Khái niệm về kinh tế học và những đặc trưng của kinh tế học
1 1 Khái niệm về kinh tế học
- Kinh tế học là gì?
Kinh tế học là một ngành khoa học xã hội, tập trung vào việc phân tích cách tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực khan hiếm để sản xuất hàng hóa thiết yếu và phân phối chúng cho các thành viên trong xã hội.
Nguồn lực khan hiếm là những tài nguyên có giới hạn, không đủ để đáp ứng toàn bộ nhu cầu sản xuất của con người Do đó, xã hội cần phải đưa ra quyết định về cách thức sử dụng nguồn lực này, bao gồm việc lựa chọn mục đích sử dụng và đối tượng thụ hưởng, nhằm đạt được hiệu quả tối ưu trong việc thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của mọi người.
- Theo phạm vi nghiên cứu, kinh tế học được chia thành 2 phân ngành đó là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô.
Kinh tế học vi mô tập trung vào việc phân tích hoạt động của các đơn vị kinh tế như doanh nghiệp và hộ gia đình, đồng thời nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả trong từng thị trường cụ thể.
Kinh tế học vĩ mô tập trung vào việc phân tích các yếu tố lớn ảnh hưởng đến nền kinh tế, bao gồm tăng trưởng kinh tế, biến động giá cả, tình hình việc làm và cán cân thanh toán.
* Mối quan hệ giữa kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
Cả hai môn học này đóng vai trò quan trọng trong kinh tế học, không thể tách rời mà bổ sung cho nhau, tạo thành một hệ thống kiến thức về kinh tế thị trường với sự điều tiết của Nhà nước.
Kinh tế học vĩ mô đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra hành lang và môi trường thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế học vi mô Thực tế cho thấy, thành công của kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi mô, và sự phát triển của kinh tế quốc dân gắn liền với sự phát triển của các doanh nghiệp.
- Theo cách tiếp cận kinh tế học được chia ra làm 2 loại đó là kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc
Kinh tế học thực chứng là lĩnh vực nghiên cứu tập trung vào việc mô tả và phân tích các sự kiện cùng mối quan hệ trong nền kinh tế Nó nhằm mục đích giải thích hoạt động của nền kinh tế một cách khách quan và khoa học.
Kinh tế học chuẩn tắc tập trung vào khía cạnh đạo lý trong việc đánh giá và lựa chọn các phương pháp giải quyết vấn đề kinh tế Nó đưa ra quan điểm về cách thức xử lý các tình huống kinh tế thông qua những lựa chọn có tính chất đạo đức.
Kinh tế học thực chứng tập trung vào việc giải đáp các câu hỏi như "bao nhiêu?", "là gì?" và "như thế nào?", trong khi kinh tế học chuẩn tắc hướng đến việc xác định "nên làm cái gì" Quá trình nghiên cứu kinh tế thường bắt đầu từ kinh tế học thực chứng và sau đó chuyển sang kinh tế học chuẩn tắc.
1.2 Những đặc trưng của kinh tế học
Kinh tế học là lĩnh vực nghiên cứu về sự khan hiếm của các nguồn lực, một yếu tố cốt lõi trong việc phát triển lý thuyết kinh tế Do nhu cầu của con người rất đa dạng và phong phú, trong khi nguồn lực lại có hạn, việc cân đối và lựa chọn trở nên cần thiết để sản xuất hàng hóa phù hợp.
Nghiên cứu kinh tế học dựa trên các giả thiết hợp lý, điều này thể hiện qua việc phân tích và lý giải các sự kiện kinh tế Để đạt được kết quả chính xác, cần dựa trên những giả thiết hợp lý và diễn biến cụ thể của sự kiện Tuy nhiên, tính hợp lý của các giả thiết này chỉ mang tính tương đối, phụ thuộc vào điều kiện môi trường của từng sự kiện kinh tế.
Kinh tế học là môn nghiên cứu các khía cạnh lượng hóa trong nền kinh tế Đặc điểm nổi bật của kinh tế học là thể hiện kết quả nghiên cứu thông qua các con số quan trọng Khi phân tích các hoạt động kinh tế, việc chỉ nhận định sự tăng giảm là chưa đủ; mà cần phải hiểu rõ mức độ và cách thức biến đổi của các chỉ số này.
Nghiên cứu kinh tế học toàn diện và tổng hợp yêu cầu xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế trong mối liên hệ với các yếu tố khác của nền kinh tế quốc gia và toàn cầu Điều này giúp hiểu rõ hơn về tác động và mối quan hệ giữa các sự kiện kinh tế trong bối cảnh rộng lớn hơn.
Kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế học thường chỉ được xác định ở mức trung bình do sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau Việc xác định chính xác các yếu tố này là điều không khả thi, dẫn đến sự biến động trong kết quả nghiên cứu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn học
2.1 Đối tượng nghiên cứu kinh tế học vĩ mô
Nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia về các vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản là rất quan trọng, bao gồm tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững và chất lượng cuộc sống của người dân Việc phân tích và hiểu rõ các vấn đề này giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết định đúng đắn nhằm thúc đẩy nền kinh tế và ổn định xã hội.
Kinh tế học vĩ mô cung cấp kiến thức và công cụ phân tích khách quan, giúp các chính phủ đưa ra quyết định chính xác trong việc hoạch định chính sách kinh tế.
Nền kinh tế có thể đạt được thành công hoặc thất bại do nhiều nguyên nhân, bao gồm chính sách kinh tế, quản lý tài nguyên, và sự ổn định chính trị Để nâng cao sự thành công của mỗi nền kinh tế, cần thiết phải thực hiện các chính sách hợp lý như cải cách thuế, đầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng, cũng như khuyến khích đổi mới sáng tạo Việc áp dụng các chiến lược phát triển bền vững cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế lâu dài.
2.2 Phương pháp nghiên cứu kinh tế học
Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế, các nhà kinh tế sử dụng phương pháp quan sát do tính chất phức tạp và sự biến động thường xuyên của chúng, chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khách quan và chủ quan.
