Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc tài chính đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xây dựng Việt Nam.Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc tài chính đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xây dựng Việt Nam.Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc tài chính đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xây dựng Việt Nam.Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc tài chính đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xây dựng Việt Nam.Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc tài chính đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xây dựng Việt Nam.Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc tài chính đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xây dựng Việt Nam.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Các nghiên cứu về mối quan hệ tuyến tính giữa cấu trúc tài chính và hiệu quả kinh
Mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính (CTTC) và hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp (DN) luôn thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm Lý thuyết M&M của Modigliani và Miller (1958) khẳng định rằng giá trị thị trường của DN không phụ thuộc vào CTTC trong điều kiện thị trường hoàn hảo và không có thuế thu nhập doanh nghiệp Khi loại bỏ giả thiết về thuế, M&M cho rằng CTTC có tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh, đặc biệt khi DN sử dụng nợ, hiệu quả này càng gia tăng khi DN được tài trợ hoàn toàn bằng nợ (Modigliani và Miller, 1963) Ngược lại, lý thuyết trật tự phân hạng của Myers và Majluf (1984) chỉ ra rằng DN có khả năng sinh lời cao thường sử dụng ít vốn vay hơn so với DN có khả năng sinh lời thấp, cho thấy tác động tiêu cực giữa CTTC và HQKD.
Theo nghiên cứu năm 1977, hiệu quả của doanh nghiệp sử dụng nợ được xác định bằng hiệu quả của doanh nghiệp không sử dụng nợ cộng với giá trị hiện tại của lợi ích thuế từ nợ, trừ đi giá trị hiện tại của chi phí phá sản Do đó, tồn tại một cấu trúc tài chính tối ưu, trong đó giá trị hiện tại của tiết kiệm thuế do vay nợ tăng đủ để bù đắp cho sự gia tăng chi phí kiệt quệ tài chính Điều này cho thấy cấu trúc tài chính là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Tuy nhiên, mức độ và chiều hướng tác động của các yếu tố này có sự khác biệt giữa các doanh nghiệp và các nhóm doanh nghiệp trong những điều kiện cụ thể.
1.1.1 Cấu trúc tài chính tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Abor (2005) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính và hiệu quả kinh doanh của 20 doanh nghiệp niêm yết tại Ghana, sử dụng dữ liệu tài chính để đưa ra những phát hiện quan trọng.
Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tích cực giữa nợ ngắn hạn và tổng nợ với hiệu quả kinh doanh (HQKD) được đo bằng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), trong khi nợ dài hạn có mối quan hệ ngược chiều với ROE Điều này chỉ ra rằng sự gia tăng quy mô nợ có thể dẫn đến lợi nhuận cao hơn, tức là nợ cao hơn thường tương ứng với HQKD tốt hơn.
(2012) cũng đưa ra kết luận tương tự.
Nghiên cứu của Gill và cộng sự (2011) đã mở rộng quy mô từ nghiên cứu của Abor (2005) với 272 doanh nghiệp tại sàn chứng khoán New York, chia thành hai ngành sản xuất và dịch vụ trong giai đoạn 2005-2007 Kết quả cho thấy, cả hệ số nợ và hệ số nợ ngắn hạn đều có tác động tích cực đến ROE trong cả hai loại hình doanh nghiệp, tương tự như nghiên cứu trước đó của Abor Trong giai đoạn này, ROE trung bình của ngành sản xuất đạt 26,5% và ngành dịch vụ là 25,9% Điểm khác biệt là nợ dài hạn có ảnh hưởng tích cực đến ROE của doanh nghiệp sản xuất, nhưng không có ý nghĩa thống kê đối với ngành dịch vụ Điều này cho thấy, khi áp dụng cùng một mô hình nghiên cứu ở các quốc gia khác nhau, tác động của nợ dài hạn đến ROE có thể khác nhau, và sự phân loại theo ngành nghề cũng dẫn đến sự khác biệt trong tác động này.
Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu ROA và ROE, các tác giả còn mở rộng các chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp như lợi nhuận sau thuế trên doanh thu (ROS), biên lợi nhuận gộp (GM), giá thị trường trên thu nhập một cổ phiếu (P/E), giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (Tobin’s Q), và thu nhập một cổ phiếu phổ thông Chẳng hạn, nghiên cứu của El-Sayed Ebaid (2009) đã phân tích 64 doanh nghiệp phi tài chính trên sàn chứng khoán Ai Cập trong giai đoạn 1997-2005, tập trung vào tác động của hệ số nợ, hệ số nợ ngắn hạn và hệ số nợ dài hạn đến ROA và ROE.
Phương pháp hồi quy OLS cho thấy STD có tác động tích cực đến ROE với mức ý nghĩa 5%, trong khi TD cũng tác động cùng chiều nhưng không có ý nghĩa thống kê Kết quả này một phần phù hợp với nghiên cứu của Abor (2005) và Gill cùng cộng sự (2011) về ảnh hưởng của hệ số nợ ngắn hạn, với ROE trung bình đạt khoảng 21,37% Tuy nhiên, trong mô hình GM tác động đến CCTC, cả ba biến liên quan đến cấu trúc vốn đều không có ý nghĩa thống kê.
Chowdhury và Chowdhury (2010) đã tiến hành nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn (CTTC) lên hiệu quả kinh doanh (HQKD) của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Bangladesh, sử dụng dữ liệu bảng từ 77 doanh nghiệp phi tài chính thuộc 4 lĩnh vực: dược phẩm và hóa chất, nhiên liệu và năng lượng, thực phẩm, và công nghệ kỹ thuật trong giai đoạn 1994-2003 Nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ nợ trên tổng tài sản có ảnh hưởng tích cực đến HQKD, mặc dù độ tin cậy của kết quả không cao Tác giả cũng khuyến nghị rằng cần có sự kết hợp hoàn hảo giữa nợ và vốn chủ sở hữu (VCSH) để xây dựng cấu trúc vốn tối ưu, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nghiên cứu của San và Heng (2011) trước và trong khủng hoảng kinh tế năm 2007 đã phân tích 49 doanh nghiệp xây dựng niêm yết tại Malaysia từ năm 2005 đến 2008 Nghiên cứu áp dụng biến giả và phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa và nhỏ Kết quả cho thấy có mối quan hệ dương giữa nợ dài hạn với hiệu quả kinh doanh (HQKD) được đo bằng ROE và EPS ở các doanh nghiệp lớn và vừa, trong khi tổng nợ lại có mối quan hệ âm với EPS ở doanh nghiệp lớn và nhỏ.
Nghiên cứu của Abu-Rub (2012) về 28 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Palestine trong giai đoạn 2006-2011 cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa cấu trúc vốn và hiệu quả kinh doanh Kết quả này phù hợp với lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn tĩnh và các nghiên cứu thực nghiệm trước đó của Antwi và cộng sự (2012).
Nghiên cứu của Asiri và Hameed (2014) trên TTCK Bahrain Bourse đã phân tích mối quan hệ giữa tỷ số tài chính và giá trị doanh nghiệp thông qua 44 doanh nghiệp niêm yết thuộc 6 ngành khác nhau trong giai đoạn 1995-2003 Các tác giả đã sử dụng hai thước đo hiệu quả kinh doanh là hệ số P/E và tỷ số giá trị thị trường/sổ sách (M/B) Kết quả cho thấy hệ số P/E không giải thích tốt cho mô hình, trong khi tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) và đòn bẩy tài chính lại có tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh, với M/B là biến đại diện.
Nghiên cứu của Hoque và cộng sự (2014) đã phân tích mối quan hệ giữa chính sách cấu trúc tài chính (CTTC) và hiệu quả kinh doanh (HQKD) của các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên sàn chứng khoán Dhaka trong giai đoạn 2008-2012 Kết quả cho thấy các yếu tố độc lập như CTTC (được đo bằng tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu và nợ trên tổng tài sản), tỷ trọng tài sản cố định hữu hình, hệ số thanh toán lãi vay và đòn bẩy tài chính có ảnh hưởng đáng kể đến HQKD của doanh nghiệp, với mức độ tác động lên đến 79,1%.
Nghiên cứu của Farooq và Masood (2016) trong ngành xi măng, sử dụng dữ liệu từ 19 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Karachi trong giai đoạn 2008-2012, đã áp dụng biến Tobin’s Q để đại diện cho hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp, trong khi tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu (VCSH) được sử dụng làm biến phân tích.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp FEM cho thấy CTTC có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê cao (1%) đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp Kết quả này phù hợp với kết luận của Daniel Kon Ater (2017) về các doanh nghiệp niêm yết phi tài chính trên thị trường chứng khoán Nairobi - Kenya Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu (VCSH) đều ảnh hưởng tích cực đến HQKD Do đó, doanh nghiệp cần so sánh lợi ích biên từ việc sử dụng nợ dài hạn với chi phí biên của khoản nợ trước khi quyết định nguồn tài trợ cho hoạt động của mình.
Trong những năm gần đây, một số tác giả tại Việt Nam như Trần Hùng Sơn (2008) đã ủng hộ quan điểm cho rằng cơ cấu tài chính (CTTC) có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp Nghiên cứu của tác giả dựa trên mẫu 50 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sàn chứng khoán HOSE, sử dụng mô hình OLS để phân tích mối quan hệ giữa CTTC và HQKD, trong đó HQKD được đo bằng ROA và ROE, còn CTTC được đo bằng tỷ số nợ ngắn hạn trên tổng tài sản, tỷ số nợ dài hạn trên tổng tài sản, và tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu Kết quả cho thấy có mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ số nợ và ROA, ROE, trong khi tốc độ tăng trưởng và quy mô không có ý nghĩa thống kê.
Các nghiên cứu về mối quan hệ phi tuyến tính giữa cấu trúc tài chính và hiệu quả
(100)Nghiên cứu của Nieh và cộng sự (2008) đã sử dụng dữ liệu bảng cho mẫu gồm
Nghiên cứu về 143 doanh nghiệp điện tử niêm yết trên TTCK Đài Loan giai đoạn 1999-2004 cho thấy tỷ lệ nợ thích hợp cho các doanh nghiệp nằm trong khoảng từ 12,37% đến 51,57%, trong đó tỷ lệ nợ tối ưu từ 12,37% đến 28,7% có khả năng nâng cao hiệu quả kinh doanh (HQKD) Nhóm nghiên cứu cũng đã đưa vào hai biến kiểm soát là tốc độ tăng trưởng và quy mô doanh nghiệp, tuy nhiên, không tìm thấy bằng chứng thống kê cho thấy tác động của hai biến này đến HQKD.
Nghiên cứu của Lin và Chang (2011) tại Đài Loan, diễn ra từ 1993-2005, đã khảo sát 196 doanh nghiệp để xác định ảnh hưởng của nợ đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) Kết quả cho thấy có hai ngưỡng nợ quan trọng: 9,86% và 33,33% Khi tỷ lệ nợ dưới 9,86%, HQKD, đo bằng chỉ số Tobin’s Q, tăng 0,0546% cho mỗi 1% tăng nợ Trong khoảng 9,86% đến 33,33%, HQKD chỉ tăng 0,0057% Nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ nợ tối ưu là dưới 33,33%, tại ngưỡng này, HQKD không còn tăng thêm Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn thiếu bằng chứng thực nghiệm cho mối quan hệ khi tỷ lệ nợ vượt quá 33,33%.
Nghiên cứu tại TTCK Trung Quốc với 650 doanh nghiệp trong giai đoạn 2001-2006 cho thấy rằng, khi tỷ số nợ dưới 53,97%, hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp sẽ tăng nếu họ gia tăng nợ Tuy nhiên, HQKD sẽ bắt đầu giảm dần khi tỷ số nợ nằm trong khoảng từ 53,97% đến 70,48%, và sẽ giảm mạnh khi tỷ lệ nợ vượt quá 70,48%.
Nghiên cứu của Berzkalne (2015) tập trung vào mối quan hệ phi tuyến tính giữa cấu trúc vốn (CTTC) và hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp thông qua phân tích dữ liệu bảng Tác giả đã áp dụng phương pháp phân tích hồi quy ngưỡng với mẫu nghiên cứu gồm 58 doanh nghiệp niêm yết tại khu vực Baltic, trong đó có 22 doanh nghiệp đến từ chính vùng Baltic.
DN thuộc vùng lân cận, giai đoạn nghiên cứu từ năm 2005 đến 2013 Nghiên cứu
Nghiên cứu chỉ ra rằng hệ số nợ và chỉ tiêu tổng nợ/tổng nguồn vốn là đại diện cho khả năng tài chính của công ty, trong khi giá cổ phiếu là chỉ số tốt nhất để phản ánh hiệu quả kinh doanh Các tác giả kết luận có mối quan hệ phi tuyến tính giữa cấu trúc tài chính và hiệu quả kinh doanh Đối với các doanh nghiệp niêm yết tại vùng Baltic với giá trị vốn hóa thị trường nhỏ, việc gia tăng đòn bẩy có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh, đạt đỉnh khi tỷ lệ nợ đạt 24,64% Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nên duy trì tỷ lệ nợ dưới 62,97% để đảm bảo ổn định tài chính.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đỗ Văn Thắng và Trịnh Quang Thiều (2010) đã chỉ ra mối quan hệ giữa giá trị doanh nghiệp và cấu trúc tài chính tối ưu thông qua phương pháp Pooled OLS Nhóm nghiên cứu đã phân tích dữ liệu bảng không cân bằng từ 159 doanh nghiệp phi tài chính và ngân hàng niêm yết trên HOSE, với tổng cộng 407 mẫu quan sát trong giai đoạn 2006-2009 Kết quả cho thấy rằng khi tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu tăng và dưới 105%, giá trị doanh nghiệp có xu hướng tăng theo, nhưng khi tỷ lệ này vượt quá 105%, giá trị doanh nghiệp lại giảm.
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Huân và Lê Nguyễn Quỳnh Hương (2014) cho thấy có mối liên hệ giữa cấu trúc tài chính (CTTC) và hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp, được đo bằng chỉ số ROE, nhưng không phát hiện ra các ngưỡng nợ khác nhau ảnh hưởng đến ROE Tương tự, nghiên cứu về HQKD bằng chỉ số Tobin’s Q của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn TP.HCM và Hà Nội trong giai đoạn 2010-2012 cũng cho kết quả rằng CTTC có tác động tiêu cực đến HQKD và không có sự tồn tại của các ngưỡng nợ khác nhau ảnh hưởng đến Tobin’s Q Ngoài ra, Nguyễn Thành Cường (2014) xác định rằng tỷ lệ nợ tối ưu nên nhỏ hơn 57,39% dựa trên dữ liệu của 90 doanh nghiệp trong giai đoạn 2005-2011.
Tác giả Võ Xuân Vinh và Nguyễn Thành Phú (2014) đã phát hiện ra rằng tỷ số nợ tối ưu tồn tại trong một số nhóm ngành thông qua phương pháp hồi quy ngưỡng Cụ thể, tỷ lệ nợ vay tối ưu cho ngành bán buôn nằm trong khoảng từ 15,87% đến 44-52%, ngành bất động sản từ 41,02% đến 73,00%, ngành vận tải dưới 79,66%, và ngành xây dựng nhỏ hơn 61,28%.
(110) Bảng 1.2 Bảng tổng hợp các bằng chứng thực nghiệm về tác động của cấu trúc tài chính đến hiệu quả kinh doanh theo mối quan hệ phi tuyến tính
(119) Nieh và cộng sự (2008); Cheng và cộng sự (2010); Lin
(120) và Chang (2011); Võ Xuân Vinh và Nguyễn Thành Phú (2014); Nguyễn Thành Cường (2014); Berzkalne (2015)
(122)Không tác động (123)Nguyễn Hữu Huân và Lê Nguyễn Quỳnh Hương
(124) Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Các nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy phân vị để đánh giá hiệu quả kinh
Nghiên cứu thực nghiệm về CTTC thông qua phương pháp hồi quy trên dữ liệu bảng đã được thực hiện rộng rãi với các kỹ thuật như Pooled OLS, FEM, REM và GMM Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp hồi quy phân vị trong lĩnh vực này vẫn còn hạn chế và chưa được khai thác nhiều.
Nghiên cứu của Choi và cộng sự (2014) về cấu trúc vốn của 43 doanh nghiệp xây dựng ở Hàn Quốc trong giai đoạn 2000 đến 2010, sử dụng phương pháp hồi quy phân vị, cho thấy rằng các yếu tố như quy mô, lợi nhuận, cơ hội tăng trưởng, tài sản cố định hữu hình và tính thanh khoản đều ảnh hưởng tích cực đến cấu trúc vốn Ngược lại, yếu tố lá chắn thuế phi nợ lại có tác động tiêu cực đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp này.
