1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Giáo trình Kinh tế phát triển (Nghề Kế toán doanh nghiệp)

108 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 108
Dung lượng 718,71 KB

Cấu trúc

  • GIÁO TRÌNH

  • GIÁO TRÌNH MÔN HỌC

  • Tên môn học: Kinh tế phát triển

  • Mã môn học: MH 18

  • Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học:

  • Bài mở đầu: CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN

    • 1. Sự phân chia các nước theo trình độ phát triển

      • 1.1. Sự xuất hiện thế giới thứ ba

      • 1.2. Phân chia các nước theo trình độ phát triển kinh tế

    • 2. Những đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triển

      • 2.1. Sự khác biệt giữa các nước đang phát triển

      • 2.2. Những đặc điểm chung của các nước đang phát triển

      • 2.3. Sự cần thiết lựa chon con đường phát triển

  • Chương 1: TỔNG QUAN VỀ SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

    • 1. Bản chất của tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội

      • 1.1. Khái niệm về tăng trưởng, phát triển kinh tế và phát triển bền vững

      • 1.2. Đánh giá sự phát triển kinh tế

        • NI = GNI - Dp

      • 1.3. Đánh giá sự phát triển xã hội

    • 2. Nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế

      • 2.1. Các nhân tố kinh tế

        • Y = F(K, L, R, T)

      • 2.2. Các nhân tố phi kinh tế

      • 2.3. Vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng kinh tế

    • 3. Các vấn đề cơ bản trong phát triển kinh tế

      • 3.1. Phát triển con người và phát triển kinh tế

      • 3.2. Vấn đề bất bình đẳng và phát triển kinh tế

        • Diện tích (A)

      • 3.3. Vấn đề nghèo khổ và phát triển kinh tế

  • Chương 2: CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

    • 1. Khái niệm và các loại cơ cấu kinh tế

      • 1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế

      • 1.2. Các loại cơ cấu kinh tế

    • 2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế

      • 2.1. Khái niệm:

    • 2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế

      • a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

        • - Thực trạng: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tại Việt Nam. Kinh tế Việt Nam có sự chuyển dịch rõ rệt đó là giảm tỷ trọng khu vực I, tăng tỷ trọng khu vực II, III. Cụ thể khu vực I, tỷ trọng ngành trồng trọt, chăn nuôi giảm ngành thủy hải sản tăng lên. Khu vực II, ngành công nghiệp chế biến tỷ trọng tăng, công nghiệp khai thác giảm nhẹ. Khu vực III, tăng nhanh các lĩnh vực liên quan đến kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị.

        • - Nguyên nhân: Do nhà nước thực hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước một cách toàn diện, sâu sắc nhất. Bên cạnh đó là do nhà nước áp dụng đường lối đổi mới khoa học, công nghệ. Đặc biệt do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới làm cho cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch nhanh chóng.

        • - Xu hướng dịch chuyển:

      • b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng

        • - Thực trạng: Thành phần kinh tế nhà nước giảm tỷ trọng nhưng vẫn giữ vai trò chủ đạo. Thành phần kinh tế tư nhân tỷ trọng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh chóng đặc biệt từ khi VN tham gia WTO.

        • - Nguyên nhân

      • c. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ kinh tế

        • - Thực trạng: Nước ta hình thành nên 3 vùng kinh tế trọng điểm đó là: Vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc, vùng kinh tế trọng điểm miền trung, vùng kinh tế trọng điểm miền Nam.

        • - Nguyên nhân: Do điều kiện tự nhiên để phát triển kinh tế của mỗi vùng là khác nhau. Bên cạnh đó, do sự đầu tư của nhà nước và công ty nước ngoài tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.

        • - Xu hướng dịch chuyển:

    • 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế

    • 4. Các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

      • 4.1. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của W. Rostow

      • 4.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis

      • 4.3. Mô hình hai khu vực của trường phái tân cổ điển

      • 4.4. Mô hình hai khu vực của Harry.T.Oshima

  • Chương 3: CÁC NGUỒN LỰC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ

    • 1. Nguồn lực lao động với phát triển kinh tế

      • 1.1. Nguồn lao động và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế

      • 1.2. Vai trò của nguồn lao động với phát triển kinh tế

      • 1.3. Đặc điểm của nguồn lao động và thị trường lao động ở Việt Nam

      • 1.4. Những vấn đề cần quan tâm đối với nguồn lao động ở Việt Nam

    • 2. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường với phát triển kinh tế

      • 2.1. Khái niệm và phân loại tài nguyên

      • 2.2. Vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với phát triển kinh tế

      • 2.3. Tài nguyên thiên nhiên ở nước ta hiện nay

      • 2.4. Những vấn đề đặt ra trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường

    • 3. Vốn với sự phát triển kinh tế

      • 3.1. Vốn và vai trò của vốn đối với phát triển kinh tế

      • 3.3. Các giải pháp chủ yếu để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả

    • 4. Khoa học công nghệ với phát triển kinh tế

      • 4.1. Khái niệm khoa học, công nghệ

      • 4.2. Vai trò của khoa học và công nghệ

      • 4.3. Định hướng và giải pháp phát triển khoa học và công nghệ

      •  

  • Chương 4: PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH KINH TẾ

    • 1. Phát triển kinh tế nông nghiệp

      • 1.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp

      • 1.2. Vai trò của nông nghiệp đối với phát triển kinh tế

      • 1.3. Những giải pháp chủ yếu phát triển nông nghiệp

    • 2. Phát triển kinh tế công nghiệp

      • 2.1. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp

      • 2.2. Vai trò của công nghiệp đối với phát triển kinh tế

      • 2.3. Những giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp

    • 3. Phát triển kinh tế dịch vụ

      • 3.1. Đặc điểm của kinh tế dịch vụ trong phát triển kinh tế

      • 3.2. Vai trò của dịch vụ đối với phát triển kinh tế

      • 3.3. Những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế dịch vụ

  • Chương 5: NGOẠI THƯƠNG VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ

    • 1. Lợi thế của hoạt động ngoại thương

      • 1.1. Lợi thế tuyệt đối của ngoại thương

      • 1.2. Lợi thế tương đối (lợi thế so sánh)