- Phương pháp thu thập số liệu phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu.
Để thực hiện phân tích hiệu quả, cần áp dụng các phương pháp phân tích phù hợp với từng sự kiện và chỉ tiêu kinh tế Mỗi trường hợp sẽ yêu cầu cách tiếp cận khác nhau, có thể sử dụng một phương pháp cụ thể hoặc kết hợp nhiều phương pháp phân tích để đạt được kết quả tốt nhất.
Để đạt được kết luận chính xác, cần đối chiếu với thực tế, phát hiện những điểm bất hợp lý và đề ra các giả thuyết mới Sau đó, những giả thuyết này cần được kiểm nghiệm qua thực tế để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.
Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp
3.1 Ba chức năng cơ bản của một nền kinh tế
Tất cả nền kinh tế quốc dân, trong mọi giai đoạn phát triển đều phải thực hiện ba chức năng cơ bản sau:
Quyết định sản xuất sản phẩm nào là một chức năng quan trọng trong nền kinh tế, xuất phát từ việc nguồn lực khan hiếm so với nhu cầu xã hội Nhiệm vụ chính của mỗi nền kinh tế là tối thiểu hóa lãng phí trong sản xuất những sản phẩm không cần thiết và tối đa hóa sản xuất các sản phẩm thiết yếu.
Quyết định sản xuất hiệu quả là việc tối ưu hóa sử dụng đầu vào để đạt được sản lượng sản phẩm mong muốn Điều này giúp tiết kiệm tài nguyên và tăng cường hiệu suất sản xuất.
Quyết định sản xuất cho ai là một yếu tố quan trọng, yêu cầu xác định rõ đối tượng hưởng lợi từ hàng hóa và dịch vụ của quốc gia Cần làm rõ cách phân chia sản phẩm quốc dân cho các hộ gia đình khác nhau để đảm bảo công bằng và hiệu quả trong việc đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Tóm lại, ba chức năng quan trọng mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần thực hiện, bất kể hình thức hay mức độ phát triển, đều liên quan đến việc lựa chọn do nguồn lực sản xuất khan hiếm.
* Cơ sở cho việc lựa chọn này
- Tồn tại các cách sử dụng khác nhau các nguồn lực trong việcc sản xuất ra các sản phẩm khác nhau
- Tồn tại các phương pháp khác nhau để sản xuất ra những sản phẩm cụ thể.
- Tồn tại các phương pháp khác nhau để phân phối hàng hoá và thu nhập cho các thành viên trong xã hội.
3.2 Tổ chức kinh tế một nền kinh tế hốn hợp
Các hệ thống kinh tế khác nhau tổ chức nền kinh tế theo những cách riêng biệt để thực hiện ba chức năng cơ bản Lịch sử phát triển của nhân loại đã chỉ ra nhiều kiểu tổ chức kinh tế khác nhau.
Nền kinh tế tập quán truyền thống tồn tại từ thời công xã nguyên thuỷ, nơi các vấn đề kinh tế cơ bản như sản xuất, phương thức sản xuất và phân phối được quyết định theo tập quán từ thế hệ này sang thế hệ khác Trong mô hình này, xã hội thực hiện tự cung, tự cấp, sản xuất những gì cần thiết bằng tư liệu sản xuất của chính mình mà không cần trao đổi.
- Nền kinh tế chỉ huy (Kế hoạch hoá tập trung): là nền kinh tế trong đó
Chính phủ quyết định mọi vấn đề liên quan đến sản xuất và phân phối hàng hóa Ba chức năng cơ bản của nền kinh tế được thực hiện theo kế hoạch tập trung thống nhất do Nhà nước quản lý.
Nền kinh tế thị trường yêu cầu giải quyết các vấn đề cơ bản như sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai, tất cả đều thông qua hoạt động cung cầu, quan hệ cạnh tranh và giá cả thị trường Trong bối cảnh này, giá cả thị trường đóng vai trò quyết định trong quá trình lựa chọn và ra quyết định, đồng thời phản ánh quan hệ cung cầu và cạnh tranh hiện có.
Nền kinh tế hỗn hợp kết hợp các yếu tố thị trường, chỉ huy và truyền thống, trong đó cả khu vực công và tư nhân đều tham gia kiểm soát nền kinh tế Thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sản lượng và giá cả, trong khi Nhà nước can thiệp thông qua các chính sách thuế, tài chính và luật pháp để điều chỉnh nền kinh tế.
Mô hình kinh tế hỗn hợp của mỗi quốc gia có sự khác biệt, tùy thuộc vào mức độ can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế và thị trường.
* Các tác nhân chia nền kinh tế hỗn hợp thành 4 nhóm sau:
Người tiêu dùng cuối cùng bao gồm tất cả cá nhân và hộ gia đình, họ mua sắm hàng hóa và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mình, thường với thu nhập có hạn.
Các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho xã hội Mục tiêu chính của họ là tối đa hóa lợi nhuận trong khi vẫn tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực sẵn có.
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế khi vừa là nhà sản xuất vừa là người tiêu dùng chính của nhiều hàng hóa và dịch vụ, bên cạnh các nhiệm vụ về an ninh, giáo dục và quốc phòng Ngoài ra, Chính phủ còn cung cấp dịch vụ cho các lĩnh vực như đường sắt, hàng không, thông tin liên lạc và điện lực, đồng thời sở hữu nhiều doanh nghiệp Vai trò của Chính phủ được thể hiện qua ba chức năng cơ bản: chức năng hiệu quả, chức năng công bằng và chức năng ổn định.
Người nước ngoài bao gồm cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ từ các quốc gia khác, có ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế trong nước thông qua việc mua bán hàng hóa và dịch vụ, vay mượn, viện trợ cũng như đầu tư nước ngoài.
Một số khái niệm liên quan cơ bản
Con người sở hữu các yếu tố sản xuất, trong khi nhu cầu của họ là sản phẩm và hàng hóa Quá trình chuyển đổi các yếu tố sản xuất thành những sản phẩm cần thiết cho con người được gọi là quá trình sản xuất.