(128) Aviral và Raveesh (2015) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến CTTC của 298 DN niêm yết trên sàn chứng khoán Ấn Độ trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm
Năm 2009, nghiên cứu đã áp dụng hồi quy phân vị ở bốn mức 0,25; 0,5; 0,75; và 0,95 để phân tích tác động của các yếu tố quy mô, cấu trúc tài sản, tấm lá chắn thuế và lợi nhuận đến CTTC Kết quả cho thấy, ở các phân vị cao từ 0,75 đến 0,95, yếu tố quy mô và lợi nhuận có tác động tích cực đến CTTC, trong khi cấu trúc tài sản và tốc độ tăng trưởng lại ảnh hưởng tiêu cực đến CTTC.
Trần Thị Kim Oanh và Hoàng Thị Phương Anh (2017) đã nghiên cứu tác động của cấu trúc tài chính đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nghiên cứu này phân tích dữ liệu từ 60 doanh nghiệp ngành chế biến niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2009-2015 Kỹ thuật xử lý dữ liệu bảng và hồi quy phân vị được áp dụng để làm rõ mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này.
DN chịu ảnh hưởng của CTTC, thuế TNDN, rủi ro kinh doanh và khả năng thanh toán với mức độ khác nhau ở từng phân vị Cụ thể, ở phân vị cao, CTTC có tác động mạnh mẽ đến HQKD khi các yếu tố khác không đổi Ngược lại, ở phân vị thấp, HQKD suy giảm đáng kể, trong khi khả năng thanh toán, thuế thu nhập doanh nghiệp và rủi ro kinh doanh tăng lên, dẫn đến HQKD của DN giảm sút.
Hoàng Thị Việt Hà và cộng sự (2019) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, với dữ liệu thu thập từ 269 doanh nghiệp trong giai đoạn 2010-2016 Mô hình nghiên cứu bao gồm các nhân tố như cơ cấu tài chính, quy mô doanh nghiệp, tính thanh khoản, đầu tư tài sản cố định và tỷ lệ tăng trưởng Kết quả phân tích cho thấy quy mô doanh nghiệp có tác động tích cực đến hiệu quả tài chính, trong khi cơ cấu tài chính, tính thanh khoản và đầu tư tài sản cố định lại có ảnh hưởng tiêu cực Tỷ lệ tăng trưởng cũng được xem xét trong nghiên cứu này.
(133) lại không tác động tới hiệu quả tài chính và các tác động trên khác nhau ở các phân vị khác nhau.
Nghiên cứu dựa trên các bằng chứng thực nghiệm trong và ngoài nước cho thấy sự tác động của chính sách tài chính công (CTTC) đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp là đáng tin cậy Các nghiên cứu này chỉ ra rằng có nhiều ngưỡng CTTC khác nhau ảnh hưởng đến HQKD Thêm vào đó, còn có các yếu tố khác ngoài CTTC cũng góp phần tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các nghiên cứu thực nghiệm đã sử dụng các phương pháp như thống kê mô tả, phân tích hệ số tương quan và phân tích hồi quy tuyến tính đa biến với dữ liệu bảng, kèm theo các kiểm định phù hợp Dựa trên các bằng chứng thực nghiệm và phương pháp này, luận án sẽ kế thừa và điều chỉnh một số ý tưởng từ các nghiên cứu trước để phù hợp hơn với nội dung nghiên cứu Mô hình đề xuất và các kỳ vọng nghiên cứu về các biến sẽ được trình bày chi tiết trong chương tiếp theo.
Khoảng trống nghiên cứu
(136) Qua nghiên cứu những tài liệu khoa học và các nguồn tư liệu khác có thể thấy có thể thấy rằng:
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới đã chỉ ra ảnh hưởng của cơ cấu tài chính đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, như các tác giả Zeitun và Gang Tian (2007), Karaca và Savsar (2012), Farooq và Masood (2016) Tại Việt Nam, một số nghiên cứu gần đây của Võ Xuân Vinh và Nguyễn Thành Phú (2014), Le (2015), Trần Thị Kim Oanh và Hoàng Thị Phương Anh (2017), Võ Minh Long (2017) cũng đã đề cập đến vấn đề này Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào dữ liệu từ các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, trong khi ở Việt Nam, tỷ lệ doanh nghiệp niêm yết còn thấp so với các nước phát triển.
Nghiên cứu này nhằm khắc phục tình trạng thiếu hụt dữ liệu về các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, vì chỉ tập trung vào nhóm này sẽ không phản ánh đầy đủ bản chất mối quan hệ giữa công ty và hiệu quả kinh doanh Sử dụng bộ dữ liệu điều tra của Tổng cục Thống kê từ năm 2012 đến 2017, nghiên cứu sẽ khám phá tác động của cơ cấu tài chính đến hiệu quả kinh doanh trong ngành xây dựng, bao gồm cả doanh nghiệp niêm yết và chưa niêm yết, không phân biệt quy mô hay loại hình doanh nghiệp.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu về CTTC và HQKD của doanh nghiệp dưới hình thức bài báo khoa học, báo cáo chuyên đề, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, nhưng vẫn cần tiếp tục khai thác sâu hơn để nâng cao hiểu biết và ứng dụng thực tiễn trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào ảnh hưởng của các yếu tố đến cấu trúc tài chính doanh nghiệp (CTNV) và một số tác động của CTNV đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường chỉ xem xét một khía cạnh của cấu trúc tài chính, chủ yếu là cấu trúc nguồn vốn, mà ít phân tích tác động của cấu trúc tài sản, bao gồm cả tài sản ngắn hạn và dài hạn, đến HQKD Thực tế cho thấy, cách thức doanh nghiệp sử dụng vốn sau khi có được nó lại phụ thuộc vào cấu trúc tài sản Do đó, luận án này sẽ góp phần bổ sung những hạn chế còn tồn tại trong các nghiên cứu trước đây.
Các nghiên cứu trước đây chỉ giải quyết một số điểm yếu của mô hình hồi quy như đa cộng tuyến, tự tương quan và phương sai sai số thay đổi, mà chưa chú trọng đến vấn đề nội sinh, dẫn đến kết quả ước lượng không thuyết phục Để khắc phục vấn đề nội sinh trong mô hình hồi quy với dữ liệu bảng, phương pháp Moment tổng quát GMM sẽ được áp dụng Luận án này không chỉ sử dụng các phương pháp truyền thống như Pooled OLS, FEM, REM mà còn áp dụng GMM để phân tích mối quan hệ giữa CTTC và HQKD của doanh nghiệp xây dựng.
Luận án không chỉ đưa ra kết luận một chiều về ảnh hưởng của CTTC đến HQKD của doanh nghiệp xây dựng mà còn chứng minh sự tác động khác nhau khi thay đổi các phân vị của HQKD Phương pháp hồi quy phân vị được sử dụng để ước lượng cách mà các hệ số của các biến giải thích thay đổi ở các phân vị khác nhau của biến HQKD, theo nghiên cứu của Koenker và Bassett Jr (1978b).
Phương pháp này có ưu điểm nổi bật trong việc khai thác toàn bộ dữ liệu nhờ khả năng xử lý các giá trị bất thường của biến phụ thuộc Điều này khiến nó trở thành lựa chọn lý tưởng để ước lượng tác động của CTTC đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) Luận án sẽ phân tích ảnh hưởng của yếu tố CTTC cùng với các yếu tố khác đến HQKD của DNXD trên các phân vị khác nhau, từ đó đánh giá sự tác động của CTTC và đề xuất các giải pháp phù hợp Đây chính là điểm mới của nghiên cứu này.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động của cơ chế tài chính công (CTTC) đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp tại Việt Nam, vẫn tồn tại một số khoảng trống Cụ thể, các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp niêm yết, trong khi chưa có phân tích toàn diện đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
(ii) Việc đánh giá tác động của CTTC tới HQKD của một ngành kinh tế cụ thể còn chưa nhiều đặc biệt là ngành xây dựng.
Phương pháp hồi quy phân vị chưa được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu để phân tích tác động của CTTC đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của các doanh nghiệp ở các phân vị khác nhau của HQKD.
Nghiên cứu “Phân tích ảnh hưởng của cấu trúc tài chính đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp ngành xây dựng tại Việt Nam” là rất cần thiết, nhằm lấp đầy khoảng trống nghiên cứu đã được phân tích trước đó.
Trong chương này, tác giả tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan đến mối quan hệ giữa cơ cấu tổ chức và hiệu quả kinh doanh Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng cơ cấu tổ chức có tác động đến hiệu quả kinh doanh, tuy nhiên, chiều tác động này không đồng nhất và phụ thuộc vào từng quốc gia, ngành nghề và giai đoạn phát triển kinh tế Các biến thường được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm cơ cấu nhân viên và cơ cấu tài sản, cùng với các biến kiểm soát như tuổi, tăng trưởng và quy mô Qua việc phân tích các nghiên cứu trước, tác giả đã xác định được khoảng trống nghiên cứu cần bổ sung lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa cơ cấu tổ chức và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
Đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng
Doanh nghiệp xây dựng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, gắn liền với sự phát triển của các công trình kiến trúc qua các thời kỳ Nhu cầu xây dựng ngày càng tăng theo sự phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định vị trí của ngành này trong nền kinh tế hiện đại Trước đây, hoạt động xây dựng chủ yếu phục vụ các công trình nhỏ, nhưng hiện nay đã hình thành các Tổng công ty và Tập đoàn xây dựng lớn, góp phần quan trọng vào ngân sách Nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Ngành xây dựng không chỉ là nền tảng cho các ngành khác mà còn được ưu tiên về vốn từ Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn vay từ các tổ chức tài chính, giúp các doanh nghiệp xây dựng tối ưu hóa công trình.
2.1.1 Đặc điểm về sản phẩm
DNXD có những đặc thù riêng về sản phẩm và tổ chức sản xuất xây dựng, điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh tại các doanh nghiệp.
Hoạt động xây dựng là quy trình thiết kế và thi công các công trình kiến trúc, được thực hiện tại địa điểm cụ thể theo yêu cầu của khách hàng Điều này khiến sản phẩm ngành xây dựng mang nhiều đặc điểm của ngành dịch vụ, khác với ngành sản xuất Yếu tố quan trọng nhất trong dịch vụ là sản phẩm phụ thuộc vào yêu cầu của khách hàng, vì vậy chuỗi giá trị của nhà thầu xây dựng cần phải linh hoạt và thích nghi với các yêu cầu đầu ra, điều này trái ngược với ngành sản xuất, nơi đầu ra thường được xác định bởi chuỗi giá trị và dây chuyền sản xuất.
- Hình 2.1 Đặc điểm sản phẩm ngành xây dựng
- Nguồn: Báo cáo ngành xây dựng năm 2018
Sản xuất xây dựng là một lĩnh vực công nghiệp đặc thù, nơi sản phẩm được tạo ra theo đơn đặt hàng và mang tính chất đơn chiếc Mỗi công trình xây dựng yêu cầu kinh nghiệm, kết cấu, hình thức và địa điểm cụ thể, được xác định trong thiết kế dự toán riêng biệt Tính chất đơn lẻ của các công trình dẫn đến chi phí thi công không đồng nhất, khác với các sản phẩm công nghiệp khác Do đó, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp xây dựng thường biến đổi theo từng thời điểm nhận công trình.
Các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) thường đối mặt với khối lượng và giá trị công trình lớn, thời gian thi công kéo dài, và kỳ tính giá sản phẩm không giống như các loại hình doanh nghiệp khác Phương thức thanh toán giữa nhà thầu và khách hàng thường phụ thuộc vào đặc điểm kỹ thuật của từng công trình, dẫn đến việc khách hàng chỉ tạm ứng một phần tiền Do đó, DNXD cần vốn dài hạn với khối lượng lớn, điều này làm tăng rủi ro tài chính và chi phí sử dụng vốn Việc thanh toán chỉ diễn ra sau khi hoàn thành công trình cũng giảm khả năng thanh toán trong giai đoạn sản xuất Thêm vào đó, thời gian thi công dài còn làm tăng nguy cơ mất vốn do hao mòn tài sản cố định hữu hình và vô hình.
Ngành xây dựng thường phải đối mặt với điều kiện thi công ngoài trời, khiến quá trình sản xuất mang tính chất thời vụ Các yếu tố môi trường như thời tiết có ảnh hưởng trực tiếp đến kỹ thuật và tiến độ thi công Do đó, các nhà thầu cần chú ý đến việc quản lý máy móc và vật liệu ngoài trời để đảm bảo hiệu quả công việc.
Thi công xây dựng thường kéo dài và việc thi công ngoài trời có thể dẫn đến những thiệt hại bất ngờ, tạo ra rủi ro cho doanh nghiệp xây dựng Hơn nữa, quá trình sản xuất xây lắp diễn ra tại các địa điểm có sự biến động, trong khi sản phẩm xây lắp lại có tính chất cố định và gắn liền với vị trí cụ thể.
Trong ngành xây dựng, các nhà thầu thường phải thay đổi địa điểm thi công, dẫn đến phát sinh chi phí và rủi ro đặc trưng Hoạt động xây dựng chủ yếu diễn ra vào nửa cuối năm, chịu ảnh hưởng từ thói quen của người Việt Nam Quý 3 và quý 4 là thời điểm cao điểm, khi các công trình thường được khởi công sau Tết âm lịch và hoàn thành trước Tết.
Sản phẩm của các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) có hình thức tiêu thụ khác biệt so với hàng hóa thông thường, vì chúng thường là sản phẩm đơn chiếc và được tiêu thụ theo cách riêng Khác với các hàng hóa khác, sau khi sản xuất, DN không phải lo lắng về việc tiêu thụ mà thường sản xuất theo đơn đặt hàng Sau khi trúng thầu thi công, các đơn vị sẽ ký hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư và thực hiện thi công dựa trên bản vẽ có sẵn Do đó, tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không được thể hiện rõ, vì đây là hàng hóa đặc biệt.
Giá thành sản phẩm xây dựng cao dẫn đến việc thi công thường chia thành nhiều giai đoạn thanh toán Tuy nhiên, nhiều yếu tố như nguồn vốn của chủ đầu tư cạn kiệt, thiên tai, và thủ tục ký hồ sơ chậm trễ gây ra tình trạng thanh toán chậm Khi không được thanh toán kịp thời, đơn vị thi công gặp khó khăn trong việc chuẩn bị nguyên liệu, tạo ra vòng luẩn quẩn về chậm tiến độ, làm tăng giá trị sản phẩm dở dang và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn.
Trong ngành xây dựng, việc thu hồi vốn phụ thuộc lớn vào tiến độ thi công và các điều kiện thanh toán trong hợp đồng Nhiều yếu tố như sai sót trong thiết kế, thời tiết không thuận lợi, chậm giải phóng mặt bằng, và khan hiếm vật liệu có thể làm chậm tiến độ thi công, ảnh hưởng đến nghiệm thu và thu hồi vốn Do đó, các doanh nghiệp xây dựng cần huy động vốn một cách linh hoạt để đáp ứng yêu cầu tiến độ Đặc biệt, ngành xây dựng hạ tầng và đường xá thường bị ảnh hưởng bởi thiên tai và thời tiết, nên cần có biện pháp ứng phó kịp thời như kéo dài thời gian thi công hoặc thi công dồn dập.
2.1.2 Đặc điểm về cấu trúc tài chính
Đối với các doanh nghiệp, vốn được huy động từ hai nguồn chính là vốn chủ sở hữu (VCSH) và nợ phải trả Trong ngành xây dựng, do giá trị sản phẩm lớn, lượng vốn đầu tư trong quá trình thi công là khá cao Khi ký hợp đồng, chủ đầu tư chỉ ứng trước một phần nhỏ so với tổng giá trị công trình, và việc thanh toán từ chủ đầu tư phụ thuộc vào tiến độ thi công cũng như công tác hoàn thiện hồ sơ thanh toán Tiến độ thi công lại chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khách quan và chủ quan Hơn nữa, hồ sơ thanh toán trong xây dựng rất phức tạp, bao gồm hồ sơ khối lượng, hồ sơ chất lượng và hồ sơ hoàn công, dẫn đến việc các doanh nghiệp xây dựng thường không kịp nhận tiền thanh toán và phải huy động vốn vay bên ngoài Do đó, cơ cấu tài chính của các doanh nghiệp xây dựng có những đặc thù riêng so với các ngành khác.
