài sản” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “V/v tranh chấp "hợp đồng dân sự vay tài sản
5. Nghị định số 163/2006/NĐ - CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm Khác
6. Nghị định số 83/2010/NĐ – CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm Khác
7. Nghị định số 102/2017/NĐ - CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm Khác
9. Nghị định số 11/2012/NĐ – CP ngày 22/12/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ – CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.B. Danh mục sách, khoá luận, đề tài nghiên cứu và các tài liệu khác Khác
5. Nguyễn Thuỳ Dương (2011), Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật (Đại học Đà Lạt), tr.31, tr.32 Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w