Vậy yếu tố sản xuất là các đầu vào của quá trình sản xuất và được phân chia thành 3 nhóm như sau:
Đất đai là tài nguyên quý giá do thiên nhiên ban tặng, đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, bao gồm các loại đất canh tác, đất ở và đất xây dựng Thu nhập từ đất chủ yếu đến từ tiền thuê đất, phản ánh giá trị kinh tế mà tài nguyên này mang lại.
Lao động là khả năng của con người được áp dụng trong quá trình sản xuất, và thường được đo lường bằng thời gian Thu nhập từ lao động chủ yếu là tiền lương.
- Vốn: là phương tiện của quá trình sản xuất Thu nhập từ vốn là tiền lãi.
Hiện nay người ta cho rằng trình độ quản lý, công nghệ cũng là đầu vào của quá trình sản xuất.
4.2 Giới hạn khả năng sản xuất
Khi xem xét một nền kinh tế với các yếu tố sản xuất và trình độ công nghệ xác định, việc quyết định sản xuất hàng hóa nào và cách thức sản xuất trở nên quan trọng Nền kinh tế cần phân phối các yếu tố hạn chế giữa hàng nghìn loại hàng hóa khác nhau Giả sử chỉ có hai loại hàng hóa là Máy tính và Ô tô, bảng 1 sẽ trình bày các khả năng lựa chọn tổ hợp giữa hai sản phẩm này khi sử dụng tối đa các yếu tố sản xuất với công nghệ hiện có.
Bảng 1: Những khả năng sản xuất thay thế khác nhau
Khả năng Máy tính (nghìn chiếc) Ôtô (nghìn chiếc)
Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại ta được đường giới hạn khả năng sản xuất.
Hình 1: Đường giới hạn khả năng sản xuất
Phương án A tập trung toàn bộ nguồn lực vào sản xuất ô tô, dẫn đến số lượng máy tính sản xuất ra là tối đa Ngược lại, phương án F hoàn toàn dành cho ô tô, không sản xuất máy tính Khi di chuyển từ phương án A đến F, số lượng máy tính giảm dần trong khi sản lượng ô tô tăng lên.
Các phương án A, B, C, D, E, F đều hiệu quả vì tối ưu hóa nguồn lực; để tăng sản lượng Máy tính, cần giảm sản lượng Ô tô Trong khi đó, phương án M không hiệu quả do chưa khai thác hết nguồn lực, và phương án N không khả thi vì thiếu nguồn lực trong xã hội.
Đường giới hạn khả năng sản xuất thể hiện tập hợp tất cả các phương án sản xuất hiệu quả Một phương án sản xuất được coi là hiệu quả khi để tăng một đơn vị sản phẩm đầu ra, cần phải giảm bớt những đơn vị đầu ra khác.
Trong một giới hạn nguồn lực, chúng ta thường đối mặt với nhiều lựa chọn, tức là các cơ hội khác nhau Khi quyết định chọn một phương án và thực hiện nó, đồng nghĩa với việc bỏ qua những cơ hội khác Cơ hội nào mang lại thu nhập lớn nhất sẽ trở thành chi phí cơ hội của phương án đã được chọn.
Vậy chi phí cơ hội là giá trị của cơ hội tốt nhất bị bỏ qua khi đưa ra một số sự lựa chọn kinh tế khác.
4.4 Một số khái niệm khác
Mọi hoạt động của con người, bao gồm cả hoạt động kinh tế, đều dựa vào việc sử dụng các nguồn lực Tuy nhiên, các nguồn lực này thường khan hiếm và có giới hạn, đặc biệt là các nguồn lực tự nhiên, mà nhiều trong số đó khó hoặc không thể tái sinh.
+ Do dân số tăng dẫn tới nhu cầu sử dụng nguồn lực tăng;
Do sự cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu mới, các tác nhân trong nền kinh tế cần cải tiến và thay đổi phương thức hành động, dẫn đến việc tăng cường nhu cầu sử dụng nguồn lực.
4.4.2 Quy luật lợi suất giảm dần Đây là quy luật phản ánh mối quan hệ giữa đầu vào của quá trình sản xuất với đầu ra mà nó góp phần tạo ra
Khối lượng đầu ra ngày càng giảm khi chúng ta liên tục thêm các đơn vị bằng nhau của một đầu vào biến đổi vào một số lượng cố định của đầu ra khác.
4.4.3 Quy luật chi phí cơ hội ngày một tăng
Quy luật này chỉ ra rằng để tăng cường số lượng một mặt hàng, xã hội cần phải đánh đổi bằng cách giảm dần số lượng các mặt hàng khác.
Quy luật giới hạn khả năng sản xuất minh họa rằng khi nguồn lực được sử dụng hiệu quả, nền kinh tế hoạt động trên đường giới hạn này Tuy nhiên, nếu nguồn lực không được khai thác hết, chi phí cơ hội để sản xuất thêm sản phẩm có thể gần như bằng không.
Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm duy nhất của kinh tế học nói chung và kinh tế học vĩ mô nói riêng.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là việc sử dụng nguồn lực một cách tiết kiệm và hợp lý, nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của con người mà không gây lãng phí.
Hệ thống kinh tế vĩ mô
Nền kinh tế có thể được mô tả qua nhiều cách, trong đó tiếp cận hệ thống cho thấy nền kinh tế như một hệ thống vĩ mô Theo P.A Samuelson, hệ thống này bao gồm ba yếu tố chính: đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế vĩ mô.
- Các yếu tố đầu vào bao gồm:
+ Những tác động từ bên ngoài: Thời tiết, dân số, chiến tranh
Chính sách của Chính phủ đóng vai trò quan trọng như một công cụ điều chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô, nhằm hướng tới các mục tiêu đã được xác định trước.