Cấu trúc tài chính của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) không thể thiếu tỷ trọng hàng tồn kho, chủ yếu là tồn kho trong sản xuất Hàng tồn kho trong lưu thông và tiêu thụ gần như không có do vật tư đầu vào luôn sẵn có tại khu vực thi công và sản phẩm xây dựng thường được tiêu thụ trước khi sản xuất Khi mua nguyên vật liệu, các DN thường xuất thẳng vào công trình và không tích trữ nhiều do nguyên vật liệu chiếm diện tích lớn Do đó, hàng tồn kho chủ yếu là sản phẩm dở dang, tức là phần thi công chưa được nghiệm thu Giá trị sản phẩm dở dang cao do nhiều nguyên nhân như chưa đạt điểm dừng kỹ thuật, chất lượng thi công không đảm bảo, hoặc chủ đầu tư chậm nghiệm thu, dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của DNXD.
- Quy trình kinh doanh của các DNXD được thể hiện ở hình 2.2
Hồ sơ dự thầu, đấu thầu
-Hình 2.2 Quy trình kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng
- Nguồn: Báo cáo Hiệp hội Xây dựng Việt Nam
Cơ sở lý luận về cấu trúc tài chính trong doanh nghiệp xây dựng
2.2.1 Khái niệm về cấu trúc tài chính
- Có khá nhiều quan điểm giải thích về CTTC của DN của một số tác giả như sau:
Theo nghiên cứu của Eugene và Joel (2009) cùng Ross và cộng sự (2013), cơ cấu tài chính (CTTC) của doanh nghiệp được hiểu là sự kết hợp giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu (VCSH) theo một tỷ lệ nhất định nhằm tài trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh Quan điểm này cũng được Dare và Sola Olorunfemi (2010) cũng như Đoàn Ngọc Phi Anh (2010) đồng tình Nguyễn Minh Kiều (2014) nhấn mạnh rằng CTTC phản ánh tỷ trọng giữa nợ phải trả và VCSH trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp Do đó, các thành phần chính tạo nên CTTC bao gồm nợ phải trả và VCSH, xác định rằng CTTC chính là cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bảo vệ phương án, biện pháp thi công
Lập phương án tổ chức thi công
Giao cho đơn vị thi công
Tổ chức thi công theo thiết kế và phương án đã được phê duyệt
Tổ chức nghiệm thu khối lượng và chất lượng công trình
Lập biên bản nghiệm thu thanh quyết toán công trình Công trình hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao cho chủ đầu tư, quyết toán
Một cách tiếp cận khác về cơ cấu tài chính của doanh nghiệp (CTTC) được các nhà nghiên cứu đưa ra là sự kết hợp giữa nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu (VCSH) nhằm tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp Các tác giả như McGuigan và cộng sự (2006), Brealey và Myers (2008), Eugene và Joel (2009), cùng với Phạm Thị Thủy và Nguyễn Thị Lan Anh (2012), và Lê Phương Dung và Đặng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ cấu trúc tài chính này trong việc quản lý hiệu quả nguồn lực của doanh nghiệp.
Theo quan điểm của Thị Hồng Giang (2013), CTTC được đánh giá trong phạm vi CTNV, với việc các tác giả xem xét nợ phải trả ở cả hai khía cạnh ngắn hạn và dài hạn.
Một nhóm tác giả đã nghiên cứu cấu trúc tài chính của doanh nghiệp (CTTC) từ hai góc độ khác nhau Thứ nhất, CTTC được hiểu là cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp, và thứ hai, CTTC không chỉ phản ánh cấu trúc nguồn vốn mà còn cả cấu trúc tài sản cùng mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn Quan điểm này đã được Lê Thị Nhu áp dụng trong luận án của mình vào năm 2017 Theo các tác giả, CTTC bao gồm cả cấu trúc nguồn vốn và cấu trúc tài sản, đồng thời nhấn mạnh mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn trong doanh nghiệp.
Các định nghĩa về CTTC cho thấy sự khác biệt trong quan điểm, nhưng cần có một quan điểm thống nhất phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp Trong luận án này, tác giả áp dụng khái niệm CTTC theo Nguyễn Văn Công (2010) và Nguyễn Năng Phúc (chủ biên) (2011), đồng thời điều chỉnh để phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp xây dựng tại Việt Nam.
Theo tác giả, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp (DN) bao gồm cấu trúc nguồn vốn và cấu trúc tài sản Sau khi huy động vốn, việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn được thể hiện qua cấu trúc tài sản Do đó, cấu trúc tài chính được hiểu là sự kết hợp giữa hai yếu tố này, phù hợp với đặc điểm kinh doanh của DN, nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Hình 2.3 Sơ đồ phân loại tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp
- Nguồn: Phạm Thị Thủy và Nguyễn Thị Lan Anh (2012)
2.2.2 Cấu trúc tài sản của doanh nghiệp
Cấu trúc tài sản của doanh nghiệp bao gồm sự kết hợp giữa tài sản ngắn hạn (TSNH) và tài sản dài hạn (TSDH), được xác định qua tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản Dựa vào tính chất và thời gian luân chuyển, tài sản được phân chia thành hai nhóm chính: tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn.
Tài sản ngắn hạn là những tài sản có thời gian luân chuyển dưới một năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh thông thường Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21, tài sản ngắn hạn bao gồm tiền và các khoản tương đương tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho và các tài sản ngắn hạn khác.
Tài sản dài hạn là những tài sản có thời gian luân chuyển trên một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh bình thường Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21, tài sản dài hạn bao gồm các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động sản đầu tư, tài sản dở dang dài hạn, đầu tư tài chính dài hạn và các tài sản dài hạn khác.
- Bảng 2.1 Các chỉ tiêu đo lường cấu trúc tài sản căn cứ theo thời gian luân chuyển
- Chỉ tiêu - Công thức - Ý nghĩa
- Tỷ số TSNH trên tổng tài sản
- Cho biết tỷ trọng TSNH trong tổng tài sản của doanh nghiệp, có nghĩa là TSNH chiếm bao nhiêu
- % trong tổng tài sản của doanh nghiệp
- Tỷ số TSDH trên tổng tài sản
- Cho biết tỷ trọng TSDH trong tổng tài sản của doanh nghiệp, có nghĩa là TSDH chiếm bao nhiêu
- % trong tổng tài sản của doanh nghiệp
- Nguồn: Phạm Thị Thủy và Nguyễn Thị Lan Anh (2012)
Ngành xây dựng thường có tỷ lệ hàng tồn kho và các khoản phải thu ngắn hạn cao trong tổng tài sản, do đó, luận án này sẽ nghiên cứu thêm hai chỉ tiêu này để phản ánh cấu trúc tài sản của doanh nghiệp xây dựng.
- - Tỷ trọng hàng tồn kho
- Tỷ trọng hàng tồn kho = Giá trị hàng tồn kho
Chỉ số này thể hiện giá trị hàng tồn kho trong tổng tài sản của doanh nghiệp Nếu trị số này cao, điều đó cho thấy doanh nghiệp đang gặp tình trạng ứ đọng vốn và hiệu quả kinh doanh không tốt Do đó, cần thực hiện các biện pháp nhanh chóng để nghiệm thu khối lượng hàng hóa còn tồn đọng.
- Tỷ trọng các khoản phải thu ngắn hạn
Tỷ trọng khoản phải thu = Các khoản phải thu ngắn hạn
Chỉ số này phản ánh mức độ chiếm dụng vốn của khách hàng đối với doanh nghiệp Khi trị số này cao, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về vốn kinh doanh và có nguy cơ phá sản Nguyên nhân có thể là do doanh nghiệp quản lý công nợ kém, do đó cần thiết phải thiết lập chính sách thu hồi công nợ hiệu quả và nhanh chóng.
2.2.3 Cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp
Cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành từ sự kết hợp giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu, được đo lường qua các hệ số tài chính như hệ số nợ, hệ số tự tài trợ, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu và hệ số đòn bẩy tài chính Những chỉ tiêu này phản ánh mức độ đóng góp của các nguồn tài trợ khác nhau vào tổng vốn đầu tư, đồng thời cho thấy mức độ sử dụng nợ và khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp Doanh nghiệp có tài sản chủ yếu được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu sẽ có hệ số tự tài trợ cao, hệ số nợ và hệ số đòn bẩy tài chính thấp, dẫn đến hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu cũng ở mức thấp và ngược lại.
Một DN khi cần vốn có thể huy động từ nợ hoặc VCSH để tài trợ cho hoạt động sản xuất.
Nợ phải trả là các khoản tín dụng mà doanh nghiệp huy động từ các nguồn trong nền kinh tế, với cam kết thanh toán nợ gốc và chi phí sử dụng nợ theo thời gian quy định Các hình thức nợ phải trả bao gồm vốn vay, mượn từ bên ngoài hoặc phát hành chứng khoán nợ Dựa theo thời gian, nợ phải trả được phân chia thành nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Nợ ngắn hạn là các khoản nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán trong vòng một năm, tạo áp lực trả nợ cao nhưng lại là nguồn vốn chi phí thấp, thường dùng để tài trợ cho tài sản ngắn hạn Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21, nợ ngắn hạn bao gồm khoản vay ngắn hạn, các khoản phải trả thương mại, thuế và các khoản phải nộp Nhà nước, cùng với dự phòng phải trả ngắn hạn Để giảm thiểu rủi ro trong việc thanh toán nợ đến hạn, doanh nghiệp huy động nợ ngắn hạn nhằm bổ sung nhu cầu vốn ngắn hạn hoặc đầu tư vào tài sản ngắn hạn.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng
2.3.1 Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
Đến nay, nhiều học giả đã nghiên cứu và đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh (HQKD), thường tập trung vào việc so sánh kết quả đầu ra với đầu vào và đánh giá khả năng sử dụng nguồn lực để đạt được mục tiêu kinh doanh Để hiểu một cách chính xác và đầy đủ về HQKD, trước tiên cần làm rõ khái niệm về hiệu quả và kinh doanh.
Vào thế kỷ XVIII, nhà kinh tế học Adam Smith cho rằng hiệu quả trong hoạt động kinh tế được đo lường qua doanh thu tiêu thụ hàng hóa Ông nhấn mạnh rằng nếu hai phương án kinh doanh đạt cùng một kết quả nhưng có mức chi phí khác nhau, thì cả hai đều được xem là có hiệu quả tương đương Như vậy, theo quan điểm của Smith, hiệu quả và kết quả kinh doanh là hai khái niệm đồng nhất.
Alfred Marshall (1842-1924) định nghĩa hiệu quả là mối quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí Quan điểm này phản ánh sự so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí đã tiêu hao, tuy nhiên chỉ tập trung vào phần kết quả và chi phí bổ sung.
Samuelson và Nordhaus, những nhà kinh tế học nổi tiếng của Mỹ, định nghĩa hiệu quả trong kinh tế học là việc sử dụng tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của con người.
Theo tác giả, hiệu quả được đánh giá dựa trên việc sử dụng nguồn lực của nền kinh tế; tuy nhiên, ông chưa cung cấp các đại lượng cụ thể để xác định hiệu quả này.
Hiệu quả là thuật ngữ chỉ sự phân bổ nguồn lực tối ưu, theo Bernard Guerrien (2007), và mối quan hệ giữa đầu vào khan hiếm với sản lượng hàng hóa và dịch vụ, theo Nguyễn Văn Ngọc (2006) Hiệu quả có thể được phân loại thành hiệu quả kỹ thuật (đo lường bằng hiện vật) và hiệu quả kinh tế (đo lường bằng chi phí) Hiệu quả kinh tế phản ánh cách kết hợp các đầu vào để tối thiểu hóa chi phí sản xuất, trong khi hiệu quả kỹ thuật biểu thị cách kết hợp đầu vào tốt nhất để đạt sản lượng nhất định Phạm trù hiệu quả được tiếp cận từ hai góc độ lý luận khác nhau.
Hiệu quả là khái niệm thể hiện mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra trong quá trình thực hiện các mục tiêu Theo cách tiếp cận này, hiệu quả có thể được biểu diễn dưới hai dạng: hiệu số và thương số Cụ thể, khi kết quả đạt được càng lớn so với chi phí bỏ ra, hiệu quả sẽ càng cao.
Hiệu quả là chỉ tiêu phản ánh mức độ thu lại kết quả nhằm đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể, tương ứng với nguồn lực đã bỏ ra Để xác định hiệu quả, hoạt động cần có mục tiêu rõ ràng; nếu không, không thể đánh giá được hiệu quả Hiệu quả thể hiện trình độ sử dụng nguồn lực, trong khi kết quả là mục tiêu mà doanh nghiệp (DN) hướng tới Trong xã hội, có nhiều lĩnh vực hoạt động như kinh tế, chính trị, xã hội, và khi nói đến hiệu quả, người ta thường gắn liền với lĩnh vực cụ thể như hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hay hiệu quả chính trị Hiệu quả kinh tế là quan trọng nhất vì nó ảnh hưởng đến các hoạt động khác trong đời sống xã hội, phản ánh khả năng sử dụng nguồn lực để đạt được mục tiêu kinh tế trong một giai đoạn nhất định Trong phạm vi từng DN, hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả kinh doanh của DN đó.
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam (2014), kinh doanh được định nghĩa là việc thực hiện liên tục các giai đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ, nhằm mục đích sinh lợi Doanh nghiệp (DN) cần đáp ứng đầy đủ điều kiện kinh doanh và tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính đúng hạn, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật DN cũng phải bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động, tạo điều kiện cho họ nâng cao tay nghề, đảm bảo chất lượng hàng hóa, bảo vệ tài nguyên môi trường, di tích lịch sử - văn hóa, thực hiện đạo đức kinh doanh để bảo vệ quyền lợi của khách hàng và người tiêu dùng.
Hiệu quả kinh doanh (HQKD) là một yếu tố quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa, phản ánh khả năng sử dụng các nguồn lực như lao động, máy móc, thiết bị và vốn để đạt được mục tiêu phát triển của doanh nghiệp HQKD được đánh giá thông qua việc nâng cao năng suất và tiết kiệm chi phí trong quá trình sản xuất, đồng thời là thước đo cho trình độ quản lý của doanh nghiệp Sự khan hiếm nguồn lực và nhu cầu gia tăng của xã hội yêu cầu doanh nghiệp phải khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực Nhiều nghiên cứu tại Việt Nam cho rằng HQKD có thể đo bằng hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra Theo tác giả Ngô Đình Giao (1984), HQKD là mối quan hệ tỷ lệ giữa kết quả và các yếu tố chi phí vật chất Tuy nhiên, các quan điểm này thường chưa đề cập đến mức độ sử dụng các nguồn lực, dẫn đến việc chưa thể hiện đầy đủ mối quan hệ giữa chất và lượng giữa kết quả và chi phí.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tạo (2004), hiệu quả kinh doanh không chỉ được đánh giá qua sự so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả đầu ra, mà còn phải xem xét khả năng hoàn thành mục tiêu đề ra Nếu không đạt được mục tiêu, thì không thể nói đến hiệu quả Do đó, việc sử dụng nguồn lực một cách hợp lý để đạt được mục tiêu cũng là yếu tố quan trọng cần được xem xét bên cạnh việc so sánh kết quả.
Theo Lê Thị Bích Thủy (2005), hiệu quả kinh doanh là khái niệm kinh tế phản ánh khả năng sử dụng các nguồn lực tài chính và vật chất của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đề ra Quan điểm này chỉ ra rằng hiệu quả kinh doanh liên quan đến việc khai thác nguồn lực nhằm đạt được kết quả kinh doanh cụ thể, nhưng vẫn còn hạn chế khi chưa xem xét các yếu tố chi phí và kết quả trong một khoảng thời gian nhất định Mặc dù quan điểm này tổng quát, nhưng nó chưa hoàn toàn phản ánh bản chất thực sự của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Theo Bùi Xuân Phong, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh mức độ sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đạt được mục tiêu trong hoạt động sản xuất và kinh doanh.
2010) Quan điểm này cho rằng, HQKD là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức,quản lý kinh doanh để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh (HQKD) được định nghĩa bởi tác giả Nguyễn Văn Công (2010) là một chỉ số kinh tế thể hiện khả năng sử dụng hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả tối ưu với chi phí thấp nhất HQKD không chỉ phản ánh trình độ tổ chức và quản lý mà còn là yếu tố sống còn của doanh nghiệp Một HQKD tốt sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quy mô, đầu tư vào cơ sở vật chất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và quy trình công nghệ mới, từ đó cải thiện đời sống người lao động và nâng cao giá trị doanh nghiệp.