    • 2. Tác động của ngoại thương đến tăng trưởng kinh tế

    • 3. Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu (chiến lược hướng nội)

      • 3.1. Điều kiện thực hiện chiến lược

      • 3.2. Bảo hộ của chính phủ bằng thuế quan

      • 3.3. Bảo hộ của chính phủ bằng hạn ngạch

      • 3.4. Hạn chế của chiến lược thay thế nhập khẩu

    • 4. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô

      • 4.1. Tác động của xuất khẩu sản phẩm thô đến phát triển kinh tế

      • 4.2. Trở ngại đối với sợ phát triển dựa vào chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô

      • 4.3. Các giải pháp khắc phục hạn chế

    • 5. Chiến lượng hướng ra thị trường quốc tế (chiến lược hướng ngoại)

      • 5.1. Nội dung chiến lược hướng ra thị trường quốc tế

      • 5.2. Tác động của chiến lược hướng ngoại đến phát triển kinh tế

      • 5.3. Những chính sách đòn bẩy để thúc đẩy chiến lược hướng ngoại

Nội dung

Sự phân chia các nước theo trình độ phát triển

Sự xuất hiện thế giới thứ ba

Đến năm 1945, nhiều quốc gia Tây Âu, đặc biệt là Anh, Pháp, Hà Lan và Bồ Đào Nha, vẫn kiểm soát các thuộc địa rộng lớn Sau Thế chiến II, các dân tộc bị đô hộ bắt đầu đấu tranh mạnh mẽ cho độc lập Năm 1947, Gandhi lãnh đạo Ấn Độ giành độc lập từ Anh, trong khi Indonesia cũng giành độc lập sau cuộc kháng chiến chống Hà Lan Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Pháp rút khỏi Đông Dương Cao trào giải phóng thuộc địa tiếp tục lan rộng sang châu Phi, với cuộc đấu tranh vũ trang của Angola vào năm 1954, dẫn đến việc Pháp ký hiệp định công nhận độc lập cho quốc gia này vào năm 1962 Tất cả các thuộc địa của Pháp ở châu Phi sau đó lần lượt được trao trả độc lập, cùng với Công Gô, Nigeria, Angola và Mozambique.

Với sự giải phóng thuộc địa, một yếu tố mới đã xuất hiện trên chính trường quốc tế: Thế giới thứ ba Thuật ngữ "Thế giới thứ ba" được sử dụng để phân biệt với các quốc gia phát triển và đang phát triển khác, phản ánh sự chuyển mình của các quốc gia này trong bối cảnh toàn cầu hóa.

"Thế giới thứ nhất" bao gồm các quốc gia có nền kinh tế phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, chủ yếu nằm ở Tây Âu, còn được gọi là các quốc gia phía tây Ngược lại, "thế giới thứ hai" bao gồm các nước có nền kinh tế tương đối phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, tập trung chủ yếu ở Đông Âu, hay còn gọi là các quốc gia phía Đông Để tránh bị phân chia thành hai khối này, nhiều quốc gia thuộc thế giới thứ ba đã tìm cách liên kết, phủ nhận sự phân chia Đông - Tây Một sự kiện quan trọng là hội nghị Bandung diễn ra vào tháng 4-1953 tại Indonesia, quy tụ 24 nhà lãnh đạo từ các quốc gia Châu Á và Châu Phi, với mục tiêu thúc đẩy sự trung lập.

Những người tham gia hội nghị khẳng định mong muốn xây dựng một nguyên tắc quốc tế mới, ưu tiên cho các quốc gia nghèo nhằm giúp họ thoát khỏi tình trạng khó khăn Tinh thần của hội nghị Bandung đã mang lại một luồng sinh khí mới trong quan hệ quốc tế, mở ra khả năng phát triển theo con đường thứ ba, không thuộc về Đông hay Tây, mà hướng về phía Nam nghèo đói.

Vào đầu những năm 60, các quốc gia thế giới thứ ba ngày càng liên kết để yêu cầu thay đổi các quan hệ kinh tế toàn cầu nhằm khuyến khích sản xuất trong nước, bao gồm quyền đánh thuế và hạn chế hàng nhập khẩu mà không sợ bị trừng phạt Năm 1963, tại hội nghị của nhóm 77 quốc gia, họ đã yêu cầu Liên Hợp Quốc tổ chức hội nghị về thương mại thế giới, nhấn mạnh sự cần thiết của quan hệ thương mại công bằng giữa các nước giàu ở phương Bắc và các nước nghèo ở phương Nam Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển lần đầu tiên diễn ra vào năm 1964, với mục tiêu thúc đẩy thương mại quốc tế để hỗ trợ sự phát triển của các quốc gia nghèo, yêu cầu các nước giàu mở cửa thị trường cho hàng hóa của các nước thế giới thứ ba và nâng cao năng lực sản xuất cho họ Đến năm 1974, Liên Hợp Quốc đã đưa ra tuyên bố ủng hộ việc xây dựng "trật tự kinh tế mới" để thúc đẩy cuộc đối thoại Bắc - Nam.

Phân chia các nước theo trình độ phát triển kinh tế

Các nước thuộc thế giới thứ ba, hay còn gọi là các nước đang phát triển, đã xuất hiện từ những năm 1960, khi họ đối mặt với những thách thức trong việc phát triển kinh tế Khái niệm này được sử dụng để phân biệt với các nước phát triển ở phía Bắc, những nước đã trải qua thời kỳ dài công nghiệp hóa Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước đang phát triển đã có sự phân hóa rõ rệt; một số quốc gia đã tìm ra con đường phát triển đúng đắn và trở thành các nước công nghiệp mới, trong khi một số khác nhờ vào tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ đã tạo ra nguồn thu lớn Ngân hàng Thế giới (WB) đã đề xuất phân loại các nước thành 4 nhóm dựa trên mức thu nhập bình quân đầu người (GNP/người), đồng thời xem xét cấu trúc kinh tế và mức độ thỏa mãn nhu cầu của con người.

Các nước công nghiệp phát triển (DCs) gồm hơn 40 quốc gia, bao gồm nhóm 7 nước công nghiệp hàng đầu thế giới (G7) và các nước công nghiệp phát triển khác Hầu hết các quốc gia này đều là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) Nhóm G7 bao gồm những quốc gia có nền kinh tế mạnh mẽ và ảnh hưởng lớn trên toàn cầu.

Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Italia và Canada là những quốc gia có GNP lớn nhất thế giới, với GNP trên 500 tỷ USD và GNP/người vượt 20.000 USD Bảy nước này chiếm 75% tổng giá trị công nghiệp toàn cầu Ngoài ra, các nước công nghiệp phát triển khác như Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu, Úc và New Zealand cũng có GNP/người trên 15.000 USD và tỷ trọng công nghiệp cao trong nền kinh tế.

(2) Các nước công nghiệp mới – NICS Đây là những nước ngay từ thập kỷ

Trong quá trình phát triển kinh tế, các nước NICs đã khéo léo tận dụng lợi thế so sánh của mình qua từng giai đoạn để sản xuất và xuất khẩu hàng hóa Họ cũng đã thu hút nguồn vốn đầu tư và công nghệ từ các nước phát triển, giúp thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và nâng cao năng lực sản xuất, thoát khỏi tình trạng công nghiệp lạc hậu Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của các nước này đạt hơn 6.000 USD, với hơn 10 quốc gia được công nhận là NICs, trong đó có Hy Lạp.

Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Braxin, Mexicô, Achentina, Israen, Hồng Kông, Đài Loan, Singapo và Hàn Quốc là những quốc gia thu hút sự chú ý toàn cầu Trong số đó, bốn nước NICS châu Á, được gọi là “bốn con rồng”, nổi bật với mức tăng trưởng bình quân 7-8% liên tục trong suốt ba thập kỷ, thậm chí có thời điểm đạt mức tăng trưởng ấn tượng hơn.

11- 12% và có mức mức thu nhập bình quân trên 10.000USD/người, họ đã tạo ra được nền kinh tế đầy sức sống.

Sau chiến tranh thế giới II, vào giữa thập kỷ 60, các nước xuất khẩu dầu mỏ, đặc biệt là các quốc gia Trung Đông như Ả Rập Saudi, Cô-Oét, Iran, Irắc và Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, đã phát hiện ra nguồn dầu mỏ và thành lập OPEC Kể từ năm 1973, các quốc gia này thường xuyên tổ chức các cuộc họp hàng năm để xác định lượng dầu xuất khẩu nhằm duy trì giá dầu có lợi cho họ, dẫn đến việc giá dầu tăng gấp 8 lần từ 1973 đến 1980 Sự gia tăng này đã mang lại lợi nhuận lớn cho các quốc gia, nhiều quốc gia trong số đó đã đầu tư vào công nghiệp bằng cách sử dụng nguồn thu từ dầu mỏ và khí đốt để xây dựng các nhà máy hiện đại Tuy nhiên, do thiếu hụt chuyên gia kỹ thuật, nguyên liệu và thị trường tiêu thụ, các nhà máy này nhanh chóng xuống cấp Vì vậy, mặc dù có thu nhập bình quân đầu người cao, nhưng các quốc gia này vẫn gặp phải vấn đề phát triển kinh tế không cân đối và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.

Các nước đang phát triển (LDCs) thường được hiểu là những quốc gia thuộc thế giới thứ ba, với nền nông nghiệp lạc hậu hoặc đang trong quá trình công nghiệp hóa từ sản xuất nhỏ Chúng được phân loại thành ba nhóm dựa trên thu nhập bình quân đầu người: nhóm có thu nhập trung bình với GDP trên 2.000 USD, nhóm có thu nhập thấp từ 600 USD đến 2.000 USD, và nhóm có thu nhập rất thấp dưới 600 USD Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của các nhóm này có xu hướng tăng dần theo từng năm.

Những đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triển

Sự khác biệt giữa các nước đang phát triển

Mặc dù các nước đang phát triển chia sẻ nhiều yếu tố lịch sử, địa lý, chính trị và kinh tế, nhưng vẫn tồn tại những khác biệt cơ bản giữa chúng, tạo nên sự đa dạng phong phú trong từng quốc gia Những khác biệt này góp phần định hình bản sắc và phát triển riêng biệt của mỗi nước.

Quy mô của đất nước, bao gồm diện tích và dân số, có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế Trong số hơn 130 nước đang phát triển, có những quốc gia lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, và Braxin, và những nước nhỏ như Brunây, Maldives Các nước lớn thường có lợi thế về tài nguyên phong phú và thị trường tiềm năng, nhưng cũng đối mặt với thách thức trong quản lý hành chính và sự đoàn kết quốc gia Mặc dù kích thước đất nước không trực tiếp liên quan đến mức thu nhập bình quân đầu người, nhưng sự chênh lệch rõ rệt vẫn tồn tại Ví dụ, mức thu nhập bình quân của Braxin là 3.400 USD/người, trong khi Trung Quốc chỉ đạt 860 USD/người và Ấn Độ là 470 USD/người Tương tự, giữa các nước nhỏ, Fiji có mức thu nhập bình quân là 1.700 USD/người, trong khi Guinee-Bissau chỉ đạt 180 USD/người.

Bối cảnh lịch sử của các nước đang phát triển, đặc biệt ở Châu Á và Châu Phi, chịu ảnh hưởng lớn từ thời kỳ thuộc địa của các nước Tây Âu như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Bỉ, Hà Lan và Tây Ban Nha Cấu trúc kinh tế, giáo dục và xã hội của những quốc gia này thường dựa trên mô hình của các cường quốc đã cai trị họ Tại Châu Á, sự kết hợp giữa di sản thực dân và truyền thống văn hóa đa dạng của các dân tộc bản địa đã dẫn đến những mô hình xã hội và thể chế khác nhau, như ở Ấn Độ và Philippines Trong khi đó, các nước Châu Phi, do giành độc lập muộn, tập trung vào việc củng cố thể chế chính trị, mặc dù có sự đa dạng về địa lý và nhân khẩu, nhưng vẫn tồn tại những điểm tương đồng trong thể chế kinh tế - xã hội và văn hóa.