Các yếu tố đầu ra của nền kinh tế, bao gồm sản lượng sản xuất, việc làm, giá cả và xuất nhập khẩu, đóng vai trò quan trọng trong việc đo lường kết quả của nền kinh tế vĩ mô qua từng thời kỳ.
Hộp đen kinh tế vĩ mô là yếu tố trung tâm trong hệ thống kinh tế vĩ mô, đóng vai trò quyết định đến các biến số đầu ra Hoạt động của hộp đen này chịu ảnh hưởng chủ yếu từ hai lực lượng là tổng cung và tổng cầu.
Tổng cung là tổng sản phẩm quốc dân mà các doanh nghiệp sẽ sản xuất và tiêu thụ trong mỗi giai đoạn, tương ứng với mức giá chung và năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Mức sản lượng tiềm năng là mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể đạt được khi sử dụng toàn bộ nguồn lực lao động mà không dẫn đến lạm phát.
Sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào các yếu tố sản xuất đặc biệt là các yếu tố lao động.
Đường tổng cung thể hiện mối quan hệ giữa sản lượng sản xuất và mức giá chung khi các yếu tố khác không thay đổi Do đó, tổng cung được xem như một hàm phụ thuộc vào giá cả.
- Phân biệt đường tổng cung ngắn hạn và đường tổng cung dài hạn
+ Đường tổng cung dài hạn: là đường song song với trục tung và cắt trục hoành tại mức sản lượng tiềm năng.
Hình 3: Mô hình đường tổng cung
- Tại sao đường tổng cung dài hạn lại là đường thẳng đứng?
Trong dài hạn, khi chi phí đầu vào được điều chỉnh, các doanh nghiệp sẽ không còn động lực để tăng sản lượng Điều này dẫn đến việc giá cả sẽ tăng nhanh chóng để phù hợp với sự thay đổi của mức cầu Do đó, đường tổng cung dài hạn sẽ là một đường thẳng đứng.
Đường tổng cung ngắn hạn bắt đầu với hình dạng tương đối nằm ngang và khi vượt qua mức sản lượng tiềm năng, nó sẽ chuyển sang có độ dốc ngược lên.
Tại sao đường tổng cung ngắn hạn lại là đường có độ dốc ngược lên?
Trong ngắn hạn, các chi phí cố định như tiền công và tiền thuê nhà ảnh hưởng đến lợi nhuận của các hãng sản xuất Khi giá sản phẩm tăng nhẹ, lợi nhuận trên mỗi đơn vị sẽ gia tăng, khuyến khích các hãng mở rộng sản xuất Điều này dẫn đến đường tổng cung ngắn hạn có độ dốc ngược lên.
- Đường tổng cung ngắn hạn phụ thuộc vào giá cả và chi phí;
- Sự dịch chuyển của đường tổng cung;
+ Nếu mức giá đầu vào tăng dẫn đến chi phí sản xuất tăng khả năng sản xuất bị thu hẹp làm cho đường tổng cung dịch chuyển sang trái.
Khi giá đầu vào giảm, chi phí sản xuất sẽ giảm theo, dẫn đến việc các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất Kết quả là đường tổng cung sẽ dịch chuyển sang phải.
Do các nhân tố ngoài giá
Tổng cầu là tổng lượng hàng hóa và dịch vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế có khả năng và sẵn sàng mua tại mỗi mức giá chung, trong khi thu nhập và các yếu tố khác được giữ cố định.
Tổng cầu là tổng hợp chi tiêu của hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ và xuất khẩu ròng, cùng nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến mức sản lượng Sự thay đổi của các yếu tố này sẽ dẫn đến sự biến động của tổng cầu.
- Đường tổng cầu: là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng sản phẩm và mức giá cả chung mà các tác nhân trong nền kinh tế sử dụng.
+ Trục tung biểu thị mức giá cả chung
+ Trục hoành biểu thị mức sản lượng Đường tổng cầu là đường có độ dốc nghiêng xuống
Đường tổng cầu có độ dốc nghiêng xuống vì khi mức giá cả chung giảm, thu nhập thực tế của người dân tăng lên Sự gia tăng thu nhập này dẫn đến khối lượng chi tiêu trong toàn bộ nền kinh tế tăng, từ đó thúc đẩy tiêu dùng và làm tăng tổng cầu.
- Tổng cầu phụ thuộc vào giá cả và thu nhập của dân chúng và các chính sách thuế, chi tiêu của chính phủ.
- Sự dịch chuyển của đường tổng cầu:
+ Khi giá giảm dẫn đến tổng cầu tăng làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
Hình 2: Mô hình đường tổng cầu
+ Khi giá tăng dẫn đến tổng cầu giảm làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
5.3 Cân bằng tổng cung và tổng cầu
Khi kết hợp hai mặt của nền kinh tế, cung và cầu, thông qua các đồ thị AD - AS trên cùng một hệ trục tọa độ, chúng ta nhận thấy hai đường cắt nhau tại điểm E Điểm E được gọi là điểm cân bằng của nền kinh tế, nơi khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất và cung cấp chính xác bằng khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà nền kinh tế cần.
Tại điểm cân bằng tổng cung bằng tổng cầu hay toàn bộ nhu cầu của nền kinh tế được các doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ.
Hình 4: Mô hình cân bằng tổng cung và tổng cầu
Mục tiêu và các công cụ trong kinh tế vĩ mô
6.1 Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một đất nước thường được đánh giá theo 3 dấu hiệu chủ yếu: ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội.
Sự ổn định kinh tế đạt được khi các vấn đề cấp bách như lạm phát, suy thoái và thất nghiệp được giải quyết hiệu quả trong thời gian ngắn.
- Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi giải quyết tốt những vấn đề kinh tế dài hạn hơn có liên quan đến tăng trưởng kinh tế
- Công bằng trong xã hội vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế.
Để đảm bảo sự ổn định, tăng trưởng và công bằng trong nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô cần tập trung vào những mục tiêu cụ thể, trong đó mục tiêu sản lượng đóng vai trò quan trọng.