Theo Nguyễn Thu Thủy (2011), doanh nghiệp cần chú trọng đến hiệu quả kinh doanh, tức là khả năng sinh lời từ mỗi đồng vốn đầu tư, không chỉ dừng lại ở chỉ tiêu lợi nhuận Hiệu quả kinh doanh được thể hiện qua nhiều khía cạnh như hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Cơ sở lý thuyết
Cấu trúc tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro và hiệu quả kinh doanh, do đó, hoạch định cấu trúc tài chính là một quyết định quan trọng Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về cấu trúc tài chính, trong đó có các lý thuyết cơ bản liên quan đến vấn đề này.
2.5.2 Lý thuyết cấu trúc tài chính tối ưu
Lý thuyết CTTC tối ưu, hay quan điểm truyền thống về CTTC, cho rằng khi doanh nghiệp bắt đầu vay nợ, lợi ích từ việc vay nợ sẽ vượt trội hơn so với những rủi ro liên quan.
Chi phí sử dụng vốn vay thấp và lợi ích từ "lá chắn thuế" giúp giảm WACC khi nợ tăng Tuy nhiên, khi hệ số nợ gia tăng, rủi ro cũng tăng, dẫn đến yêu cầu tỷ suất sinh lời cao hơn từ chủ sở hữu và lãi suất vay cũng tăng, làm tăng WACC Vì vậy, quan điểm truyền thống cho rằng việc tăng vay nợ đến một mức nhất định sẽ làm tăng WACC, tạo ra một cấu trúc tài chính tối ưu nhằm tối thiểu hóa chi phí vốn và tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.
Quan điểm truyền thống về chi phí vốn chủ sở hữu (VCSH) chưa được thuyết phục do thiếu cơ sở chứng minh sự gia tăng chi phí khi tăng hệ số nợ và chi phí sử dụng nợ trong trường hợp có nguy cơ vỡ nợ Nghiên cứu của Modigliani và Miller (M&M) vào năm 1958 đã đặt nền móng cho các lý thuyết hiện đại về cấu trúc tài chính (CTTC) Sau đó, nhiều lý thuyết như lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn, lý thuyết trật tự phân hạng, lý thuyết tín hiệu thị trường và lý thuyết chi phí đại diện đã được phát triển, bổ sung thêm các giả định để hiện thực hóa lý thuyết CTTC Đồng thời, các nghiên cứu thực nghiệm về CTTC tại các doanh nghiệp trên toàn thế giới đã cung cấp những kết quả hữu ích để kiểm định các lý thuyết này.
2.5.3 Lý thuyết cấu trúc vốn của Modigliani và Miller (M&M)
Lý thuyết cấu trúc vốn của Modigliani và Miller (1958) được xem là nền tảng trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp Để chứng minh tính khả thi của lý thuyết này, họ đã đưa ra một số giả định cực đoan, góp phần làm nổi bật những nguyên tắc cơ bản của cấu trúc vốn.
- Giả định về chi phí giao dịch.
- Giả định về chi phí kiệt quệ tài chính.
- Giả định về thị trường hoàn hảo.
Lý thuyết Modigliani và Miller (M&M) được phát biểu thành hai mệnh đề quan trọng: Mệnh đề thứ I liên quan đến giá trị doanh nghiệp (DN), trong khi mệnh đề thứ II tập trung vào chi phí sử dụng vốn Cả hai mệnh đề này được phân tích trong bối cảnh không có thuế và có thuế Trong trường hợp không có thuế, lý thuyết M&M cho rằng cấu trúc vốn của một DN không ảnh hưởng đến giá trị của nó.
- Để lý thuyết M&M này phát huy tác dụng, các giả thuyết quan trọng sau đây được yêu cầu tuân thủ Các giả thuyết bao gồm:
- Thị trường vốn là hoàn hảo tức là tất cả các nhà đầu tư đều có kỳ vọng như nhau về lợi nhuận nhằm xác định giá trị DN.
- Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của DN bằng 0 và khi có lợi nhuận thì DN sẽ dùng toàn bộ lợi nhuận này để trả cổ tức.
- Không có thuế thu nhập DN và thuế thu nhập cá nhân Tuy nhiên, giả định này sau đó sẽ được loại bỏ dần.
- Không có chi phí giao dịch khi mua và bán chứng khoán.
- Không có chi phí phá sản và chi phí kiệt quệ tài chính khi vay nợ.
- Tất cả các cá nhân và DN đều có cơ hội vay tiền và cùng trả lãi suất như nhau.
- Sau khi thỏa mãn các điều kiện này, lý thuyết M&M được chia thành 2 mệnh đề:
- Mệnh đề thứ I: Giá trị DN trong trường hợp không có thuế
Khảo sát về lý thuyết cấu trúc vốn (CTV) bắt đầu với minh chứng của Modigliani và Miller (1958), cho rằng nguồn tài chính không ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp trong một thị trường vốn hoàn hảo Theo đó, tổng giá trị thị trường của nợ (D) và vốn chủ sở hữu (E) của doanh nghiệp bằng tổng giá trị doanh nghiệp (V) Trong điều kiện không có thuế, giá trị doanh nghiệp không sử dụng nợ sẽ tương đương với giá trị thực của nó.
Doanh nghiệp sử dụng nợ sẽ gặp khó khăn trong việc tối ưu hóa cấu trúc vốn, và việc thay đổi cấu trúc vốn không làm thay đổi giá trị của doanh nghiệp Những dẫn chứng này cho thấy rằng quyết định thay đổi cấu trúc vốn chỉ chuyển dịch giá trị giữa chủ nợ và chủ sở hữu, mà không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Mệnh đề thứ II: Chi phí sử dụng vốn trong trường hợp không có thuế
Theo Modigliani và Miller (1958), đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro cho doanh nghiệp, thể hiện qua sự biến động hiệu quả cao hơn và chi phí vốn của chủ sở hữu cao hơn chi phí vốn của nợ Mệnh đề II chỉ ra rằng chi phí vốn của chủ sở hữu có mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính hoặc tỷ lệ nợ Mệnh đề này đã được chứng minh qua các phân tích tài chính.
- t: thuế suất thu nhập DN, trong trường hợp không có thuế nhập DN: t = 0.
Khi doanh nghiệp sử dụng 100% vốn chủ sở hữu (VCSH), tỷ suất lợi nhuận yêu cầu (rE) sẽ bằng tỷ suất lợi nhuận bình quân (rA) Chi phí VCSH tăng theo tỷ lệ nợ trên VCSH theo giá trị thị trường (D/E), và mức tăng này phụ thuộc vào chênh lệch giữa chi phí vốn bình quân (rA) và chi phí vốn nợ vay (rD) Điều này giải thích tại sao không có sức hấp dẫn trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính Việc thay thế nợ có lãi suất thấp bằng VCSH có chi phí cao sẽ không làm thay đổi chi phí vốn bình quân (rA), vì điều này chỉ làm cho VCSH còn lại trở nên đắt hơn, giữ cho chi phí vốn bình quân không đổi.
Giá trị DN khi có nợ
Hiện giá của lá chắn thuế
Giá trị DN không có nợ
Tóm lại, từ các dẫn chứng và cách tiếp cận về cấu trúc vốn, có thể kết luận rằng trong điều kiện không có thuế, chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp không thay đổi dù có sự thay đổi trong cấu trúc vốn Trong khi đó, theo lý thuyết M&M, khi có thuế, cấu trúc vốn sẽ ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vốn và giá trị doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp vay nợ, chi phí lãi vay phát sinh và có thể được khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp, tạo ra lợi ích tiết kiệm thuế, được gọi là lá chắn thuế lãi vay Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu sự tiết kiệm này có mang lại lợi ích thực sự cho doanh nghiệp hoặc cổ đông hay không Để làm rõ vấn đề này, lý thuyết M&M được chia thành hai mệnh đề: Mệnh đề thứ nhất liên quan đến giá trị doanh nghiệp, trong khi mệnh đề thứ hai tập trung vào chi phí sử dụng vốn.
- Mệnh đề thứ I: Giá trị DN trong trường hợp có thuế
Khi doanh nghiệp sử dụng nợ vay, giá trị của nó sẽ được tăng cường nhờ vào lá chắn thuế từ thuế thu nhập doanh nghiệp Cụ thể, giá trị của doanh nghiệp có nợ vay bằng giá trị của doanh nghiệp không có nợ vay cộng với hiện giá của lá chắn thuế Điều này được minh họa rõ ràng trong hình 2.4.
DN có sử dụng nợ -
= Giá trị của DN không sử dụng nợ -
+ Hiện giá của lá chắn thuế - (2.12) -
- Hình 2.4 Giá trị doanh nghiệp
- Mệnh đề thứ II: Chi phí sử dụng vốn trong trường hợp có thuế
Sử dụng nợ vay giúp doanh nghiệp giảm chi phí sử dụng vốn trung bình (WACC) nhờ vào lá chắn thuế thu nhập doanh nghiệp Tuy nhiên, việc gia tăng đòn bẩy tài chính cũng đồng nghĩa với việc tăng rủi ro cho vốn chủ sở hữu, làm cho chi phí sử dụng vốn của chủ sở hữu tăng khi tỷ lệ nợ gia tăng Chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp được minh họa rõ ràng trong hình 2.5.
-Chi phí sử dụng vốn
-Chi phí sử dụng VCSH khi không có thuế
-Chi phí sử dụng VCSH khi có thuế
- Chi phí sử dụng vốn khi
- Chi phí sử dụng vốn
- bình quân khi có nợ và thuế
- Chi phí sử dụng vốn của nợ
- Hình 2.5 Chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp
Lý thuyết Modigliani và Miller (1958) đã phản biện lý thuyết cổ điển của Durand (1952) khi khẳng định rằng trong điều kiện thị trường vốn hoàn hảo và không có thuế, cấu trúc tài chính (CTV) không ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp (DN) và chi phí sử dụng vốn bình quân Tuy nhiên, khi có thuế, CTV lại làm tăng giá trị DN và giảm chi phí sử dụng vốn bình quân Thực tế cho thấy thị trường vốn thường không hoàn hảo, do đó, nghiên cứu của M&M đóng vai trò quan trọng trong việc khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến CTV và tác động của CTV đến giá trị DN trong bối cảnh thị trường vốn không hoàn hảo.
2.5.4 Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn (Trade Off Theory – TOT)
Thiết kế nghiên cứu
Dựa trên lý thuyết về cơ cấu tài chính (CTTC) và hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp, tác giả đã xác định các vấn đề nghiên cứu chủ yếu Luận án áp dụng cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng, trong đó nghiên cứu định lượng được sử dụng để đánh giá tác động của CTTC cùng với một số biến kiểm soát khác, chẳng hạn như tuổi của doanh nghiệp.
Luận án sẽ phân tích ảnh hưởng của cơ cấu tài chính (CTTC) đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) qua các phân vị khác nhau của HQKD, dựa trên quy mô và tốc độ tăng trưởng của DN Để làm rõ hơn kết quả nghiên cứu định lượng, luận án sẽ áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính bằng cách phỏng vấn sâu các nhà quản trị tài chính của một số DNXD, nhằm thu thập ý kiến chuyên gia và ứng dụng thực tế.
PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CẤU TRÚC TÀI CHÍNH ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM LIÊN QUAN
- Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu ĐỀ XUẤT HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
3.2.1 Phương pháp thu thập số liệu Để tiến hành thu thập dữ liệu cho nghiên cứu, tác giả tiến hành thu thập từ hai nguồn chính là dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp.
Nguồn dữ liệu thứ cấp:
Nghiên cứu định lượng này dựa trên dữ liệu từ Điều tra doanh nghiệp hàng năm của TCTK trong giai đoạn 2012-2017, với mẫu gồm 63.714 doanh nghiệp ngành xây dựng, tạo ra 323.622 quan sát Mục tiêu là phân tích thực trạng các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) tại Việt Nam về số lượng, cơ cấu theo quy mô và loại hình, cũng như đánh giá tác động của cơ cấu tổ chức (CTTC) tới hiệu quả kinh doanh (HQKD) của các DNXD Luận án sử dụng bộ dữ liệu mảng với 91.728 quan sát để thực hiện phân tích này Ngoài ra, nghiên cứu còn khai thác số liệu thứ cấp từ các báo cáo thường niên, báo cáo tài chính và các tài liệu liên quan khác, cùng với thông tin thu thập từ thư viện quốc gia và cơ sở dữ liệu của Viện Sau đại học Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Nguồn dữ liệu sơ cấp:
Nghiên cứu định tính là một phương pháp bổ sung cho nghiên cứu định lượng trong luận án, nhằm đánh giá lại các kết quả đã thu được Cụ thể, luận án thực hiện phỏng vấn sâu với các nhà quản trị tài chính để thu thập thông tin chi tiết và sâu sắc hơn về vấn đề nghiên cứu.
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của chính trị tài chính (CTTC) đến hoạt động kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) thông qua việc phỏng vấn ban lãnh đạo Các cuộc phỏng vấn sẽ kéo dài từ 45 đến 60 phút, diễn ra tại văn phòng hoặc nhà riêng của người tham gia, tùy thuộc vào sự sắp xếp của họ Dữ liệu sẽ được thu thập chủ yếu qua phỏng vấn và quan sát, với các câu hỏi phi cấu trúc, và toàn bộ nội dung sẽ được ghi chép cẩn thận Nghiên cứu cũng sẽ cập nhật các ý tưởng và phát hiện mới từ các cuộc phỏng vấn trước để phục vụ cho việc phân tích dữ liệu cuối cùng.
Mẫu nghiên cứu bao gồm 07 nhà quản trị từ các doanh nghiệp xây dựng, trong đó có 02 giám đốc, 03 trưởng phòng và 02 kế toán trưởng, được chọn theo phương pháp thuận tiện Các đối tượng phỏng vấn chủ yếu đến từ Nam Định và Hà Nội Do yêu cầu bảo mật, thông tin về các đối tượng tham gia không được công khai Thời gian phỏng vấn diễn ra từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2019, sau khi nghiên cứu định lượng đã được hoàn thành.
3.2.2 Phương pháp xử lý dữ liệu Để có được bộ dữ liệu hoàn chỉnh phục vụ cho quá trình nghiên cứu, tác giả đã xử lý, ghép nối từng bộ số liệu như sau:
- Bước 1: Đọc và nghiên cứu bảng hỏi của bộ số liệu Điều tra Doanh nghiệp từ năm 2012- 2017.
Bước 2: Cần giữ lại các chỉ tiêu cần thiết cho nghiên cứu, tuy nhiên do tên các chỉ tiêu có sự thay đổi qua các năm, nên cần thực hiện việc đổi tên các chỉ tiêu nghiên cứu để đảm bảo tính đồng nhất.
Bước 3: Kết nối dữ liệu từ các năm khác nhau và tổ chức thông tin theo mã số thuế của doanh nghiệp cùng với năm nghiên cứu, từ đó tạo ra bộ dữ liệu hoàn chỉnh cho doanh nghiệp.
Bước 4 trong quy trình là tính toán và giảm dữ liệu để chỉ giữ lại những doanh nghiệp đang hoạt động và có doanh thu Cần loại bỏ những doanh nghiệp có thông tin không hợp lý, chẳng hạn như số lao động, tài sản hoặc doanh thu nhỏ hơn 0 Qua đó, sẽ hoàn thành bộ số liệu hoàn chỉnh để sử dụng trong luận án.
Luận án sẽ áp dụng phần mềm Stata 14.0 để thực hiện phân tích thống kê và kinh tế lượng, nhờ vào tính tiện lợi trong việc xử lý dữ liệu và ước lượng các mô hình kinh tế lượng Bên cạnh đó, phần mềm này còn hỗ trợ quản lý chương trình hiệu quả thông qua tính năng “do file”.
Mô hình nghiên cứu
Tác giả đã kế thừa mô hình nghiên cứu từ Jiraporn và Tong (2010), Lin và Su (2008), Đoàn Ngọc Phúc (2014) và Lê Thị Nhu (2017) để phát triển mô hình nghiên cứu nhằm phân tích ảnh hưởng của Chiến lược Tài chính Tổ chức (CTTC) đến Hiệu quả Kinh doanh (HQKD) của các Doanh nghiệp Xây dựng (DNXD).
HQKDit = β0 + β1CTNVit + β2CCTSit + β3CCTKit + β4CCPTit + β5SIZEit + β6GROit + β7AGEit + eit (3.1)
Các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm chỉ ra rằng có nhiều chỉ tiêu khác nhau để đo lường hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp, và những chỉ tiêu này có thể dẫn đến kết quả khác nhau về tác động của cấu trúc tài chính (CTTC) lên HQKD Một số chỉ tiêu phổ biến được sử dụng để đại diện cho HQKD bao gồm tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA), như được đề cập bởi các tác giả như Zeitun và Gang Tian (2007), San và Heng (2011), Đoàn Ngọc Phúc (2014), Nguyễn Hữu Huân và Lê Nguyễn Quỳnh Hương (2014), Nguyễn Thị Tuyết Lan (2019), cũng như các chỉ tiêu khác từ Nieh và cộng sự (2008) và Cheng và cộng sự (2010).