Khu vực nhà nước và khu vực tư nhân đều tồn tại song song ở hầu hết các nước đang phát triển, với tầm quan trọng tương đối của mỗi khu vực phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế chính trị của từng quốc gia Các nước châu Mỹ La tinh và Đông Nam Á thường có khu vực kinh tế tư nhân lớn hơn so với các nước Nam Á và Châu Phi Tại những quốc gia châu Phi đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề, xu hướng chú trọng vào hoạt động của khu vực nhà nước gia tăng, nhằm tối ưu hóa việc sử dụng nguồn nhân lực có tay nghề trong các hoạt động kinh tế.

Những đặc điểm chung của các nước đang phát triển

Ngoài những khác biệt thì các nước đang phát triển còn có những đặc điểm chung cơ bản giống nhau:

Mức sống thấp ở các nước đang phát triển ảnh hưởng nghiêm trọng đến đại đa số dân cư, thể hiện qua thu nhập thấp, tình trạng thiếu nhà ở, sức khỏe kém, và sự thiếu hụt trong giáo dục Hơn nữa, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao cùng với tuổi thọ và thâm niên lao động không đạt yêu cầu càng làm trầm trọng thêm tình hình này.

Mức thu nhập thấp thể hiện rõ nhất ở mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người.

Khi xem xét phân phối thu nhập toàn cầu theo dân số, khoảng 83% tổng thu nhập thế giới được tạo ra ở các khu vực kinh tế phát triển, nơi chỉ chiếm một phần nhỏ dân số toàn cầu Ngược lại, chỉ 17% tổng thu nhập được sản xuất bởi phần lớn dân số thế giới Điều này dẫn đến việc thu nhập bình quân đầu người ở các nước kém phát triển chỉ bằng 1/6 so với các nước giàu.

Các nước đang phát triển không chỉ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp mà còn có tốc độ tăng trưởng GNP chậm hơn so với các nước công nghiệp phát triển Trong giai đoạn 1960-1987, tốc độ tăng GNP của 31 nước nghèo chỉ đạt 3,6%/năm, trong khi các nước trung bình khoảng 4,7%/năm, với mức trung bình chung là 4,2% Hiện nay, tốc độ tăng trưởng trung bình của các nước phát triển là khoảng 3,3%, cho thấy khoảng cách thu nhập giữa các nước giàu và nghèo đang thu hẹp lại gần 1% mỗi năm Tuy nhiên, với mức tăng dân số hàng năm ở các nước đang phát triển là 2,4% và chỉ 0,5% ở các nước phát triển, khoảng cách thu nhập bình quân đầu người thực tế lại gia tăng.

Mức sống thấp được thể hiện qua sự phân phối thu nhập quốc dân, với sự bất bình đẳng rõ rệt hơn ở các quốc gia chậm phát triển Trong khi tất cả các quốc gia đều có mức độ bất bình đẳng nhất định, mô hình phân phối thu nhập không cân xứng cho thấy 20% dân thượng lưu thường có thu nhập cao hơn từ 5-10 lần so với 40% dân hạ lưu.

Mức độ nghèo đói là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá mức sống thấp, với khoảng 40% dân số thế giới thứ 3 đang phải sống trong tình trạng nghèo đói cùng cực Tỷ lệ này đặc biệt cao ở các quốc gia đông dân có thu nhập thấp như Bangladesh (60%), Ấn Độ (46%) và Indonesia (62%) Vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX, có khoảng 1,37 tỷ người trên thế giới sống trong cảnh nghèo đói; con số này giảm xuống 1,1 tỷ vào năm 2000, nhưng đến năm 2007 vẫn còn hơn 1 tỷ người nghèo.

Tình trạng sức khỏe kém, suy dinh dưỡng, bệnh tật và giáo dục chậm phát triển đều là những chỉ số quan trọng phản ánh mức sống thấp Tuổi thọ trung bình ở những khu vực này thường bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các yếu tố trên.

Tuổi thọ trung bình ở 42 nước kém phát triển nhất là 48 tuổi, trong khi ở các nước thế giới thứ ba là 63 tuổi và ở các nước công nghiệp phát triển là 75 tuổi Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở các nước kém phát triển là 96 trên 1.000 trẻ, so với 64 ở các nước đang phát triển và chỉ 8 ở các nước phát triển Dịch vụ y tế tại các khu vực này cực kỳ khan hiếm, với trung bình chỉ 94 bác sĩ trên 100.000 dân ở các nước kém phát triển, trong khi con số này ở các nước phát triển là 161 bác sĩ trên 100.000 dân Hơn nữa, hầu hết các cơ sở y tế đều tập trung ở khu vực thành thị.

Tại 31 quốc gia kém phát triển nhất, tỷ lệ người biết chữ chỉ đạt 34%, trong khi tỷ lệ này ở các quốc gia khác là 64% và ở các nước phát triển lên tới 99% Sự thiếu hụt về học trình, phương tiện giáo dục không đầy đủ và tỷ lệ bỏ học giữa chừng cao là những vấn đề chính dẫn đến tình trạng này.

Năng suất lao động ở các nước đang phát triển rất thấp so với các nước phát triển, chủ yếu do thiếu hụt các yếu tố đầu vào như vốn vật chất và đội ngũ quản lý có kinh nghiệm Sức khỏe cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến năng suất Mặc dù các quốc gia kém phát triển có thể tạo ra cơ hội kinh tế để cải thiện, nhưng để đạt được thành công, cần có những thay đổi về thể chế và cơ cấu.

Mức sống thấp và năng suất kém đang làm trầm trọng thêm các vấn đề kinh tế và xã hội ở các nước thế giới thứ ba, điều này thể hiện rõ ràng tình trạng kém phát triển của họ.

Tốc độ tăng dân số cao ở các nước đang phát triển, chiếm hơn 5/6 tổng dân số thế giới khoảng 6 tỷ người, gây ra gánh nặng cho lực lượng lao động Tỷ lệ sinh đẻ ở các nước chậm phát triển rất cao, trong khi chế độ chăm sóc y tế và thu nhập thấp dẫn đến tỷ lệ tử vong cũng cao Hiện nay, tốc độ tăng dân số trung bình ở các nước đang phát triển là 2,1%, gấp ba lần so với 0,7% ở các nước phát triển Số trẻ em dưới 15 tuổi chiếm gần một nửa dân số ở các nước đang phát triển, so với chỉ 1/4 ở các nước phát triển, khiến lực lượng lao động phải hỗ trợ cho trẻ em với tỷ lệ gần gấp đôi Do đó, các nước thế giới thứ ba không chỉ có tốc độ tăng dân số cao mà còn phải gánh chịu gánh nặng người ăn theo lớn hơn so với các nước giàu có.