- Đạt được sản lượng thực tế cao tương ứng với mức sản lượng tiềm năng;
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. b Mục tiêu việc làm
- Tạo được nhiều việc làm tốt;
- Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên. c Mục tiêu ổn định giá cả
Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do. d Mục tiêu kinh tế đối ngoại
- Ổn định tỷ giá hối đoái;
- Cân bằng cán cân thương mại. e Mục tiêu phân phối công bằng: thông qua chính sách phân phối lần đầu và phân phối lại của nền kinh tế.
Nghiên cứu các mục tiêu trên đây chúng ta cần lưu ý:
Các mục tiêu kinh tế lý tưởng bao gồm sản lượng tối đa với toàn dụng nhân công, lạm phát thấp, cán cân thanh toán cân bằng và tỷ giá hối đoái ổn định Tuy nhiên, trong thực tế, các chính sách kinh tế vĩ mô chỉ có khả năng giảm thiểu các sai lệch so với trạng thái lý tưởng này.
Các mục tiêu kinh tế thường hỗ trợ lẫn nhau nhằm đảm bảo sản lượng tối ưu, nhưng cũng có thể dẫn đến xung đột trong một số trường hợp, như giữa các mục tiêu a và e, b và c, hay b và d Trong những tình huống này, các nhà hoạch định chính sách cần xác định thứ tự ưu tiên và có thể phải chấp nhận một số “hy sinh” tạm thời để đạt được mục tiêu tổng thể.
Trong dài hạn, thứ tự ưu tiên giải quyết các mục tiêu phát triển khác nhau giữa các quốc gia Ở các nước đang phát triển, tăng trưởng kinh tế thường được đặt lên hàng đầu Tuy nhiên, nhiều quốc gia đã thành công trong việc đồng thời đạt được các mục tiêu kinh tế trong quá trình phát triển của họ.
6.2 Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu Để đạt đước các mục tiêu kinh tế nêu trên, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau Mối chính sách lại có một công cụ riêng biệt.Dưới đây là một số chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu mà các Chính phủ ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường sử dụng trong lịch sử lâu dài và đa dạng của họ.
Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ để hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tài khoá bao gồm hai công cụ chính là chi tiêu của chính phủ và thuế, ảnh hưởng trực tiếp đến tổng cầu và sản lượng Chi tiêu của chính phủ tăng cường quy mô chi tiêu công cộng, trong khi thuế làm giảm thu nhập và chi tiêu của khu vực tư nhân Hơn nữa, thuế còn có thể tác động đến đầu tư tư nhân và sản lượng trong dài hạn.
Trong khoảng thời gian từ 1 đến 2 năm, chính sách tài khoá có khả năng ảnh hưởng đến sản lượng thực tế và lạm phát, nhằm đạt được các mục tiêu ổn định kinh tế.
Về mặt dài hạn, chính sách tài khoá có thể tác động điều chỉnh cơ cấu kinh tế, giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.
Chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ chủ yếu dựa vào hai công cụ: lượng cung tiền và lãi suất Sự thay đổi trong lượng cung tiền của Ngân hàng Trung ương sẽ dẫn đến sự biến động của lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân, cuối cùng tác động đến tổng cầu và sản lượng trong nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ ảnh hưởng đáng kể đến GNP thực tế trong ngắn hạn, nhưng đồng thời cũng tác động mạnh mẽ đến GNP tiềm năng trong dài hạn thông qua việc thúc đẩy đầu tư.
6.2.3 Chính sách kinh tế đối ngoại
Chính sách kinh tế đối ngoại của các quốc gia có thị trường mở nhằm mục tiêu ổn định tỷ giá hối đoái và duy trì thâm hụt cán cân thanh toán ở mức chấp nhận được.
Chính sách này bao gồm các biện pháp nhằm duy trì sự cân bằng của thị trường hối đoái, quy định về hàng rào thuế quan để bảo vệ thương mại, cùng với các biện pháp tài chính và tiền tệ khác ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
Bài viết này tổng hợp các chính sách và công cụ chính sách chủ yếu phù hợp với nền kinh tế thị trường phát triển Thực tế cho thấy, sự biểu hiện và vận động của các chính sách này rất đa dạng, đặc biệt ở các nước đang phát triển Đây cũng là chủ đề nghiên cứu của môn học lý thuyết phát triển Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận sâu hơn về cơ chế tác động của những chính sách này trong một nền kinh tế thị trường tiêu biểu.
Chính sách thu nhập là tập hợp các biện pháp mà Chính phủ áp dụng để điều chỉnh tiền công và giá cả, nhằm kiểm soát lạm phát hiệu quả.
Chính sách này áp dụng nhiều công cụ khác nhau, bao gồm các biện pháp cứng rắn như quy định về giá cả, tiền lương và các chỉ dẫn chung nhằm xác định mức giá và tiền công Ngoài ra, còn có các quy tắc pháp lý để kiểm soát sự thay đổi giá cả và tiền lương Bên cạnh đó, chính sách cũng sử dụng các công cụ mềm dẻo hơn như hướng dẫn và khuyến khích thông qua thuế thu nhập.
BÀI TẬP CHƯƠNG 1 Bài 1: Câu hỏi đúng/ sai
Tổng sản phẩm quốc dân, thước đo thành tựu của nền kinh tế
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1 Tổng sản phẩm quốc dân ( Gross National Product- GNP)
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là chỉ tiêu kinh tế đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà công dân của một quốc gia sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm, sử dụng các yếu tố sản xuất của chính quốc gia đó.
Tổng sản phẩm quốc dân (GDP) là chỉ tiêu đánh giá kết quả của hàng triệu giao dịch và hoạt động kinh tế của công dân trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm GDP được tính toán bằng cách sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị của các hàng hóa và dịch vụ mà hộ gia đình, doanh nghiệp và Chính phủ chi tiêu trong thời gian này.
Tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa (GNPn) là chỉ tiêu đo lường tổng sản phẩm quốc dân được sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định, dựa trên giá cả hiện tại, tức là giá của thời kỳ đó.