Ngoài ra, còn tồn tại các quan điểm khác chú trọng đến tác động của giá thị trường, ví dụ như việc sử dụng giá trị vốn hóa của cổ phiếu thường theo quan điểm của Rajhans.
Chỉ số Tobin’Q, được giới thiệu vào năm 2013, là một tiêu chí kết hợp giữa giá thị trường và giá trị sổ sách kế toán tài chính, được sử dụng để đo lường hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp Nhiều nghiên cứu đã áp dụng chỉ số này, bao gồm các tác giả như Cheng và cộng sự (2010), Đỗ Văn Thắng và Trịnh Quang Thiều (2010), Lin và Chang (2011), Le Thi Phuong Vy và Phung Duc Nam (2013), cùng với Võ Xuân Vinh và Nguyễn Thành Phú (2014).
Sự lựa chọn các tiêu chí để đánh giá HQKD có thể bị ảnh hưởng bởi mục tiêu của
DN là tiêu chí đánh giá hiệu quả thông qua các chỉ tiêu tài chính và giá trị thị trường, đặc biệt trong thị trường chứng khoán và thị trường vốn Tại Việt Nam, các công ty niêm yết có thể dễ dàng xác định các chỉ tiêu như Tobin’s Q, MBVR, và P/E Tuy nhiên, đối với các DN chưa niêm yết, việc xác định giá trị thị trường gặp nhiều khó khăn do thiếu cơ sở dữ liệu.
Trong nghiên cứu này, tác giả đã phân tích toàn bộ các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) tại Việt Nam trong giai đoạn 2012-2017, kế thừa các nghiên cứu trước đó của Zeitun và Gang Tian (2007), El-Sayed Ebaid (2009), Ahmad và cộng sự (2012), Nguyễn Thị Thúy Phượng (2017), và Nguyễn Thị Tuyết Lan (2019) Tác giả lựa chọn hai chỉ tiêu ROA (Lợi nhuận trên tài sản) và ROE (Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) để đo lường hiệu quả kinh doanh của DNXD tại Việt Nam, vì chúng phản ánh rõ nét khả năng sinh lời và hiệu quả sử dụng tài sản cũng như vốn của doanh nghiệp.
Thứ nhất, hai chỉ tiêu này đã được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng từ rất lâu như
Demsetz và Lehn (1985), Gorton và Rosen (1995), Mehran (1995), cùng với các nghiên cứu gần đây của Zeitun và Gang Tian (2007), San và Heng (2011), Nguyễn Thị Tuyết Lan (2019) cho thấy rằng các nhà quản lý doanh nghiệp thường sử dụng các chỉ tiêu tài chính để đo lường, báo cáo và cải thiện hiệu quả kinh doanh Một ưu điểm nổi bật của các chỉ số này là tính dễ dàng trong việc tính toán.
Theo Shah và cộng sự (2011) cùng Le và Buck (2011), chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh doanh (HQKD) thường là lợi nhuận trên doanh thu (ROS) hoặc lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI) Mặc dù ROI và ROS tương tự như ROA và ROE, nhưng chúng không phản ánh đầy đủ các yếu tố cấu thành tài chính (CTTC) của doanh nghiệp trong việc tác động đến HQKD Do đó, ROA và ROE được xem là hai chỉ tiêu phù hợp hơn để xác định ảnh hưởng của CTTC đến HQKD của doanh nghiệp.
Theo Behn (2003), hiệu quả kinh doanh (HQKD) của một biến đo lường có thể bị ảnh hưởng bởi mục tiêu kinh doanh và sự phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) cũng như thị trường vốn Cụ thể, nếu một quốc gia có TTCK chưa phát triển và thiếu tính năng động, thì các biến đo lường HQKD dựa trên giá trị thị trường sẽ không mang lại kết quả chính xác.
Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) thông qua các tiêu chí như giá trị doanh nghiệp trên thị trường, mục tiêu kinh doanh như Tobin’s Q, P/E, và MBVR gặp nhiều khó khăn Điều này xuất phát từ số lượng lớn DNXD trên toàn quốc, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ chưa niêm yết, dẫn đến việc xác định các chỉ tiêu này thiếu cơ sở và khó khăn trong quá trình tính toán.
Tóm lại, với các lý do trên, luận án sẽ căn cứ vào hai tiêu chí ROA và ROE để làm cơ sở nghiên cứu HQKD của DNXD.
Nhóm biến độc lập bao gồm cả biến giải thích và biến kiểm soát.
(1) Biến giải thích: là biến liên quan đến CTTC bao gồm CTNV và CTTS
- Về CTNV, trên nền tảng lý thuyết về CTV tác động đến HQKD của DN như: Lý thuyết
Mô hình CTV hiện đại của Modigliani và Miller (1958) được củng cố bởi các nghiên cứu thực nghiệm từ nhiều tác giả như Carpentier (2006), Zeitun và Gang Tian (2007), cùng với các nghiên cứu của Cheng và cộng sự (2010), Lin và Chang (2011), Antwi và cộng sự (2012), Le Thi Phuong Vy và Phung Duc Nam (2013), Nguyễn Hữu Huân và Lê Nguyễn Quỳnh Hương (2014), Võ Xuân Vinh và Nguyễn Thành Phú (2014), Berzkalne (2015), và Nguyễn Thị Tuyết Lan (2019) Những nghiên cứu này đã đưa ra các phương pháp tính chỉ tiêu CTNV, bao gồm tỷ số nợ trên tổng tài sản, tỷ số nợ ngắn hạn và dài hạn trên tổng tài sản, cũng như tỷ số giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu Các nghiên cứu của Diamond (1993) và Demirgỹỗ-Kunt cùng Maksimovic (1999) cũng góp phần làm rõ thêm các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn.
DN ở các nền kinh tế đang phát triển, các
Nền kinh tế mới nổi chủ yếu dựa vào nợ ngắn hạn, với hệ số nợ thường được đo lường qua chỉ tiêu tổng nợ phải trả trên tổng tài sản hoặc nợ ngắn hạn trên tổng tài sản Trong ngành xây dựng, nợ ngắn hạn cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ phải trả Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp duy trì mức độ nợ ngắn hạn ổn định qua các năm, khiến khoản nợ này trở thành thường xuyên trên bảng cân đối kế toán Do đó, chỉ tiêu hệ số nợ được xác định bằng tổng nợ phải trả trên tổng tài sản được sử dụng để phản ánh tình hình tài chính Hơn nữa, do hạn chế trong việc xem xét giá trị thị trường, các chỉ tiêu được tính toán dựa trên giá trị sổ sách.
Trong nghiên cứu về cấu trúc tài sản của doanh nghiệp xây dựng (CTTS), tỷ lệ tài sản cố định trên tổng tài sản thường được sử dụng làm chỉ tiêu chính Tuy nhiên, luận án này còn bổ sung thêm hai chỉ tiêu quan trọng là tỷ trọng hàng tồn kho và các khoản phải thu ngắn hạn, dựa trên phân tích từ chương 2 và ý kiến của các nhà quản trị doanh nghiệp Các doanh nghiệp cho rằng tài sản cố định chiếm tỷ lệ lớn do yêu cầu thi công các hạng mục giá trị cao, nhưng hàng tồn kho và khoản phải thu cũng cần được quản lý chặt chẽ để nâng cao hiệu quả hoạt động, bởi việc thu hồi vốn và thanh toán gặp nhiều khó khăn Hầu hết các doanh nghiệp tham gia phỏng vấn đều đồng tình với quan điểm của luận án và cho rằng việc bổ sung các yếu tố tài sản ngắn hạn là hợp lý để phân tích CTTC của doanh nghiệp xây dựng.
Cơ cấu tài sản (CCTS) trong doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, đặc biệt là tài sản cố định như nhà văn phòng, máy móc thi công và phương tiện vận tải Những tài sản này không chỉ đóng vai trò thiết yếu trong việc sản xuất mà còn giúp doanh nghiệp chủ động trong tiến độ thi công Đầu tư vào máy móc đầy đủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp hoàn thành công việc đúng hạn hoặc thậm chí vượt tiến độ Hơn nữa, tài sản cố định còn có thể được sử dụng làm tài sản thế chấp khi doanh nghiệp cần vay vốn từ ngân hàng Các nghiên cứu trước đây của Zeitun và Gang Tian (2007), San và Heng (2011), Choi và cộng sự (2014), Hoque và cộng sự (2014), Trần Thị Kim Oanh và Hoàng Thị Phương Anh (2017) đã cung cấp nền tảng cho luận án này.
Trọng tài sản cố định là chỉ số quan trọng phản ánh cấu trúc tài sản của doanh nghiệp xây dựng (DNXD), với hy vọng rằng việc sở hữu lượng tài sản cố định lớn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh (HQKD) của DNXD.
Tổng quan về các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam giai đoạn 2012-2017
4.1.1 Lịch sử phát triển ngành xây dựng a Giai đoạn sơ khai (1954-1985)
Sau khi giải phóng năm 1954, miền Bắc đã đạt được độc lập và phát triển theo hướng kinh tế kế hoạch tập trung, trong đó Nhà nước nắm quyền điều hành kinh tế và dần xóa bỏ kinh tế tư nhân Trong giai đoạn này, ngành xây dựng chủ yếu do các đơn vị thuộc Chính phủ thống lĩnh, đảm nhận vai trò chủ đạo trong huy động nhân lực và vật lực để thực hiện các dự án xây dựng Bộ Kiến trúc, được thành lập năm 1958, đã trở thành cơ quan quản lý nhà nước cho toàn ngành xây dựng, chịu trách nhiệm về quy hoạch và thực hiện đầu tư, xây dựng cho Nhà nước.
Trong giai đoạn giải phóng miền Nam kéo dài từ 1954 đến 1975, nền kinh tế của cả hai miền Nam và Bắc đều phụ thuộc mạnh mẽ vào viện trợ quốc tế, chủ yếu là từ các nguồn tài trợ bên ngoài.
Trong giai đoạn đầu sau chiến tranh, miền Bắc Việt Nam tập trung vào việc xây dựng hạ tầng và công nghiệp nhằm khôi phục kinh tế, với nhiều công trình lớn như Thủy điện Lào Cai, Thủy điện Thác Bà, Khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên và Khu công nghiệp Việt Trì Tuy nhiên, đến năm 1965, chiến tranh phá hoại của Mỹ đã buộc ngành xây dựng phải chuyển hướng ưu tiên cho các công trình quốc phòng, bao gồm Sân bay Hòa Lạc, Sân bay Đa Phúc và các dự án phòng không.
Sau khi miền Nam được giải phóng vào năm 1975, Việt Nam trải qua giai đoạn bao cấp kéo dài 10 năm (1976 – 1985), trong đó ngành xây dựng đối mặt với nhiều khó khăn do sự sụp đổ kinh tế miền Nam và sự cạn kiệt viện trợ từ các quốc gia xã hội chủ nghĩa Chế độ kinh tế kế hoạch tập trung bộc lộ nhiều điểm yếu, dẫn đến tình trạng đình trệ Tuy nhiên, ngành xây dựng vẫn đạt được những thành tựu quan trọng, tập trung vào việc khôi phục cơ sở hạ tầng và công nghiệp sau chiến tranh, với những công trình tiêu biểu như Nhiệt điện Phả Lại, Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Trị An, Xi măng Hà Tiên và các dự án dầu khí ở Vũng Tàu.
- b Giai đoạn tăng trưởng (1986-đến nay)
Kinh tế đình trệ kéo dài và những thất bại trong cải cách trước đó, như cải cách Giá – Lương – Tiền năm 1985, đã khiến Chính phủ Việt Nam nhận ra cần thiết phải thực hiện cải cách triệt để Vào tháng 12/1986, Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã thông qua chính sách Đổi Mới, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng Chính sách Đổi Mới tập trung vào việc chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường xã hội, với sự đa dạng hóa thành phần kinh tế và hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước.
Sự chuyển đổi mô hình kinh tế đã khởi đầu cho giai đoạn tăng trưởng bền vững của ngành xây dựng Việt Nam, kéo dài cho đến nay Theo Tổng cục Thống kê, trong hơn 30 năm qua kể từ khi thực hiện cải cách Đổi Mới, ngành xây dựng đã đạt mức tăng trưởng thực trung bình 8,8% mỗi năm.
- Hình 4.1 Giá trị thặng dư ngành xây dựng theo giá so sánh năm 2010
- Nguồn: Báo cáo ngành xây dựng
- Sau Đổi mới, những cải cách quan trọng đối với ngành xây dựng trong giai đoạn bao gồm:
- Áp dụng phương pháp đấu thầu trong xây dựng dân dụng và công nghiệp (1986-1990): gia tăng tính minh bạch và cạnh tranh của ngành xây dựng;
- Tách biệt quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh (1996-2000): tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cũng như tính cạnh tranh của thị trường;
Để thúc đẩy sự phát triển của thị trường, cần hoàn thiện khung pháp lý thông qua các luật như Luật Xây dựng (2003, 2014), Luật Nhà ở (2005, 2014) và Luật Đấu thầu (2005, 2013) Các quy định rõ ràng về trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững.
Ng hì n tỷ đồ ng
Kinh tế thị trường đã thu hút sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài, làm giảm thế độc quyền của các doanh nghiệp xây dựng nhà nước và tăng cường tính cạnh tranh trong ngành Trong suốt 30 năm phát triển, ngành xây dựng Việt Nam cho thấy tính chu kỳ rõ rệt, với sự tăng trưởng được phân chia thành nhiều giai đoạn tăng tốc và giảm tốc, đồng thời có sự chênh lệch lớn giữa tốc độ tăng trưởng cao nhất và thấp nhất trong mỗi chu kỳ, có thể lên tới trên 10 điểm phần trăm.
Ngành xây dựng hiện đại Việt Nam, với lịch sử hơn 60 năm, đang trải qua quá trình chuyển dịch từ kinh tế nhà nước sang kinh tế tư nhân Hiện tại, ngành này đã đạt đến giai đoạn cuối của tăng trưởng và chuẩn bị bước vào giai đoạn tái cấu trúc, dẫn đến dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ chậm lại và áp lực cạnh tranh gia tăng Trong ngắn hạn, động lực chính cho tăng trưởng là sản phẩm nhà không để ở, trong khi xây dựng nhà ở và cơ sở hạ tầng lại có tốc độ tăng trưởng thấp.
4.1.2 Bối cảnh ngành xây dựng giai đoạn 2012-2017
Ngành xây dựng, bao gồm xây dựng dân dụng, công nghiệp và cơ sở hạ tầng, có triển vọng phát triển tích cực trong giai đoạn 2012-2017.
Luật Nhà Ở (sửa đổi) 2014 đã cho phép người nước ngoài mua nhà tại Việt Nam, dự kiến sẽ tạo ra một lực đẩy quan trọng cho thị trường bất động sản Hiện chỉ có khoảng 500 trong số 80.000 người nước ngoài ở Việt Nam sở hữu nhà, do đó, việc nới lỏng chính sách này có khả năng kích thích nhu cầu lớn trong phân khúc nhà cao cấp Gói tín dụng 30.000 tỷ cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ ngành bất động sản trong giai đoạn khó khăn 2013-2014, mở ra hướng đi mới để giải quyết các vấn đề trong ngành Hiện có khoảng 91 dự án nhà ở xã hội đang được triển khai với tổng mức đầu tư đáng kể.
Đến năm 2020, Việt Nam cần khoảng 430.000 căn hộ cho người có thu nhập thấp, tương đương với 17,8 triệu m2, với tổng vốn đầu tư khoảng 100.000-120.000 tỷ đồng Trong bối cảnh có khoảng 4,2 triệu lao động có nhu cầu về nhà ở, tương ứng với 33,6 triệu m2, thị trường bất động sản đang dần ấm lên nhờ sự cải thiện của nền kinh tế và các chính sách hỗ trợ từ chính phủ như hạ lãi suất cơ bản và các biện pháp kích cầu Trong đó, 55.830 căn hộ sẽ được chuyển đổi từ nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội.
Ngành công nghiệp sản xuất thu hút lượng vốn đầu tư FDI cao nhất, chiếm từ 40-50% tổng cơ cấu vốn, với mức giải ngân trung bình đạt 4-5 tỷ USD mỗi năm Hiện nay, Việt Nam đang tham gia đàm phán trong 6 hiệp định thương mại quan trọng.