Mức thất nghiệp và bán thất nghiệp cao là một trong những chỉ số chính phản ánh mức sống thấp ở các nước đang phát triển, cho thấy việc sử dụng nguồn nhân lực chưa hiệu quả Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực đô thị dao động từ 10-15%, trong khi tỷ lệ bán thất nghiệp còn cao hơn, với hơn 30% lực lượng lao động nông thôn và đô thị ở các nước thuộc thế giới thứ ba chưa được khai thác hết khả năng.

Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, với 62% lực lượng lao động tham gia vào lĩnh vực này, so với chỉ 7% ở các nước phát triển Nông nghiệp chiếm khoảng 20% tổng sản phẩm quốc dân tại các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, trong khi tỷ lệ này chỉ là 3% ở các nước phát triển Tuy nhiên, nền nông nghiệp ở các nước này chủ yếu là phi thương mại, nhỏ lẻ và lạc hậu Do đó, các sản phẩm sơ chế trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của những nền kinh tế chậm phát triển này.

Như vậy, phụ thuộc đáng kể vào sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu hàng sơ chế cũng là đặc điểm chung của các nước đang phát triển.

Các nước đang phát triển thường gặp phải tình trạng thống trị, phụ thuộc và dễ bị tổn thương, dẫn đến mức sống thấp, thất nghiệp gia tăng và bất bình đẳng thu nhập Nguyên nhân chính là sự phân chia quyền lực kinh tế và chính trị không công bằng giữa các nước giàu và nghèo Sự bất bình đẳng này không chỉ thể hiện qua quyền kiểm soát thương mại của các nước phát triển, mà còn qua khả năng quyết định các điều kiện chuyển giao công nghệ và vốn đầu tư cho các quốc gia đang phát triển.

Các tiêu chuẩn kinh tế và xã hội của các quốc gia phát triển ảnh hưởng mạnh mẽ đến mức lương, lối sống xa hoa và thái độ chung về việc tích lũy tài sản cá nhân ở các nước đang phát triển.

Sự cần thiết lựa chon con đường phát triển

Các nước đang phát triển thường phải đối mặt với những đặc trưng cơ bản gây cản trở cho sự phát triển, tạo thành một vòng luẩn quẩn của nghèo khổ Những trở ngại này liên quan chặt chẽ với nhau, góp phần làm gia tăng khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển.

Sơ đồ 1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ

Trình độ kỹ thuật thÊp

Trước tình hình tỷ lệ tích lũy thấp, các nước đang phát triển cần có biện pháp hiệu quả để thoát khỏi vòng luẩn quẩn Một số quốc gia như nhiều nước Châu Phi cận Sahara và một số nước Nam Á vẫn tiếp tục rơi vào tình trạng trì trệ và xã hội rối ren Trong khi đó, một số nước như Philippines đã từng đạt tốc độ tăng trưởng nhưng lại rơi vào khủng hoảng mới Ngược lại, các nước và vùng lãnh thổ NICs Châu Á như Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc đã tạo được tốc độ phát triển nhanh chóng, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển Gần đây, Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc cũng đã chứng minh sự đúng đắn trong lựa chọn đường lối phát triển Tại Việt Nam, từ năm 1989, Chính phủ đã triển khai chương trình cải cách toàn diện hệ thống kinh tế, sau nhiều thập kỷ thử nghiệm các biện pháp khác nhau Năm 1989 đánh dấu mốc quan trọng khi Chính phủ thực hiện cải cách giá cả để đối phó với siêu lạm phát lên tới 308%, hỗ trợ cho những thay đổi trong cơ chế quản lý và đạt được những thành công bước đầu trong cải cách.

Năm 1989 đã ghi dấu ấn đáng kể, đặc biệt trong công tác chống lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát giảm xuống còn 35%.

Năm 1989, Việt Nam đã thực hiện tự do hóa thương mại và phá giá đồng tiền, dẫn đến kim ngạch xuất khẩu tăng gấp đôi Kế hoạch 5 năm từ 1991 đến 1995 đã mang lại mức tăng trưởng kinh tế đáng kể, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,2% trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Đổi mới và phát triển kinh tế Việt Nam là một quá trình đầy thách thức, với nhiều yếu kém được bộc lộ Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực từ giữa năm 1997 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, khiến tốc độ tăng trưởng giảm mạnh từ 9,35% vào năm 1996 xuống còn 8,2% vào năm 1997 và tiếp tục giảm xuống 5,8% trong năm tiếp theo.

1998) và 4,8% (năm 1999) Vào năm 2000, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu hồi phục với tốc độ tăng trưỏng kinh tế đạt 6,8% và đến năm 2003 là 7,24% Năm

Năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), mở ra nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đối mặt với thách thức lớn, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 Khủng hoảng này đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam, nơi mà niềm tin vào thị trường có thể bị xói mòn, nhất là khi vai trò của Nhà nước được khẳng định trở lại ở nhiều quốc gia phát triển Tuy nhiên, việc ngừng cải cách hoặc chệch hướng sẽ là sai lầm nghiêm trọng Việt Nam cần xem cuộc khủng hoảng như một cơ hội để tái cơ cấu nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời lựa chọn một chiến lược phát triển thông minh và bền vững.

Chiến lược phát triển kinh tế cần tập trung vào việc xây dựng mối quan hệ đa phương và song phương, cùng với việc đầu tư vào hạ tầng và nguồn lực con người Nhà nước cần tăng cường vai trò trong phối hợp quốc tế và nâng cao năng lực quản lý tài chính ngân hàng Nỗ lực xoá đói giảm nghèo cần được đẩy mạnh, kết hợp với việc gia tăng trợ cấp và bảo hiểm xã hội, qua đó nâng cao vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách nên tuân theo nguyên tắc của John Maynard Keynes: Nhà nước chỉ nên can thiệp vào những lĩnh vực mà thị trường không thể đảm nhận.