Tổng sản phẩm quốc dân thực tế (GNPr) là chỉ số đo lường tổng sản phẩm quốc dân được sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định, sử dụng giá cả cố định từ một thời kỳ gốc.
1.1.2 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong lãnh thổ quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
Tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa (GDPn) là chỉ số đo lường giá trị của hàng hóa và dịch vụ được tính theo giá hiện hành, tức là giá cả tại thời điểm tương ứng.
Tổng sản phẩm quốc nội thực tế (GDPr) là giá trị của sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế, được tính toán dựa trên mức giá cố định của năm cơ sở.
Mục tiêu tính toán GDP là để đánh giá hiệu quả hoạt động của nền kinh tế GDP thực tế thể hiện lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất, đồng thời phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu và mong muốn của người dân Vì vậy, GDP thực tế (GDPr) cung cấp cái nhìn chính xác hơn về kết quả hoạt động của nền kinh tế so với GDP danh nghĩa (GDPn).
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo thời gian.
Sự tăng trưởng kinh tế không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn đảm bảo an ninh quốc gia Nó khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư và thúc đẩy sự đổi mới trong kỹ thuật cũng như quản lý.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
- Số lượng và chất lượng lao động
- Tích luỹ vốn tư bản
- Công nghệ và tri thức.
1.1.4 Chu kỳ kinh doanh và sự thiếu hụt sản lượng
Nền kinh tế của các quốc gia thường trải qua chu kỳ kinh doanh, bao gồm các giai đoạn đình trệ sản xuất, lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
- Chu kỳ kinh doanh là sự dao động của tổng sản phẩm quốc dân thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng tiềm năng (Qp).
- Độ chênh lệch giữa sản lượng tiềm năng (Qp) và sản lượng thực tế (Qa) gọi là sự thiếu hụt sản lượng.
Nếu mức thiếu hụt sản lượng lớn hơn 0, điều này cho thấy nền kinh tế đang trải qua giai đoạn thiếu hụt sản lượng, với nhiều nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực sản xuất, chưa được khai thác triệt để.
Khi mức thiếu hụt sản lượng nhỏ hơn 0, nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, với sản lượng thực tế (Qa) vượt qua sản lượng tiềm năng (Qp), dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng của giá cả.
Nghiên cứu về sự thiếu hụt sản lượng giúp cho việc tìm ra các biện pháp chống lại chu kỳ kinh doanh nhằm ổn định nền kinh tế.
1.2 Biến danh nghĩa và biến thực tế
Các biến số kinh tế thường được biểu hiện dưới dạng giá trị danh nghĩa, như tổng doanh thu hàng hóa của doanh nghiệp trong một thời kỳ, mức lương hàng tháng hoặc hàng năm của công nhân, tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ mà nền kinh tế tạo ra trong năm 2017, và mức lãi suất cho vay của ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định.
Các biến số danh nghĩa tại một thời điểm cụ thể được tính toán dựa trên mức giá và sức mua của đồng tiền tại thời điểm khảo sát Chẳng hạn, tiền lương danh nghĩa của công nhân năm 2017 là số tiền lương mà họ nhận được trong năm đó, phản ánh giá trị đồng tiền lúc bấy giờ Nếu tiền lương danh nghĩa tăng 10% so với năm 2016 nhưng mức giá chung cũng tăng 10%, sức mua thực tế của đồng tiền giảm 10%, thì không thể khẳng định rằng công nhân trở nên khá giả hơn Do đó, tiền lương danh nghĩa không phải là chỉ số đáng tin cậy để đưa ra kết luận về sự cải thiện đời sống; cần phải quy đổi sang tiền lương thực tế để có cái nhìn chính xác hơn.
Các biến số thực tế được điều chỉnh từ các biến số danh nghĩa theo mức giá chung, giúp loại bỏ yếu tố lạm phát và phản ánh chính xác sự thay đổi của các biến số kinh tế Việc đo giá trị tiền tệ ở các thời điểm khác nhau theo một mức giá cố định cho phép hiểu rõ hơn về tác động thực sự của các yếu tố kinh tế Chẳng hạn, nếu tiền lương danh nghĩa tăng cùng tỷ lệ với giá cả, tiền lương thực tế không thay đổi, cho thấy khả năng mua sắm của công nhân vẫn giữ nguyên Do đó, việc phân biệt giữa các biến số danh nghĩa và thực tế là cần thiết để tránh sai lầm trong phân tích kinh tế.
1.3 Mối quan hệ giữa GDP, GNP và các chỉ tiêu
1.3.1 Mối quan hệ giữa GDP và GNP
( NIA là thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài) NIA = Thu nhập mà dân cư trong nước tạo ra ở nước ngoài
- Thu nhập mà người nước ngoài tạo ra ở trong nước
*So sánh sự giống và khác nhau giữa GDP và GNP
Các phương pháp xác định GDP
2.1 Vòng chu chuyển kinh tế vĩ mô
Một nền kinh tế hoàn chỉnh bao gồm hàng triệu đơn vị kinh tế như hộ gia đình, doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước Những đơn vị này tạo ra một mạng lưới giao dịch kinh tế phong phú trong quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ Để đơn giản hóa, chúng ta sẽ xem xét một nền kinh tế khép kín chỉ với hai tác nhân chính là hộ gia đình và các hãng kinh doanh, bỏ qua khu vực Nhà nước và giao dịch quốc tế.
Những giao dịch hai chiều đó tạo nên dòng luân chuyển kinh tế vi mô được trình bày trong hình dưới đây:
Dòng bên trong thể hiện sự luân chuyển của các nguồn lực thực, bao gồm hàng hóa và dịch vụ từ các doanh nghiệp đến hộ gia đình, cũng như dịch vụ từ các yếu tố sản xuất của hộ gia đình trở lại các doanh nghiệp.
Dòng bên ngoài trong nền kinh tế thể hiện các giao dịch thanh toán bằng tiền, nơi các doanh nghiệp chi trả cho dịch vụ và yếu tố sản xuất, tạo ra thu nhập cho các hộ gia đình Đồng thời, các hộ gia đình sử dụng thu nhập này để thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ do các doanh nghiệp cung cấp.