Các hiệp định thương mại tự do mới, bao gồm TPP, kết hợp với những cải cách trong hệ thống logistics và môi trường kinh doanh, tạo ra triển vọng tích cực cho ngành xây dựng công nghiệp trong những năm tới.
- Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Theo Tổng cục Thống kê, Việt Nam có khoảng
Khoảng 40% hệ thống đường bộ hiện có chất lượng thấp và rất thấp, dẫn đến nhu cầu vốn ước tính cho việc nâng cấp lên tới 48-60 tỷ USD đến năm 2020, tương đương với khoảng 202.000 tỷ đồng mỗi năm Chính phủ Việt Nam cũng đã lên kế hoạch xây dựng 26 sân bay, bao gồm 10 sân bay quốc tế và 16 sân bay nội địa, nổi bật là dự án sân bay Quốc Tế Long Thành với tổng vốn đầu tư khoảng 10 tỷ USD Hiện tại, Việt Nam đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt điện năng nghiêm trọng, và việc hoàn thiện khung pháp lý cho hình thức PPP sẽ tạo cơ hội thu hút vốn đầu tư tư nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.
- Xu hướng phát triển ngành xây dựng
Thực trạng cấu trúc tài chính của doanh nghiệp xây dựng Việt Nam giai 2.5.12 đoạn 2012-2017
4.2.1 Thực trạng cấu trúc tài sản của doanh nghiệp xây dựng Việt Nam giai
- đoạn 2012-2017 a Cấu trúc tài sản
Cấu trúc tài sản phản ánh tỷ lệ giữa các bộ phận tài sản và tổng tài sản của doanh nghiệp Cấu trúc tài sản của doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề và chiến lược kinh doanh cụ thể Hơn nữa, cấu trúc tài sản thường có mối liên hệ chặt chẽ với cấu trúc tài chính.
Nguồn hình thành tài sản cần phải tương thích với thời gian sử dụng của tài sản Do đó, các doanh nghiệp có tỷ trọng đầu tư vào tài sản dài hạn lớn thường có khả năng tiếp cận vốn vay tốt hơn nhờ có nhiều tài sản đảm bảo cho các khoản vay Hình 4.7 minh họa tình hình công ty tài sản của các doanh nghiệp xây dựng trong giai đoạn 2012-2017.
- Hình 4.7 Cấu trúc tài sản của doanh nghiệp xây dựng giai đoạn 2012-2017
- Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tỷ trọng tài sản ngắn hạn (TSNH) và tài sản dài hạn (TSDH) của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) trong thời gian nghiên cứu không có nhiều biến động, với TSNH vẫn chiếm hơn 70% tổng tài sản Điều này cho thấy rằng phần lớn máy móc thiết bị thi công của các DNXD giai đoạn này chủ yếu là thuê mướn, cho thấy sự thiếu chú trọng trong việc đầu tư vào máy móc thiết bị.
Tỷ trọng tài sản ngắn hạn (TSNH) đã tăng từ năm 2012 đến 2015 nhưng giảm trong giai đoạn 2016-2017, cho thấy tỷ trọng tài sản dài hạn (TSDH) sẽ tăng vào cuối chu kỳ nghiên cứu Việc đầu tư vào TSDH, chủ yếu là tài sản cố định (TSCĐ), là một chiến lược đúng đắn giúp các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh Tuy nhiên, sự gia tăng tỷ trọng TSDH chủ yếu tập trung ở một số DNXD lớn có vị thế trên thị trường, trong khi nhiều DNXD nhỏ vẫn sở hữu công nghệ lạc hậu Điều này phản ánh đặc thù của ngành xây dựng tại Việt Nam, nơi mà phần lớn DNXD hoạt động chủ yếu với vai trò thầu phụ, trong khi thầu chính chủ yếu thuộc về các DNXD lớn, dẫn đến việc họ phải thuê mướn máy móc và thiết bị từ bên ngoài.
Để có cái nhìn sâu sắc hơn về CTTS của các doanh nghiệp xây dựng (DNXD), cần phân tích tỷ trọng tài sản dài hạn (TSDH) của các DNXD theo quy mô doanh nghiệp.
- Hình 4.8 Tỷ trọng tài sản dài hạn của các doanh nghiệp xây dựng phân loại theo quy mô doanh nghiệp
- Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tỷ trọng TSDH của các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) phân loại theo quy mô cho thấy sự khác biệt rõ rệt, với các DN quy mô nhỏ có tỷ lệ đầu tư TSDH cao từ 42% đến 55%, trong khi DN lớn chỉ đạt từ 23% đến 37% DN siêu nhỏ và vừa lại có tỷ trọng TSDH rất thấp, chỉ từ 4% đến 8% và 11% đến 16% tương ứng Điều này cho thấy DN quy mô nhỏ có khả năng đầu tư TSDH tốt hơn, giúp nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh DN lớn cũng có nguồn TSDH dồi dào để đảm bảo các khoản vay từ bên ngoài Tuy nhiên, tỷ trọng TSDH trong tổng tài sản của DNXD đã giảm đáng kể từ năm 2012 đến 2017, cho thấy sự mất cân đối trong cấu trúc tài sản Với vai trò tạo ra sản phẩm có giá trị lớn cho xã hội, các DNXD cần có chính sách mở rộng TSDH để phục vụ tốt hơn cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Bảng 4.8 chỉ ra rằng một số doanh nghiệp xây dựng trong mẫu có tỷ trọng tài sản cố định rất thấp, có thể do họ chưa chú trọng đầu tư vào tài sản cố định trong thời gian dài Ngược lại, nhóm doanh nghiệp có tỷ trọng tài sản cố định cao thường chú trọng đầu tư vào máy móc thiết bị, nhờ vào chiến lược phát triển và khả năng tài chính tương đối tốt của họ.
- Bảng 4.8 Tỷ trọng tài sản cố định của một số doanh nghiệp xây dựng trong mẫu nghiên cứu giai đoạn 2012-2017
- Tỷ trọng tài sản cố định (lần)
- Các công ty có tỷ trọng tài sản cố định trung bình cao
1 - Công ty Cổ phần Tasco - 0,321
- 2 - Tổng Công ty Cầu Thăng Long - CTCP - 0,353
- 3 - Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Phát triển Chiến
- Các công ty có tỷ trọng tài sản cố định trung bình thấp
- 1 - Công ty Cổ phần Tập đoàn Xuân Trường - 0,025
- 2 - Công ty Cổ phần Xuân Trường 18 - 0,008
- 3 - Công ty Cổ phần Sông Đà 10 - 0,040
- 4 - Công ty Cổ phần Xây dựng số 9 - 0,874
- Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu báo cáo tài chính b Tỷ trọng hàng tồn kho và khoản phải thu
Trong ngành xây dựng, tỷ trọng hàng tồn kho chủ yếu là sản phẩm dở dang, chiếm từ 80% đến 90% giá trị hàng tồn kho Giá trị hàng tồn kho cao trong doanh nghiệp xây dựng cho thấy tình trạng ứ đọng vốn lớn, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Theo hình 4.9, tỷ trọng hàng tồn kho trong giai đoạn 2012-2017 biến động mạnh, đạt mức cao nhất 27,16% vào năm 2013 và thấp nhất 11,77% vào năm 2016 Sự giảm đáng kể của tỷ trọng hàng tồn kho trong tổng tài sản của các doanh nghiệp xây dựng vào năm 2016 là do Chính phủ tích cực triển khai bán nhà ở xã hội và đẩy mạnh đầu tư công.
Tỷ trọng khoản phải thu trong tổng tài sản là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng thu hồi vốn từ các chủ đầu tư Chỉ số này càng cao cho thấy khả năng thu hồi tiền từ các chủ đầu tư tốt hơn, đồng nghĩa với hiệu quả sử dụng vốn cao và giảm thiểu rủi ro tài chính trong thanh toán Hình 4.9 minh họa tỷ trọng khoản phải thu trong các năm 2012 và 2013.
2014 gần như không thay đổi nhiều đến năm 2015 tỷ trọng này tăng lên 28,68% và năm
Từ năm 2016 đến 2017, tỷ lệ thu hồi công nợ của các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) có sự biến động lớn, giảm từ 15,03% xuống 29,32%, cho thấy khả năng thu hồi không đồng đều qua các năm và có xu hướng giảm dần Trung bình, trị số này dao động khoảng 0,25 lần, cho thấy khoảng 25% vốn của các DNXD luôn bị chủ đầu tư chiếm dụng và chưa được thanh toán.
- Hình 4.9 Tỷ trọng hàng tồn kho và khoản phải thu trong tổng tài sản của các doanh nghiệp xây dựng giai đoạn 2012-2017
- Nguồn: Tổng cục Thống kê
4.2.2 Thực trạng cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp xây dựng Việt Nam giai đoạn 2012-2017
Trong giai đoạn 2012-2017, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều biến động lớn, bao gồm sự tăng trưởng mạnh mẽ nhờ hội nhập quốc tế và tác động tiêu cực từ khủng hoảng tài chính toàn cầu Chính phủ đã triển khai các chính sách nhằm ổn định nền kinh tế sau khủng hoảng Ngành xây dựng cũng không ngoại lệ, đối mặt với nhiều thách thức trong thời kỳ này, điều này được thể hiện rõ qua tình hình doanh nghiệp xây dựng tại Việt Nam.
Do đặc thù của ngành, các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) thường sử dụng nợ vay để thực hiện dự án, dẫn đến việc có khoản nợ vay lớn trong tổng nguồn vốn Từ năm 2012 đến 2016, nợ phải trả của các DNXD tăng đều với tỷ lệ 16,13%/năm, cho thấy sự gia tăng mạnh mẽ trong tổng tài sản và nguồn vốn Việc tiếp cận nhiều nguồn vốn vay, đặc biệt là gói kích cầu kinh tế 30.000 tỷ của Chính phủ, đã góp phần vào việc nới lỏng nợ vay cho các DNXD Trong giai đoạn này, vốn góp của chủ sở hữu vào tổng nguồn vốn của các DNXD cũng tăng đáng kể, đạt 282.333 tỷ đồng trong 6 năm từ 2012-2017.
- Hình 4.10 Cấu trúc nguồn vốn của các doanh nghiệp xây dựng giai đoạn 2012-
- Nguồn: Tính toán của tác giả
Cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp xây dựng được xác định bởi sự kết hợp giữa nợ vay và vốn chủ sở hữu Nghiên cứu này sử dụng chỉ số tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản để phản ánh cấu trúc nguồn vốn Tỷ lệ nợ phải trả được tính bằng tổng giá trị sổ sách của nợ phải trả chia cho tổng nguồn vốn, bao gồm cả nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Cấu trúc nguồn vốn trung bình của các doanh nghiệp xây dựng trong giai đoạn này duy trì ở mức cao, luôn trên 60% Mặc dù có sự gia tăng vào năm 2013, xu hướng giảm sau đó diễn ra nhưng không đáng kể.
2017 chỉ còn 61,89%, đây cũng là mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua.
- Hình 4.11 Tình hình biến động cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp xây dựng giai đoạn 2012-2017
- Nguồn: Tổng cục Thống kê
Kết quả nghiên cứu định lượng
Bảng 4.14 trình bày thống kê mô tả các biến trong mẫu nghiên cứu với tổng cộng 91.728 quan sát Đối với biến CTNV và CCPT, có 91.408 quan sát; biến CCTK và SIZE ghi nhận 91.540 quan sát; trong khi biến GRO chỉ có 83.758 quan sát.
Trong giai đoạn 2012-2017, các biến đo hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) cho thấy sự chênh lệch đáng kể giữa giá trị trung bình, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất Cụ thể, giá trị nhỏ nhất của hai biến số đều âm, trong khi giá trị lớn nhất lại tương đối cao, điều này phản ánh sự khác biệt rõ rệt trong hiệu quả hoạt động của các DN trong thời kỳ này.
Chỉ tiêu CTNV của các doanh nghiệp xây dựng đạt giá trị trung bình 19,7%, cho thấy rằng các doanh nghiệp này chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và tiếp cận nguồn vốn vay với mức thấp.
Chỉ tiêu CCTS, CCPT, CCTK của các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) lần lượt có giá trị trung bình là 0,265; 0,359; 0,502, cho thấy giá trị tồn kho chiếm trên 50% tổng tài sản Trong khi đó, tài sản cố định chỉ chiếm 26,5% tổng tài sản, cho thấy tỷ trọng thấp Ngoài ra, các khoản phải thu cũng có giá trị trung bình cao trong tổng tài sản của DNXD.
- Số năm trung bình các DNXD hoạt động trên thị trương tính tới thời điểm điều tra là 7,34 năm, doanh nghiệp có số tuổi lớn nhất là 65 năm.
Chỉ tiêu GRO ghi nhận giá trị trung bình là -97,322%, cho thấy sự suy giảm rõ rệt trong tốc độ tăng trưởng doanh thu của các doanh nghiệp xây dựng trong những năm gần đây, đồng thời cho thấy sự chênh lệch lớn trong mức độ tăng trưởng giữa các doanh nghiệp.
- Bảng 4.14 Thống kê mô tả của các biến số trong mô hình
- Nguồn: Tính toán của tác giả
- Theo lý thuyết Trật tự phân hạng, DN sẽ ưu tiên sử dụng nguồn vốn nội bộ của
Doanh nghiệp (DN) thường sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư vào sản xuất thay vì vay tiền để đầu tư Theo lý thuyết này, hoạt động kinh doanh (HQKD) có ảnh hưởng lớn đến cách mà các cổ đông (CTV) của DN ra quyết định đầu tư.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng biến độc lập ROA có ảnh hưởng đến chỉ số CTNV của doanh nghiệp, và ngược lại Các tác giả như Huang (2006), Margaritis và Psillaki (2007), Đoàn Ngọc Phi Anh (2010), Dương Thị Hồng Vân (2014), và Nguyễn Thị Tuyết Lan (2019) đã khẳng định mối quan hệ này trong các công trình của họ.
Trong mô hình 1, nghiên cứu đã áp dụng kiểm định Chi bình phương để xác định sự hiện diện của yếu tố nội sinh, với giả thuyết H0 là mô hình không có yếu tố nội sinh Kết quả kiểm định cho thấy p-value = 0.0000, nhỏ hơn 0.05, dẫn đến việc bác bỏ giả thuyết H0, xác nhận rằng mô hình có yếu tố nội sinh Để giải quyết vấn đề này, luận án đã sử dụng phương pháp moment tổng quát GMM.
Trong mô hình 2, quá trình thực hiện tương tự như mô hình 1 với việc kiểm định biến nội sinh Giả thuyết H0 được đặt ra là mô hình không có yếu tố nội sinh Kết quả kiểm định cho thấy p-value là 0.225, lớn hơn 0.05, do đó chúng ta chấp nhận giả thuyết H0, xác nhận rằng mô hình không chứa yếu tố nội sinh.
4.4.3 Kết quả hồi quy tác động trung bình
- Để hồi quy tác động trung bình của CTTC đến HQKD của DNXD, luận án sử dụng 2 mô hình sau:
- ROAit = β0 + β1CTNVit + β2CCTSit + β3CCTKit + β4CCPTit + β5SIZEit + β6GROit +
- ROEit = β 0 + β1CTNVit + β2CCTSit + β3CCTKit + β4CCPTit + β5SIZEit + β6GROit +
Bảng kiểm định F cho thấy giá trị Prob>F=0,000 nhỏ hơn α= 5%, từ đó chúng ta bác bỏ giả thuyết H0 với mức ý nghĩa 5% Điều này chứng tỏ rằng phương pháp chạy mô hình FEM là phù hợp, trong khi OLS không thích hợp do sự tồn tại các ảnh hưởng cố định ở từng doanh nghiệp theo thời gian.
Sau khi chuyển từ phương pháp OLS sang mô hình FEM, luận án đã tiến hành ước lượng dữ liệu bảng bằng cách sử dụng cả mô hình FEM và REM Kết quả từ hai mô hình này đã được kiểm định bằng kiểm định Hausman để xác định mô hình nào là phù hợp hơn Kết quả kiểm định Hausman cho thấy Prob>chi2=0.000, tức là P-value = 0.000 < α = 5%, cho phép bác bỏ giả thuyết H0, từ đó khẳng định rằng ước lượng tác động cố định (FEM) là lựa chọn tối ưu hơn so với ước lượng tác động ngẫu nhiên (REM) Kết quả này chỉ ra rằng mô hình FEM là mô hình tốt nhất được lựa chọn cho nghiên cứu.