TỔNG QUAN VỀ SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN

Bản chất của tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội

Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia, phản ánh sự tiến bộ qua từng giai đoạn Đặc biệt, điều này càng quan trọng đối với các nước đang phát triển trong nỗ lực theo đuổi sự hội nhập và bắt kịp với các quốc gia phát triển.

1.1 Khái niệm về tăng trưởng, phát triển kinh tế và phát triển bền vững a Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm Nó được thể hiện qua quy mô và tốc độ, trong đó quy mô phản ánh mức độ gia tăng, còn tốc độ cho thấy sự so sánh tương đối giữa các thời kỳ Thu nhập có thể được biểu hiện dưới dạng vật chất hoặc giá trị, với các chỉ tiêu như GDP và GNI, tính cho toàn bộ nền kinh tế hoặc trung bình trên đầu người.

Tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng trong nền kinh tế, ngày nay yêu cầu này phải gắn liền với tính bền vững và chất lượng tăng trưởng cao Điều này nhấn mạnh sự gia tăng liên tục và hiệu quả của quy mô cũng như tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người Quan trọng hơn, quá trình này cần được thúc đẩy bởi các yếu tố quyết định như khoa học, công nghệ và vốn nhân lực, trong bối cảnh một cơ cấu kinh tế hợp lý.

Phát triển kinh tế là quá trình tiến bộ toàn diện của nền kinh tế, bao gồm cả sự thay đổi về lượng lẫn chất Quá trình này không chỉ hoàn thiện về mặt kinh tế mà còn góp phần vào sự phát triển xã hội của mỗi quốc gia.

Phát triển kinh tế là một quá trình dài hạn, phụ thuộc vào các yếu tố nội tại của nền kinh tế Nội dung của sự phát triển này có thể được tóm tắt qua ba tiêu chí chính.

Sự gia tăng tổng thu nhập của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người là yếu tố quan trọng phản ánh quá trình tăng trưởng kinh tế Điều này không chỉ tạo điều kiện cần thiết để cải thiện mức sống vật chất của quốc gia mà còn hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển khác.

Cơ cấu kinh tế - xã hội chuyển dịch theo hướng tiến bộ phản ánh sự biến đổi chất lượng nền kinh tế quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển Quá trình này bao gồm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, đô thị hoá, mở rộng chủng loại và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ Đồng thời, nó gia tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo nền tảng cho tiến bộ xã hội sâu rộng Quan trọng hơn, quá trình này còn nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế, đặc biệt là năng lực khoa học, công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực.

Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế không chỉ là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu, mà còn là nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi người dân thông qua việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng và tăng tuổi thọ bình quân Đảm bảo khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và nước sạch là những tiêu chí quan trọng, phản ánh sự thay đổi chất lượng trong quá trình phát triển bền vững.

Khái niệm "phát triển bền vững" đã xuất hiện khi nhiều quốc gia trên thế giới đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, dẫn đến mối lo ngại về những tác động tiêu cực của sự tăng trưởng nhanh chóng đối với tương lai Qua thời gian, quan niệm về phát triển bền vững đã ngày càng được hoàn thiện và điều chỉnh để phù hợp với những thách thức mới.

Năm 1987, Ngân hàng Thế giới (WB) lần đầu tiên đề cập đến vấn đề phát triển bền vững, định nghĩa rằng phát triển bền vững là việc đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai Khái niệm này tập trung vào việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống cho con người trong quá trình phát triển.

Ngoài ra còn một số quan điểm khác:

Theo A Sen, phát triển được hiểu là quá trình gia tăng các tự do đích thực mà con người có thể trải nghiệm Những tự do này bao gồm khả năng cơ bản như tránh đói khát, thiếu dinh dưỡng, tử vong sớm, và bệnh tật, cùng với các tự do liên quan đến giáo dục, tham gia chính trị và tự do ngôn luận.

Theo tác giả Solow, nhiệm vụ của tính bền vững là đảm bảo rằng thế hệ tương lai không chỉ nhận được những tài nguyên cụ thể mà còn có đủ điều kiện để đạt được mức sống tốt đẹp như chúng ta hiện nay Điều này bao gồm việc chăm sóc cho các thế hệ tiếp theo mà không làm cạn kiệt tài nguyên của nhân loại.

Ngày nay, phát triển bền vững không chỉ chú trọng đến yếu tố môi trường tài nguyên thiên nhiên mà còn đề cao yếu tố môi trường xã hội Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững năm 2002 tại Johannesburg đã xác định rằng phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, cải thiện xã hội và bảo vệ môi trường Tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững bao gồm tăng trưởng kinh tế ổn định, tiến bộ xã hội và bảo vệ chất lượng môi trường sống Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ngày càng coi trọng phát triển bền vững, với chiến lược khẳng định sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và kiểm soát ô nhiễm nhằm hướng tới sự phát triển bền vững.

1.2 Đánh giá sự phát triển kinh tế

Phát triển kinh tế được đo lường qua ba tiêu chí chính: tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự biến đổi trong các chỉ tiêu xã hội Đánh giá tăng trưởng kinh tế là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xác định mức độ phát triển của một quốc gia.

Theo mô hình kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế được đo lường thông qua các chỉ tiêu của Hệ thống Tài sản Quốc gia (SNA), trong đó các chỉ tiêu chủ yếu bao gồm.

Nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế

2.1 Các nhân tố kinh tế a Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung

Tổng cung trong nền kinh tế thường bị ảnh hưởng bởi bốn yếu tố chính: vốn (K), lao động (L), tài nguyên đất đai (R) và công nghệ kỹ thuật (T) Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khả năng sản xuất và phát triển của một quốc gia.

Vốn (K) là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế Vốn sản xuất, từ góc độ vĩ mô, được xem xét dưới dạng tổng vật chất, bao gồm nhà máy, thiết bị, máy móc và các trang bị khác, đóng vai trò là yếu tố đầu vào trong sản xuất Ở các nước đang phát triển, vốn sản xuất thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong tăng trưởng kinh tế, thể hiện tính chất tăng trưởng theo chiều rộng Tuy nhiên, tác động của yếu tố này đang có xu hướng giảm dần và được thay thế bởi các yếu tố khác.