Hình 2.1: Dòng luân chuyển kinh tễ vĩ mô
Các hộ gia đình không chỉ sở hữu lao động mà còn nắm giữ các yếu tố đầu vào sản xuất như đất đai và vốn Họ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố này cho các doanh nghiệp, góp phần vào quá trình sản xuất và phát triển kinh tế.
Doanh nghiệp sử dụng các yếu tố sản xuất để tạo ra hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho các hộ gia đình Các hộ gia đình nhận thu nhập từ việc cho thuê các yếu tố sản xuất và dùng khoản thu nhập này để chi tiêu cho hàng hóa do doanh nghiệp cung cấp.
Từ sơ đồ vòng luân chuyển kinh tế vĩ mô gợi nên hai cách tính khối lượng sản phẩm trong một nền kinh tế.
- Theo cung trên chúng ta có thể tính được tổng khối lượng các hàng hoá dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế.
Theo dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô, tổng thu nhập từ các yếu tố sản xuất được xác định bởi quyết định chi tiêu của các hộ gia đình, ảnh hưởng trực tiếp đến sự mở rộng hoặc thu hẹp sản xuất trong nền kinh tế.
2.2 Ba phương pháp xác định GDP
2.2.1 Phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm
Theo phương pháp luồng sản phẩm, GDP phản ánh tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà hộ gia đình, doanh nghiệp và Chính phủ tiêu dùng, cùng với xuất khẩu ròng trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
- Tiêu dùng của các hộ gia đình (C)
Tiêu dùng của các hộ gia đình đại diện cho tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà họ mua để phục vụ cho nhu cầu hàng ngày, như cam, chuối và gạo Tuy nhiên, GDP chỉ tính đến những sản phẩm được giao dịch trên thị trường, do đó các hoạt động tự sản xuất của hộ gia đình, như công việc nội trợ và tổ chức bữa tiệc, không được ghi nhận và không thể tập hợp vào trong chỉ số này.
Chú ý: GDP chỉ bao gồm hàng hoá mới được sản xuất ra Hàng hoá mới là hàng hoá lần đầu tiên được giao dịch, mua bán trên thị trường.
- Chi tiêu của doanh nghiệp hay đầu tư (I):
Chi tiêu của doanh nghiệp bao gồm giá trị hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho quá trình tái sản xuất mở rộng, như trang thiết bị, tài sản cố định, nhà ở và văn phòng mới Ngoài ra, chênh lệch hàng tồn kho của các hãng kinh doanh cũng là một phần quan trọng trong chi tiêu này Hàng tồn kho, hay còn gọi là dự trữ, là tài sản lưu động được giữ lại để phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu dùng trong tương lai.
Do đó cần phân biệt 2 khái niệm là tổng đầu tư và đầu tư ròng.
+ Tổng đầu tư là giá trị các tư liệu lao động chưa trừ đi phần đã hao mòn trong quá trình sản xuất.
+ Đầu tư ròng = Tổng đầu tư - Hao mòn tài sản cố định
(Trong tính toán GDP người ta tính tổng đầu tư chứ không tính đầu tư ròng)
Đầu tư là khái niệm liên quan đến tổng tài sản quốc nội và khả năng sản xuất của xã hội, nhằm tạo ra khả năng tiêu dùng trong tương lai Nó thể hiện việc giảm tiêu dùng hiện tại để tăng cường tiêu dùng trong tương lai.
Nếu nền kinh tế giản đơn: GDP = C + I
- Chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ (G)
Chính phủ đóng vai trò là một tác nhân kinh tế và là người tiêu dùng lớn nhất trong nền kinh tế Hàng năm, chính phủ chi tiêu một số tiền khổng lồ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, trường học và bệnh viện Tuy nhiên, các khoản chi tiêu này chỉ được tính cho những giao dịch lần đầu tiên trong nền kinh tế Các khoản thanh toán và chuyển nhượng như bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp, và bảo hiểm y tế (được ký hiệu là TR) là những khoản phân phối lại không gắn liền với hàng hóa và dịch vụ mới được sản xuất, do đó không được tính vào GDP.
Nền kinh tế khép kín có sự tham gia của chính phủ:
- Xuất khẩu (X) và nhập khẩu (IM)
+ Xuất khẩu là hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra ở trong nước nhưng được bán cho người tiêu dùng nước ngoài.
Nhập khẩu là quá trình mua hàng hoá và dịch vụ được sản xuất tại nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Như vậy xuất khẩu làm tăng GDP còn nhập khẩu không nằm trong GDP nên khi xác định GDP cần phải trừ đi nhập khẩu.
Vậy GDP theo luồng sản phẩm cuối cùng trong nền kinh tế mở là
Hay GDP = C + I + G + NX ( trong đó NX là xuất khẩu ròng NX = X - IM)
2.2.2 Phương pháp xác định GDP theo luồng thu nhập hay chi phí
Phương pháp tính GDP này dựa trên chi phí các yếu tố đầu vào trong sản xuất mà doanh nghiệp phải chi trả, bao gồm tiền công, lãi suất vay, chi phí thuê nhà và đất, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, cùng với khoản thu để bù đắp cho sự hao mòn của máy móc, thiết bị và tài sản cố định trong quá trình sản xuất.
Gọi: Chi phí tiền công, tiền lương là: W
Chi phí thuên vốn (lãi suất): i
Chi phí thuê nhà, thuê đất: r
Thuế mà chi phí đánh vào tiêu dùng: Ti
Ta có: GDP = W + r + i + II + De + Ti
2.2.3 Xác định GDP theo phương pháp giá trị gia tăng
GDP là tổng giá trị của hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất Để hàng hoá này đến tay người tiêu dùng, nó phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất, trong đó mỗi doanh nghiệp chỉ đóng góp một phần giá trị để hình thành sản phẩm hoàn chỉnh.