Để khắc phục hiện tượng nội sinh, việc sử dụng biến công cụ với phương pháp hồi quy phù hợp là cần thiết Trong luận án này, tác giả áp dụng phương pháp hồi quy GMM Một biến công cụ hiệu quả cần đáp ứng hai điều kiện quan trọng: phải có tương quan với biến độc lập và không được tương quan với sai số trong mô hình.
- quan mạnh với biến nội sinh nhưng đồng thời không tương quan với các thành phần sai số của mô hình.
Sau khi thực hiện phân tích hồi quy và kiểm tra khuyết tật của mô hình, phương pháp GMM được xác định là phù hợp cho mô hình 1, trong khi mô hình FEM là lựa chọn tối ưu cho mô hình 2 Kết quả ước lượng của các mô hình sẽ được trình bày trong bảng dưới đây.
- Bảng 4.15 Kết quả ước lượng với biến phụ thuộc ROA
- Biến phụ thuộc ROA (Mô hình 1)
- *, **, *** biểu diễn hệ số ước lượng có ý nghĩa thống kê lần lượt là 10%, 5% và 1%.
- Nguồn: Tính toán của tác giả
- Bảng 4.16 Kết quả ước lượng với biến phụ thuộc ROE
- Biến phụ thuộc ROE (Mô hình 2)
- Cơ cấu hàng tồn kho - -
- *, **, *** biểu diễn hệ số ước lượng có ý nghĩa thống kê lần lượt là 10%, 5% và 1%.
- Nguồn: Tính toán của tác giả
Mô hình GMM được xác định là phù hợp nhất để phân tích tác động của chính sách tài chính công (CTTC) đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) Kết quả ước lượng cho thấy hầu hết các biến trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê.
Cấu trúc nguồn vốn có mối quan hệ tích cực với hiệu quả kinh doanh, được đo bằng ROA và ROE ở mức ý nghĩa 1%, cho thấy rằng khi vốn chủ sở hữu (CTNV) tăng lên, doanh nghiệp (DN) hoạt động hiệu quả hơn Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Berger và Di Patti (2006) cũng như Trần Hùng Sơn (2008), khi họ phát hiện tổng nợ có mối quan hệ thuận chiều với hiệu quả kinh doanh của DN Hơn nữa, mối quan hệ tích cực giữa CTNV và hiệu quả kinh doanh cũng hỗ trợ lý thuyết cổ điển của Durand, lý thuyết M&M trong điều kiện có thuế, và lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn, cho rằng hiệu quả của DN có nợ lớn hơn giá trị của DN không có nợ.
Kết quả nghiên cứu định tính
- Các DN khi được hỏi về mức độ đồng ý với các quan điểm về CTTC mà luận án sử dụng cho thấy 100% đồng ý với quan điểm đó.
Các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ thấp thường là những doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh không cao, đang gặp khó khăn, sở hữu tài sản cố định lỗi thời, chiếm lĩnh thị trường nhỏ và có khả năng cạnh tranh yếu.
Nhiều doanh nghiệp (DN) sử dụng tỷ lệ nợ thấp để giảm áp lực thanh toán nợ, nhưng một số DN có tổng tài sản lớn lại không vay nợ Họ cho rằng để giải quyết vấn đề thiếu vốn, thường lựa chọn tăng vốn cổ phần thay vì vay nợ, điều này cho thấy họ đã bỏ qua lợi ích của đòn bẩy tài chính Ngoài ra, DN thuộc nhóm này cũng cho biết nguyên nhân do đặc thù hoạt động kinh doanh, như các công trình thi công dài hạn và thu hồi vốn chậm.
Các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao thường là những đơn vị có hoạt động kinh doanh mạnh mẽ, khả năng cạnh tranh cao và thị phần lớn Hầu hết các khoản vay ngắn hạn được sử dụng để tài trợ cho việc đền bù, giải phóng mặt bằng, nộp tiền sử dụng đất và chi trả bồi thường cho bên thứ ba trong các dự án lớn Đặc biệt, ngành xây dựng thường vay nợ nhiều cho các công trình dự án, trong đó nợ phải trả nhà cung cấp chiếm tỷ trọng lớn nhưng không phải trả lãi, và việc hoàn trả nợ gốc chỉ diễn ra khi dự án kết thúc Mặc dù tỷ lệ nợ cao, các doanh nghiệp này không phải chịu áp lực lớn về lãi vay Các doanh nghiệp sử dụng nợ cao chủ yếu là những đơn vị lớn, đang mở rộng hoạt động và tích tụ đất đai để đầu tư phát triển các dự án.
Nhiều doanh nghiệp phàn nàn về quy trình nghiệm thu thanh toán hiện nay, cho rằng thủ tục quá rườm rà và phức tạp, dẫn đến thời gian thanh toán kéo dài Điều này làm gia tăng chi phí sản phẩm dở dang, đặc biệt khi thời gian nghiệm thu thường dồn vào cuối năm, gây ứ đọng vốn Hơn nữa, công tác thu hồi công nợ gặp khó khăn do các công trình chủ yếu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, khiến doanh nghiệp không thể chủ động trong việc thi công.
Các doanh nghiệp thể hiện sự đồng thuận cao về việc cần thiết lập một cơ chế tài chính hợp lý cho các doanh nghiệp xây dựng Tuy nhiên, quan điểm về vai trò của cơ chế tài chính đối với hiệu quả kinh doanh lại khác nhau Nhóm doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao cho rằng cơ chế tài chính có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kinh doanh (71,43%), trong khi nhóm có tỷ lệ nợ thấp lại có ý kiến trái ngược Một số doanh nghiệp cho rằng tỷ lệ nợ cao làm tăng rủi ro và chi phí sử dụng vốn, dẫn đến giảm hiệu quả kinh doanh Họ cũng nhấn mạnh rằng ảnh hưởng của cơ chế tài chính đến hiệu quả kinh doanh còn phụ thuộc vào tình hình kinh tế chung Trong thời kỳ suy thoái, tỷ lệ nợ cao làm lợi nhuận giảm do chi phí lãi suất tăng Ngược lại, trong thời kỳ tăng trưởng, tỷ lệ nợ cao có thể thúc đẩy lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh nhờ vào đòn bẩy tài chính.
Kết quả nghiên cứu định tính từ phỏng vấn sâu các chuyên gia tài chính và kế toán trưởng tại một số doanh nghiệp xây dựng đã xác nhận tính tin cậy của nghiên cứu định lượng.
- Trong chương này tác giả đưa ra ba phần:
Tác giả đã tổng hợp và phân tích số liệu về doanh nghiệp xây dựng (DNXD) trong giai đoạn 2012-2017, bao gồm số lượng, cơ cấu theo quy mô, loại hình doanh nghiệp, vùng miền và mã ngành chi tiết Bên cạnh đó, tác giả cũng xem xét tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp trong khoảng thời gian nghiên cứu này.
Tác giả phân tích thực trạng công tác tài chính của các doanh nghiệp xây dựng (DNXD), chỉ ra rằng hệ số nợ của họ thường rất cao, nhưng việc tiếp cận vốn vay đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ gặp nhiều khó khăn do cấu trúc nguồn vốn thấp Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thường có cấu trúc nguồn vốn cao nhất nhờ vào phần vốn góp của Nhà nước Đối với cấu trúc tài sản, tài sản dài hạn của DNXD chiếm tỷ trọng không đáng kể, cho thấy rằng phần lớn tài sản cố định chủ yếu là thuê mướn Ngoài ra, cơ cấu các khoản phải thu và tồn kho chiếm phần lớn trong tài sản ngắn hạn của DNXD.
-Thứ ba, tác giả phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của các DNXD trong giai đoạn
2012-2017 qua các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh như doanh thu, lợi nhuận và chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh đo bằng ROA và ROE
Tác giả đã thực hiện hồi quy để khảo sát mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu và hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) với các kết quả đáng chú ý: (i) Không tìm thấy mối liên hệ giữa tốc độ tăng trưởng doanh thu và HQKD; (ii) Doanh nghiệp vay nợ nhiều hơn thì HQKD cao hơn; (iii) Tỷ trọng tài sản cố định lớn giúp DN hoạt động hiệu quả hơn; (iv) Cơ cấu tồn kho cao dẫn đến HQKD thấp cho cả ROA và ROE; (v) Có mối liên hệ âm giữa cơ cấu phải thu và HQKD; (vi) DN có thâm niên kinh doanh hoạt động hiệu quả hơn DN mới thành lập Ngoài ra, tác giả cũng phân tích hồi quy phân vị và nhận thấy ảnh hưởng của các biến CTTC đến HQKD khác nhau ở các phân vị của ROA và ROE, với các yếu tố tác động tích cực hơn ở phân vị thấp Cuối cùng, tác giả đã thực hiện phỏng vấn sâu để củng cố kết luận từ phân tích định lượng.
- CHƯƠNG 5: GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
Quan điểm hoàn thiện cấu trúc tài chính để phù hợp với các doanh nghiệp xây dựng tại Việt Nam trong quá trình hội nhập
Hoàn thiện cấu trúc tài chính là yếu tố quan trọng để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, xuất phát từ lợi ích cốt lõi của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn hướng tới mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, nhằm gia tăng lợi ích cho các chủ sở hữu Để đạt được điều này, việc hoàn thiện một cơ cấu tài chính (CTTC) hợp lý là rất quan trọng, giúp cân bằng giữa rủi ro và hiệu quả kinh doanh, từ đó tối ưu hóa giá trị cho doanh nghiệp Do đó, khi CTTC xuất hiện dấu hiệu bất ổn hoặc mất cân đối, điều này có thể tác động tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp (DN) cần chủ động hoàn thiện cấu trúc tài chính (CTTC) để phục vụ lợi ích thiết thực của chủ sở hữu Việc hoàn thiện CTTC phải được thực hiện một cách thực sự và quyết liệt, tránh tình trạng hình thức Điều này không chỉ đơn giản là hoán đổi nguồn vốn mà còn liên quan đến việc thay đổi cấu trúc sở hữu và chi phí sử dụng vốn, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh (HQKD), giá trị DN và lợi ích của chủ sở hữu DN cần xây dựng kế hoạch hành động cụ thể để xác định nguyên nhân sâu xa dẫn đến những bất cập trong CTTC của mình.
DN cần khẩn trương thực hiện tái cấu trúc tài chính khi có dấu hiệu bất ổn, thay vì chờ đợi sự cứu trợ từ bên ngoài Thực tế cho thấy, nhiều DNNN đã phụ thuộc vào Nhà nước trong việc xử lý nợ, dẫn đến chậm trễ trong việc hoàn thiện cấu trúc và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh lâu dài của doanh nghiệp.
- Hoàn thiện cấu trúc tài chính phải đảm bảo phù hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tồn tại và phát triển Khi môi trường này biến động, doanh nghiệp cần nhanh chóng điều chỉnh hoạt động để giảm thiểu tác động tiêu cực Hiện nay, các doanh nghiệp trong ngành xây dựng đang phải đối mặt với áp lực ngày càng cao để nâng cao khả năng cạnh tranh và thích ứng với những thay đổi trong môi trường kinh doanh.
- cạnh tranh để tồn tại trong điều kiện nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế quốc tế và khu vực.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngành xây dựng, các doanh nghiệp cần hoàn thiện cấu trúc, gia tăng quy mô, năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm, đồng thời đầu tư vào công nghệ hiện đại Việc nâng cao khả năng tự chủ tài chính thông qua gia tăng vốn chủ sở hữu là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự ổn định trong hoạt động Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc huy động vốn, đặc biệt là từ nguồn vốn chủ sở hữu do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và biến động thị trường chứng khoán Do đó, doanh nghiệp cần xác định quy mô kinh doanh phù hợp và xây dựng chiến lược dài hạn để phát triển bền vững Đối với các doanh nghiệp nhỏ, việc sáp nhập và hợp nhất để đạt quy mô lớn hơn là cần thiết, cùng với việc tích lũy lợi nhuận và khai thác cơ hội tăng vốn chủ sở hữu từ bên ngoài.
- Hoàn thiện cấu trúc tài chính phải đảm bảo phù hợp với từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp
Nhiều người cho rằng việc hoàn thiện cấu trúc tài chính (CTTC) chỉ cần thiết khi doanh nghiệp (DN) đối mặt với khó khăn tài chính và nguy cơ mất khả năng thanh toán Tuy nhiên, quan điểm này không phản ánh đúng thực tế vì sự vận động của nền kinh tế và DN là liên tục Do đó, DN cần xem việc hoàn thiện cấu trúc như một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển dài hạn Sự hoàn thiện này thường xuất phát từ áp lực nội bộ, yêu cầu DN điều chỉnh để phù hợp với quy mô tăng trưởng và các giai đoạn phát triển khác nhau Khi có sự thay đổi trong các điều kiện này, DN cần đánh giá lại hoạt động và tiến hành hoàn thiện cấu trúc kịp thời để đảm bảo hoạt động hiệu quả.
- Quá trình hình thành và phát triển của mỗi DN thường được chia thành 4 giai
- đoạn: hình thành, phát triển, bão hòa và suy thoái Trong mỗi giai đoạn cụ thể
Các doanh nghiệp cần nhận diện những đặc điểm riêng biệt của từng giai đoạn trong quá trình cạnh tranh thị trường để xác định chiến lược cạnh tranh hợp lý Việc hiểu rõ đặc trưng cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp có định hướng phù hợp và tối ưu hóa hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Trong giai đoạn hình thành, doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc đạt được kết quả kinh doanh cao do mới bắt đầu hoạt động, dẫn đến việc chủ yếu phụ thuộc vào vốn của chủ sở hữu Với vốn và kinh nghiệm hạn chế, doanh nghiệp phải đối mặt với mức độ rủi ro kinh doanh lớn, và việc vay nợ, dù ở mức độ thấp, có thể dễ dàng dẫn đến nguy cơ phá sản Hơn nữa, lợi ích từ “lá chắn thuế” chưa phát huy tác dụng, do đó, yêu cầu về tài chính an toàn trong giai đoạn này cần được chú trọng Bên cạnh vốn đầu tư của chủ sở hữu, nguồn vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng là lựa chọn phù hợp, vì các nhà đầu tư mạo hiểm thường là những người chuyên nghiệp, sẵn sàng chấp nhận rủi ro để đạt được lợi nhuận cao.
Giai đoạn tăng trưởng đánh dấu sự chuyển mình của doanh nghiệp sau khi hoàn thành giai đoạn hình thành, với nhiều cơ hội phát triển nhờ vào lợi thế công nghệ và thị trường Mặc dù rủi ro kinh doanh giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, doanh nghiệp cần kiểm soát rủi ro tài chính bằng cách sử dụng nợ ở mức vừa phải Đây cũng là thời điểm thích hợp để đa dạng hóa nguồn vốn huy động, điều chỉnh cấu trúc tài chính nhằm tối ưu hóa tác động của đòn bẩy tài chính Các nhà đầu tư mạo hiểm thường rút vốn sau giai đoạn hình thành, do đó doanh nghiệp cần tìm kiếm người mua lại cổ phần với giá trị gia tăng Phát hành chứng khoán ra công chúng là nguồn tài trợ hợp lý trong giai đoạn này.
Giai đoạn bão hòa đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn tăng trưởng, trong đó mức độ rủi ro của doanh nghiệp có xu hướng giảm xuống mức trung bình Sự ổn định về doanh thu và lợi nhuận giúp doanh nghiệp có khả năng ứng phó tốt hơn với các rủi ro tài chính Do đó, chính sách tài trợ của doanh nghiệp cũng cần được điều chỉnh để phù hợp với tình hình này.
Doanh nghiệp nên chuyển từ việc chủ yếu tài trợ bằng vốn cổ phần sang kết hợp với tỷ trọng nợ ngày càng cao trong cấu trúc tài chính Sự gia tăng nợ trong giai đoạn này là hợp lý, bởi dòng tiền thuần của doanh nghiệp đang dồi dào, giúp đảm bảo khả năng thanh toán cả vốn lẫn lãi Điều này cũng cho phép doanh nghiệp tận dụng những lợi ích tích cực từ đòn bẩy tài chính.
Giai đoạn suy thoái đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ phát triển ổn định, khiến các doanh nghiệp (DN) rơi vào tình trạng khó khăn Khi lợi thế về thị trường và sản phẩm không còn, khả năng mở rộng thị trường bị hạn chế, nhiều DN thậm chí phải đối mặt với thua lỗ Do đó, các DN cần xem xét lại chiến lược, cân nhắc thu hẹp quy mô hoạt động và giảm dần việc sử dụng nợ Nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh nên chủ yếu đến từ lợi nhuận sau thuế và tiền khấu hao chưa sử dụng.