Lao động (L) là yếu tố quan trọng trong sản xuất, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển Tuy nhiên, quy mô và số lượng lao động vẫn chưa phát huy hết tiềm năng do trình độ và chất lượng lao động ở các quốc gia này còn thấp, dẫn đến việc vốn nhân lực chưa được đánh giá cao.

Tài nguyên đất đai (R) là yếu tố đầu vào quan trọng trong sản xuất, được đánh giá về mặt kinh tế dựa trên các tính chất của nó Việc sử dụng hiệu quả tài nguyên không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn tạo ra giá trị gia tăng Đặc biệt, tài nguyên thiên nhiên và đất đai đóng vai trò thiết yếu trong nhiều quy trình sản xuất, đặc biệt tại các nước đang phát triển.

Công nghệ kỹ thuật (T) ngày càng trở thành yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng trong bối cảnh hiện đại Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu cũng đóng vai trò quyết định trong việc hình thành và phát triển nền kinh tế.

Khả năng chi tiêu, sức mua và năng lực thanh toán là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đầu ra của nền kinh tế, tạo thành tổng cầu của nền kinh tế.

Tổng cầu được cấu thành từ bốn yếu tố chính, và những yếu tố này cũng chính là những nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu Kinh tế học vĩ mô đã chỉ ra rằng các yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức tổng cầu trong nền kinh tế.

- Chi tiêu cho tiêu dùng cá nhân (C): bao gồm các khoản chi cố định, chi thường xuyên và các khoản chi tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh.

Chi tiêu của Chính phủ (G) bao gồm các khoản chi cho hàng hóa và dịch vụ Nguồn chi này phụ thuộc vào khả năng thu ngân sách, chủ yếu từ thuế và lệ phí.

Chi cho đầu tư là các khoản chi tiêu cần thiết cho nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp và đơn vị kinh tế, bao gồm cả đầu tư vốn cố định và vốn lưu động Nguồn tài chính cho các khoản chi này chủ yếu được hình thành từ khả năng tiết kiệm của các khu vực trong nền kinh tế.

Chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khẩu (NX - X - M) phản ánh giá trị hàng hóa xuất khẩu, bao gồm các khoản chi cho nguồn lực trong nước, trong khi giá trị nhập khẩu lại là giá trị hàng hóa sử dụng trong nước mà không cần chi phí cho nguồn lực nội địa Do đó, chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu thể hiện khoản chi phí ròng cho quan hệ thương mại quốc tế.

2.2 Các nhân tố phi kinh tế

Tăng trưởng và phát triển của một quốc gia chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố phi kinh tế, bao gồm thể chế chính trị - xã hội, cấu trúc gia đình, dân tộc, tôn giáo, và các đặc điểm tự nhiên như khí hậu Đặc biệt, đặc điểm văn hóa - xã hội đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển, vì trình độ học vấn và lối sống văn hóa là yếu tố quyết định chất lượng lao động, kỹ thuật và quản lý kinh tế - xã hội Trong bối cảnh kinh tế hiện đại, văn hóa phát triển cao là mục tiêu cần hướng tới để thúc đẩy sự phát triển bền vững Ngoài ra, nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội cũng cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo sự phát triển toàn diện của đất nước.

Các thể chế chính trị, kinh tế và xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước, đặc biệt là trong việc thiết lập hành lang pháp lý và môi trường xã hội thuận lợi cho các nhà đầu tư.

Thể chế đóng vai trò là đại diện cho ý chí của cộng đồng, điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội nhằm phục vụ lợi ích chung Nó được cụ thể hóa qua các mục tiêu phát triển, nguyên tắc quản lý kinh tế và xã hội, hệ thống pháp luật, chính sách, cũng như các công cụ và cơ cấu tổ chức thực hiện.

Một thể chế phù hợp với sự phát triển hiện đại cần có tính năng động, nhạy cảm và mềm dẻo, giúp thích nghi với những biến đổi phức tạp từ tình hình trong nước và quốc tế Nó phải bảo đảm sự ổn định của đất nước, khắc phục mâu thuẫn và xung đột trong quá trình phát triển Thể chế này cũng tạo điều kiện cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả, thu hút vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến từ thế giới Đồng thời, cần xây dựng đội ngũ quản lý có năng lực và trình độ khoa học kỹ thuật cao, đủ khả năng áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế Cuối cùng, thể chế này phải kích thích mạnh mẽ mọi nguồn lực vật chất trong nước để đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu.

Cơ cấu dân tộc đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, đặc biệt ở những quốc gia đa dân tộc Sự khác biệt về chủng tộc, khu vực sinh sống và quy mô dân số dẫn đến điều kiện sống không đồng đều, ảnh hưởng đến mức sống và vị trí chính trị xã hội của từng dân tộc Sự phát triển kinh tế có thể mang lại lợi ích cho một số dân tộc nhưng lại gây bất lợi cho những dân tộc khác, dẫn đến xung đột ảnh hưởng đến sự phát triển chung Do đó, cần thiết phải thiết lập tiêu chuẩn bình đẳng, đảm bảo lợi ích cho tất cả các dân tộc, đồng thời bảo tồn bản sắc và truyền thống của mỗi nhóm, nhằm giảm thiểu xung đột và tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế bền vững.

Các vấn đề cơ bản trong phát triển kinh tế

3.1 Phát triển con người và phát triển kinh tế

Con người là tài sản quý giá nhất của mỗi quốc gia, và mục tiêu phát triển là xây dựng một môi trường thuận lợi để người dân có thể sống lâu, khỏe mạnh và phát huy sự sáng tạo.

Theo quan điểm của Liên hợp quốc, phát triển con người là quá trình mở rộng khả năng lựa chọn cho mọi người, với những lựa chọn này có tính chất vô hạn và thay đổi theo thời gian Ở các cấp độ phát triển, con người cần ba khả năng cơ bản để đảm bảo sự tiến bộ và phát triển bền vững.