Theo phương pháp giá trị gia tăng, GDP được tính bằng cách tổng hợp tất cả các giá trị gia tăng mà các doanh nghiệp tạo ra trong quá trình sản xuất trong một năm.
Các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản
Các chỉ tiêu GDP, GNP, NNP, Y, YD và các phương pháp xác định chúng là những yếu tố quan trọng trong hệ thống tài khoản quốc gia, đặc biệt tại các nền kinh tế thị trường Hệ thống này cho phép cơ quan quản lý Nhà nước theo dõi và thống kê chính xác các hoạt động kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định Dựa vào số liệu từ tài khoản quốc gia, các mối quan hệ giữa các tác nhân kinh tế có thể được phân tích, giúp phát hiện những vấn đề ẩn sau các con số Từ nguyên lý tính toán của GDP và GNP, chúng ta có thể tập trung vào các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô, trong đó đồng nhất thức được hiểu là sự bằng nhau theo định nghĩa và khái niệm.
3.1 Trong nền kinh tế giản đơn
Trong nền kinh tế giản đơn chỉ bao gồm hai tác nhân kinh tế là các hộ gia đình và các doanh nghiệp.
Giả định rằng thu nhập của các hộ gia đình được chi tiêu hoàn toàn cho hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng, dẫn đến việc chi tiêu tương đương với thu nhập Tuy nhiên, thực tế cho thấy các hộ gia đình thường không sử dụng toàn bộ thu nhập, mà dành một phần cho tiết kiệm (S).
Tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập sau khi tiêu dùng
- Theo phương pháp luồng sản phẩm, tổng sản phẩm được chia thành sản phẩm cho tiêu dùng và sản phẩm cho đầu tư.
3.2 Trong nền kinh tế đóng (có sự tham gia của Chính phủ)
Xuất phát từ công thức tính GDP theo giá thị trường
Nếu công thức thêm bớt một lượng thuế vào phương trình (1) ta có:
Tiết kiệm tư nhân + Tiết kiệm chính phủ = I
Tiết kiệm quốc gia (S) = Đầu tư quốc gia (I)
3.3 Trong nền kinh tế mở có (quan hệ ngoại thương)
GDP theo giá thị trường trong nền kinh tế mở được xác định:
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được tính bằng công thức GDP = C + I + G + X - IM, trong đó có sự tham gia của ngoại thương thông qua xuất khẩu (X) và nhập khẩu (IM) Khi điều chỉnh thêm hoặc bớt thuế vào phương trình này, ta có thể viết lại công thức GDP một cách linh hoạt hơn.
GDP = C + I + G + X - IM + T - T Suy ra: (GDP - C + T) + (T - G) + (IM -X) = I
TK tư nhân TK Chính phủ TK nước ngoài được chuyển vào trong nước
Tổng tiết kiệm quốc gia (S) = Tổng đầu tư quốc gia ( I)
Như vậy, đồng nhất thức này cho biết tổng đầu tư thực tế luôn luôn bằng tổng tiết kiệm thực tế.
Trình bày nội dung Tổng sản phẩm quốc dân và Tổng sản phẩm quốc nội Nêu ý nghĩa của hai chỉ tiêu này.
Câu 2: Trình bày các phương pháp xác định GDP.
Nền kinh tế chỉ sản xuất bút và sách được thiết lập với năm cơ sở là 20015 Thông tin này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển và đặc điểm của nền kinh tế này, từ đó giúp phân tích và trả lời các câu hỏi liên quan đến sản xuất và tiêu thụ trong lĩnh vực này.
1 GDP danh nghĩa và GDP thực tế của năm 2016 lần lượt là: a 800 triệu đồng và 1.060 triệu đồng. b 1.060 triệu đồng và 1.200 triệu đồng. c 1.200 triệu đồng và 1.460 triệu đồng. d 1.200 triệu đồng và 1.060 triệu đồng.
2 Chỉ số điều chỉnh GDP của năm 2016 là a 100% b 113% c 116% d 119% e 138%
3 Tỉ lệ giảm phát (lạm phát) tính theo chỉ số điều chỉnh GDP của năm 2016 và của năm 2017 lần lượt là: a 13% và 16% b 13% và 22% c 16% và 22% d 13% và 38%
4 Tăng trưởng kinh tế của năm 2017 là: a 0% b 7% c 22% d 30%
Có số liệu về các khoản mục trong tài khoản quốc gia của một nước năm 2016 dưới bảng sau (theo giá hiện hành):
Hãy tính các chỉ tiêu sau:
STT Khoản mục Giá trị ( Triệu VNĐ)
1 Tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ 2.204.405
2 Tiền lương của người lao động 14.435.928
3 Lợi nhuận của công ty, xí nghiệp 5.454.909
4 Tiêu dùng cuối cùng của các hộ gia đình 22.153.557
7 Xuất khẩu hàng hoá dịch vụ 6.698.776
8 Đầu tư để tăng TSCĐ 2.816.971
9 Nhập khẩu hàng hoá dịch vụ 9.566.118
10 Các khoản trợ cấp (cho tiêu dùng) 164.672
Thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài đạt 9.619 Để tính GDP và GNP, cần sử dụng cả hai phương pháp: theo giá thị trường và theo yếu tố chi phí cũng như thu nhập Sản phẩm quốc dân ròng (NNP) được xác định theo giá thị trường và theo yếu tố chi phí Cuối cùng, thu nhập quốc dân (Y) cũng là một chỉ số quan trọng trong phân tích kinh tế.
Cho biết những tài khoản quốc dân dưới đây của nền kinh tế giản đơn (ĐVT: tỷ đồng Việt Nam)
1 Khấu hao tài sản cố định 350
3 Lãi suất do công ty trả 500
4 Tiền thuê tài sản cố định 50
6 Tổng đầu tư tư nhân 750
Yêu cầu: Bạn hãy chỉ ra các cách tính có thể tính tổng sản phẩm quốc dân ròng
(NNP) trên cơ sở số liệu trên.