- Hoàn thiện cấu trúc tài chính phải đảm bảo sự thống nhất với hoàn thiện cấu trúc hoạt động và hoàn thiện cấu trúc chiến lược của doanh nghiệp
Hoàn thiện cấu trúc tài chính (CTTC) của doanh nghiệp cần phải phù hợp với chiến lược hoạt động tổng thể, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng có thể đe dọa sự tồn tại của doanh nghiệp Việc thay đổi CTTC phải đồng thời diễn ra với việc điều chỉnh cấu trúc chiến lược và hoạt động, nhằm thích ứng với các thay đổi trong chiến lược kinh doanh như mở rộng, thu hẹp hoặc chuyển đổi lĩnh vực hoạt động Đồng thời, việc thoái vốn đầu tư có thể tạo ra nguồn lực cần thiết để hỗ trợ hoàn thiện CTTC Qua đó, hoàn thiện CTTC không chỉ giúp ổn định tình hình tài chính mà còn cắt giảm chi phí tài chính, từ đó cải thiện hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp.
Trong ngành xây dựng, các doanh nghiệp đang đối mặt với bất ổn do ba yếu tố chính: chiến lược đầu tư thiếu bền vững, nguồn lực đầu tư hạn chế và việc tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn Hơn nữa, rủi ro tài chính gia tăng khi nhiều doanh nghiệp chủ yếu dựa vào nợ vay, trong khi hiệu quả kinh doanh chưa cao và chịu ảnh hưởng lớn từ biến động kinh tế Do đó, việc cải thiện cấu trúc chiến lược, tài chính và hoạt động là điều cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững.
Giải pháp hoàn thiện cấu trúc tài chính góp phần nâng cao hiệu quả kinh
- Qua đánh giá thực trạng tài chính và CTTC của các DNXD giai đoạn 2012-
Năm 2017, nhiều doanh nghiệp đang đối mặt với khó khăn trong hoạt động kinh doanh do biến động bất lợi của môi trường kinh doanh và tác động của suy thoái kinh tế Những vấn đề này làm lộ rõ những tồn tại trong cơ cấu tài chính (CTTC) và hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp xây dựng (DNXD), bao gồm năng lực tự chủ tài chính hạn chế, hình thức tài trợ nợ không đa dạng, CTTC không ổn định ở các DNXD quy mô nhỏ, tỷ trọng lớn của hàng tồn kho và khoản phải thu trong tổng tài sản, cùng với giá trị tài sản cố định còn thấp Do đó, việc thiết lập một CTTC hợp lý là cần thiết để giúp các DNXD hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh, và tối đa hóa giá trị doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững.
5.2.1 Nhóm giải pháp hoàn thiện cấu trúc tài sản
Doanh nghiệp cần nghiên cứu để xây dựng cấu trúc tài sản hợp lý, vì điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh Trong việc cấu trúc tài sản, doanh nghiệp nên chú ý đến một số chỉ tiêu quan trọng để tối ưu hóa hoạt động và nâng cao hiệu suất.
Tiền và các khoản tương đương tiền trên tổng tài sản là chỉ tiêu quan trọng giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ, bao gồm chi phí mua nguyên vật liệu, lương cho công nhân viên và các chi phí khác Việc duy trì mức tiền mặt hợp lý là cần thiết để đảm bảo hoạt động tài chính ổn định và hiệu quả trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần lập kế hoạch chi tiêu cho các khoản như điện nước, tiếp khách và mua sắm công cụ, dụng cụ nhỏ Việc này giúp doanh nghiệp quản lý tài chính hiệu quả và đảm bảo có đủ tiền dự trữ trong từng giai đoạn hoạt động.
Tỷ trọng các khoản phải thu (CCPT) ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp xây dựng Để cải thiện HQKD, cần giảm giá trị của CCPT, vì các khoản phải thu từ khách hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản Theo số liệu từ chương 4, chỉ số CCPT trung bình cũng cho thấy mối liên hệ này rõ ràng.
Bình chiếm tới 35,9% trong tổng tài sản của doanh nghiệp xây dựng (DNXD), với các khoản phải thu chủ yếu từ chủ đầu tư Do đặc thù của ngành xây dựng cần nhiều vốn, giá trị thanh quyết toán các công trình thường cao, nên nếu quá trình thu hồi công nợ không hiệu quả, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến dòng tiền và tình hình tài chính của DN Vì vậy, việc thu hồi vốn trở thành nhiệm vụ quan trọng, DN cần tìm mọi cách để giảm thiểu giá trị công nợ của khách hàng Để tránh rủi ro trong việc thu hồi công nợ, DN nên thận trọng trước khi ký hợp đồng.
Các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) cần nghiên cứu kỹ lưỡng về nguồn vốn, chủ đầu tư, thời gian và tiến độ thi công, cũng như các khó khăn và thuận lợi trong quá trình xây dựng Theo phân tích hồi quy phân vị, khi ở mức phân vị cao, tác động của biến CCPT tới hiệu quả kinh doanh (HQKD) giảm dần, vì các DNXD lớn thường thực hiện các công trình trọng điểm với giá trị cao Do đó, cần chú trọng vào việc nghiệm thu thanh toán, thu hồi công nợ và đàm phán với chủ đầu tư để đảm bảo giải ngân các khoản thanh toán từ ngân sách nhà nước một cách nhanh chóng.
Hàng tồn kho có tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh (HQKD) của doanh nghiệp (DN), do đó việc giảm hàng tồn kho không chỉ giúp hạn chế ứ đọng vốn mà còn cải thiện HQKD Trong lĩnh vực xây dựng, hàng tồn kho chủ yếu bao gồm giá trị sản phẩm dở dang, vì nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ thường được nhập theo tiến độ thi công ngắn hạn Để giảm giá trị sản phẩm dở dang, DN nên chia hợp đồng xây dựng thành nhiều đợt thanh toán và nhanh chóng thực hiện thủ tục thanh toán ngay sau khi hoàn thành từng phần hạng mục theo hợp đồng.
Tỷ trọng tài sản cố định trong tổng tài sản của doanh nghiệp xây dựng (DNXD) không lớn, với chỉ tiêu CCTS thấp hơn so với CCPT và CCTK Tuy nhiên, biến CCTS vẫn có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê đối với ROA và ROE Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, DN cần đầu tư vào việc hiện đại hóa dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị, bởi công nghệ lạc hậu là nguyên nhân chính hạn chế khả năng cạnh tranh.
Đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại là giải pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng công trình và rút ngắn thời gian thi công cho các doanh nghiệp xây dựng Việc này không chỉ đảm bảo tiến độ nghiệm thu đúng giai đoạn mà còn giúp cắt giảm chi phí đầu vào, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
5.2.2 Nhóm giải pháp hoàn thiện cấu trúc nguồn vốn a Điều chỉnh cấu trúc nguồn vốn theo hướng gia tăng nợ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả hồi quy từ giai đoạn 2012-2017 cho thấy biến CTNV có tác động tích cực đến HQKD của DNXD, với ý nghĩa thống kê ở mức 1% trong cả hai mô hình Điều này chỉ ra rằng các DNXD có tỷ lệ nợ vay cao trong tổng tài sản sẽ đạt được hiệu quả kinh doanh tốt hơn Phân tích hồi quy phân vị cho thấy, ở các mức phân vị thấp, tác động của CTNV đến HQKD mạnh hơn so với mức phân vị cao, khẳng định rằng các DN có HQKD thấp khi sử dụng nợ vay sẽ đạt hiệu quả cao hơn Thực tế cho thấy DNXD, đặc biệt là các DN nhỏ và siêu nhỏ, thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay, trong khi việc sử dụng nợ vay có thể giảm chi phí tài chính và mang lại lợi ích từ tấm lá chắn thuế Do đó, duy trì cấu trúc vốn nghiêng về gia tăng nợ là cần thiết để nâng cao giá trị DN, bên cạnh việc tìm kiếm nguồn tài trợ từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Các doanh nghiệp (DN) có thể mở rộng kênh tài trợ bằng cách liên kết và hợp tác với các đối tác đầu tư hoặc quỹ đầu tư mạo hiểm, đặc biệt là trong bối cảnh tăng trưởng mạnh mẽ trên toàn cầu Việc quá phụ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng đã tạo ra nhiều hạn chế cho DN Một giải pháp hiệu quả cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa là áp dụng hình thức thuê mua tài chính, nhờ vào tính an toàn, tiện lợi và hiệu quả của nó Huy động vốn qua thuê tài chính không chỉ giúp tài trợ cho các dự án đầu tư công nghệ mà còn hỗ trợ cải tiến máy móc, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của DN.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang thực hiện đúng mục tiêu chiến lược kinh doanh dài hạn của mình Đồng thời, việc xác định giới hạn an toàn trong việc sử dụng nợ là rất quan trọng để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
Việc xác định hệ số nợ an toàn là điều quan trọng đối với các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) để đảm bảo an toàn tài chính Một trong những phương pháp hiệu quả để xác định tỷ lệ nợ an toàn là sử dụng mô hình chỉ số Z Qua việc áp dụng chỉ số Z, doanh nghiệp có thể đánh giá tình hình tài chính của mình một cách chính xác.
- thể đưa ra tỷ lệ nợ ở giới hạn nhất định nhầm đảm bảo cho DN chưa phải đối mặt với nguy cơ phá sản.
Khuyến nghị
5.3.1 Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước a Về phía Ngân hàng Nhà nước
Để đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, cần thực hiện các giải pháp hỗ trợ tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng một cách hiệu quả, đồng thời kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Các tổ chức tín dụng cần đẩy mạnh triển khai các chương trình và chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ Họ cũng nên phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để thực hiện các chương trình cho vay, đồng thời tích cực kết nối ngân hàng với doanh nghiệp nhằm giải quyết những khó khăn trong quan hệ tín dụng với khách hàng.
Khuyến khích các tổ chức tín dụng phát triển và đa dạng hóa sản phẩm tín dụng cùng với dịch vụ ngân hàng, cũng như các giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất và tỷ giá Điều này giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc quản lý vốn và nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro tài chính.
Cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và địa phương để xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách, nhằm triển khai hiệu quả các chương trình tín dụng cho các ngành, lĩnh vực Đồng thời, nghiên cứu và đề xuất các chính sách hỗ trợ tín dụng với tiêu chí rõ ràng, dễ hiểu, giúp dễ dàng áp dụng vào đời sống xã hội và hoạt động của doanh nghiệp.
Ngành Ngân hàng cần chủ động triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt thông qua Chương trình kết nối ngân hàng với doanh nghiệp, nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn Các tổ chức tín dụng cần quán triệt và hướng dẫn toàn hệ thống để thực hiện hiệu quả các cải tiến về thủ tục và hồ sơ trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ ngân hàng Đồng thời, cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để nâng cao chất lượng dịch vụ.
Để nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp, cần tiếp tục rà soát và cải tiến quy trình cho vay cũng như thủ tục vay vốn Việc nâng cao khả năng thẩm định sẽ giúp rút ngắn thời gian giải quyết cho vay, đồng thời đảm bảo an toàn cho nguồn vốn vay.
Thực hiện chính sách lãi suất hợp lý là cần thiết để đảm bảo suất thực dương cho người gửi tiền tiết kiệm và hỗ trợ các chương trình tín dụng trọng điểm Tuy nhiên, việc cho vay cần tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước và pháp luật liên quan, nhằm đảm bảo hiệu quả và an toàn cho vốn vay.
Chủ động nghiên cứu và đề xuất các chương trình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp (DN) tiếp cận vốn và dịch vụ ngân hàng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu quả Khuyến khích xây dựng và triển khai các gói sản phẩm hỗ trợ DN, đặc biệt là những DN quy mô nhỏ và siêu nhỏ, bao gồm hỗ trợ về vốn, lãi suất và thời hạn cho vay, cùng với các sản phẩm hỗ trợ trong lĩnh vực thanh toán và tiền tệ.
Để thúc đẩy tín dụng cho doanh nghiệp tư nhân và các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần đơn giản hóa và cải tiến các thủ tục cho vay, vì hiện tại quy trình thụ lý hồ sơ vay còn phức tạp và mất nhiều thời gian Cần tăng cường truyền thông để doanh nghiệp hiểu rõ các nguồn vốn có thể tiếp cận từ các quỹ hỗ trợ thông qua ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại cũng cần cải tiến quy trình và đơn giản hóa thủ tục cho vay, đặc biệt là đối với các khoản vay trung và dài hạn, nhằm rút ngắn thời gian thụ lý hồ sơ Điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí giao dịch và các chi phí phát sinh ngoài lãi suất.
Thứ năm, cần tạo cơ chế bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nhà nước, đồng thời khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa Các biện pháp cần thực hiện bao gồm: đẩy mạnh cho vay tín chấp, đánh giá hiệu quả các dự án để cấp vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; chủ động làm việc với doanh nghiệp để tái cấu trúc nợ và hỗ trợ phục hồi sản xuất; kết hợp cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ nhằm hạ lãi suất vay và cải thiện quản trị; và phát triển các sản phẩm riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, huy động nguồn vốn dài hạn cho khu vực này.
Các Bộ chủ quản cần xây dựng đơn giá vật liệu hạch toán sát với giá thị trường để giúp các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) kiểm soát chi phí đầu vào, đặc biệt là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Để giảm thiểu rủi ro cho DN, Chủ đầu tư nên thanh toán chi phí nguyên vật liệu theo giá thời điểm thi công thay vì theo đơn giá dự toán ban đầu Ngành xây dựng thường dựa vào đơn giá do địa phương ban hành, nhưng một số khu vực có địa hình khó khăn hoặc xa nguồn cung cấp khiến giá thị trường cao hơn Do đó, các DN thi công ở những khu vực này thường gặp khó khăn và có nguy cơ thua lỗ Trong bối cảnh biến động giá thị trường, các Bộ chủ quản cần theo dõi sát sao để điều chỉnh giá phù hợp và ban hành các chính sách kịp thời hỗ trợ DN.
Để tránh thiệt thòi cho doanh nghiệp, việc làm hồ sơ thanh toán bù giá là rất cần thiết Hơn nữa, các Bộ chủ quản cần cải tiến quy trình nghiệm thu và thanh quyết toán, nhằm giảm thiểu thủ tục rườm rà và phiền phức cho doanh nghiệp Về phía Hiệp hội nhà thầu xây dựng Việt Nam, cần có những biện pháp hỗ trợ thiết thực cho các doanh nghiệp trong quá trình này.
Hiệp hội nhà thầu được thành lập nhằm tăng cường hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh Đây là nơi tạo điều kiện cho các nhà thầu gặp gỡ, trao đổi, phát huy năng lực và khắc phục khó khăn trong quản lý và thực hiện dự án Hiệp hội cũng hỗ trợ DNXD về khoa học kỹ thuật và pháp lý, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành xây dựng Việt Nam Để thực hiện nhiệm vụ này, Hiệp hội cần kiến nghị và tư vấn với các cơ quan nhà nước về các chính sách quản lý không phù hợp, làm cầu nối cho DNXD hợp tác kinh doanh và chia sẻ kinh nghiệm, cũng như tư vấn cho DNXD về các chính sách mới và công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực xây dựng.
5.3.2 Đối với các doanh nghiệp xây dựng a Có chính sách quản trị rủi ro và nâng cao trình độ quản trị rủi ro của doanh nghiệp
Doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì càng được hưởng lợi từ "lá chắn thuế", giúp giảm chi phí vốn Tuy nhiên, mặc dù lợi nhuận hoạt động kinh doanh có thể tăng nhờ giảm trừ thuế, rủi ro tài chính cũng tăng theo tỷ lệ nợ Giá trị doanh nghiệp chỉ tăng đến một ngưỡng nhất định trước khi giảm dần do rủi ro tài chính gia tăng Do đó, rủi ro tài chính trở thành rào cản trong việc đạt tới cấu trúc tài chính tối ưu Một cấu trúc tài chính tối ưu cần phải phù hợp với chính sách, trình độ và năng lực quản lý của doanh nghiệp Vì vậy, các doanh nghiệp cần xây dựng chính sách quản trị rủi ro và nâng cao năng lực quản lý rủi ro tài chính.
Việc tăng nợ nhằm thay đổi cơ cấu tài chính mới một cách an toàn giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro tài chính và cải thiện tính thanh khoản Đồng thời, điều này cũng góp phần nâng cao năng lực kinh doanh của công ty.