Để phát triển con người một cách toàn diện, cần đảm bảo cuộc sống trường thọ và khỏe mạnh, cung cấp kiến thức và các nguồn lực cần thiết cho mức sống tốt Tuy nhiên, phát triển không chỉ dừng lại ở đó; sự tự do kinh tế, xã hội và chính trị cũng rất quan trọng, giúp mọi người có cơ hội trở thành những lao động sáng tạo, nâng cao năng suất, được tôn trọng và bảo đảm quyền con người.

Phát triển con người bao gồm hai khía cạnh chính: hình thành và phát triển năng lực cá nhân, cùng với việc ứng dụng những năng lực đó vào các hoạt động kinh tế, giải trí, văn hóa, xã hội và chính trị Điều này nhấn mạnh rằng thu nhập không phải là yếu tố duy nhất quyết định giá trị cuộc sống Mục tiêu của phát triển con người là mở rộng sự lựa chọn và cơ hội cho mỗi cá nhân, không chỉ giới hạn ở việc gia tăng thu nhập.

Chỉ số phát triển con người (HDI) là một chỉ số quan trọng do Cơ quan Phát triển con người của Liên hợp quốc đưa ra nhằm đánh giá và theo dõi sự tiến bộ trong phát triển con người.

3.2 Vấn đề bất bình đẳng và phát triển kinh tế

Đường cong Lorenz và hệ số Gini là những công cụ quan trọng được các nhà kinh tế và thống kê sử dụng để đo lường bất bình đẳng trong phân phối thu nhập trong các nghiên cứu và phân tích kinh tế.

Đường cong Lorenz thể hiện mối quan hệ giữa các nhóm dân số và phần trăm thu nhập của họ so với tổng thu nhập quốc dân, được xây dựng dựa trên phương thức phân phối thu nhập theo quy mô.

Một đường cong Lorenz được xây dựng như Hình 1:

- Trục hoành biểu hiện phần trăm dân số (ký hiệu là Xi);

- Trục tung biểu hiện phần trăm thu nhập (ký hiệu là Yj).

Các trường hợp có thể xảy ra:

Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập không tồn tại khi đường Lorenz trùng với đường 00', tức là tỷ lệ phần trăm dân số tương ứng hoàn toàn với tỷ lệ phần trăm thu nhập.

(2) Bất bình đẳng tuyệt đối trong phân phối thu nhập khi đường Lorenz ở dạng OEO' Khi dó tổng thu nhập về tay một ngưòi.

Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập được thể hiện qua đường cong Lorenz, nằm giữa đường bình đẳng tuyệt đối và đường bất bình đẳng tuyệt đối Mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của các quốc gia có thể được xác định qua khoảng cách của đường cong này so với đường 00' Khi đường cong Lorenz càng xa đường 00' (càng phình rộng), mức độ bất bình đẳng càng tăng cao.

Đường cong Lorenz là một công cụ trực quan hữu ích để mô tả sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, cho phép so sánh mức độ bất bình đẳng giữa các quốc gia thông qua độ cong của nó Tuy nhiên, nó không cung cấp một cách định lượng chính xác về sự bất bình đẳng và có thể gây khó khăn khi sử dụng để so sánh nhiều quốc gia đồng thời.

Do những nhược điểm của đường cong Lorenz, hệ số Gini đã được sử dụng như một chỉ tiêu thay thế để phản ánh sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.

Hệ số Gini là tỷ số giữa diện tích hình bán nguyệt tạo bởi đường cong Lorenz và đường phân giác 00'.

Hệ số Gini là đơn vị để đo độ mất công bằng tổng và nó có thể biến động giữa 0 và 1.

Hệ số Gini các nước mà có sự phân phối thu nhập rất không công bằng: khoảng 0,5 - 0,7.

Những nước có sự phân phối thu nhập tương đối công bằng thì hệ số này biến động từ 0,2 - 0,35.

Hệ số Gini cung cấp những thông tin hữu ích về mức độ và sự thay đổi trong sự bất công bằng thu nhập tương đối.

Hệ số Gini đo lường mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, nhưng chỉ phản ánh khía cạnh tổng quát của vấn đề này Trong một số trường hợp, nó không đủ khả năng để đánh giá các vấn đề cụ thể liên quan đến phân phối thu nhập.

3.3 Vấn đề nghèo khổ và phát triển kinh tế

- Là những người không đảm bảo được mức sống tối thiểu.

- Được thể hiện bằng một mức thu nhập tối thiểu cần để thoả mãn những nhu cầu vật chất cơ bản của con ngưòi.

Một phương pháp phổ biến để xác định nghèo đói là đường nghèo đói quốc tế, được thiết lập bởi Ngân hàng Thế giới và Liên hợp quốc Theo tiêu chí này, những người có thu nhập dưới 370 USD mỗi năm sẽ không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, cụ thể là 2.200 calori mỗi ngày cho mỗi người.

- Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản.

- Chỉ số nghèo khổ HPI.

- Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp.

- Theo phương pháp đếm đầu: số người nằm dưới đường nghèo khổ l USD/ngày/người.

- Khoảng cách nghèo đói: là đơn vị đo tổng thu nhập cần thiết để nâng một người nào đó ở dưới đường nghèo khổ lên trên đường đó.

Nghèo khổ không chỉ được đo lường bằng mức nghèo khổ tuyệt đối mà còn phải xem xét đến nghèo khổ tương đối Mức nghèo khổ tương đối phụ thuộc vào bối cảnh xã hội, vị trí địa lý của cư dân và thói quen tiêu dùng phổ biến trong khu vực đó.

Nghèo khổ tương đối là tình trạng của những người sống dưới mức tiêu chuẩn chấp nhận được tại một địa điểm và thời gian cụ thể Họ cảm thấy bị tước đoạt những quyền lợi và cơ hội mà phần lớn người khác trong xã hội được hưởng.

Chuẩn mực để xem xét nghèo khổ tương đối thường khác nhau

Nghèo khổ tương đối cũng là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.

Nghèo đói ở vùng nông thôn

- Đại bộ phận người nghèo sống ở nông thôn và chủ yếu tham gia vào nông nghiệp và các hoạt động có liên quan đến nông nghiệp.

CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

CÁC NGUỒN LỰC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ

PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH KINH TẾ

NGOẠI THƯƠNG VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Ngày đăng: 26/01/2022, 12:02

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN