1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MÔ HÌNH CANH TÁC SEN TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU – TRƯỜNG HỢP NGHIÊNCỨU TẠI HUYỆN THÁP MƯỜI, TỈNH ĐỒNG THÁP

109 19 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 109
Dung lượng 3,04 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG (18)
    • 1.1 Đặt vấn đề (18)
    • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu (21)
    • 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (21)
      • 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu (21)
      • 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu (21)
    • 1.4 Ý nghĩa của đề tài (22)
    • 1.5 Lịch sử nghiên cứu (22)
  • CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU (25)
    • 2.1 Tổng quan về khu vực nghiên cứu (25)
      • 2.1.1 Tổng quan về ĐBSCL (25)
      • 2.1.2 Tổng quan về huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp (28)
      • 2.2.2 Nông nghiệp ứng phó (thông minh) với biến đổi khí hậu (CSA – Climate Smart Agriculture) (38)
      • 2.2.3 Mô hình canh tác thâm canh ba vụ lúa ở Đồng Tháp (49)
      • 2.2.4 Tổng quan về cây sen (54)
  • CHƯƠNG 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (60)
    • 3.1 Nội dung nghiên cứu (60)
    • 3.2 Phương pháp nghiên cứu (60)
      • 3.2.1 Phương pháp tổng hợp tài liệu (60)
      • 3.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu (60)
    • 4.1 Căn cứ cho sự không còn phù hợp của hệ thống ba vụ lúa (63)
      • 4.1.1 Chi phí thật của lúa ba vụ (63)
      • 4.1.2 Các khuynh hướng canh tác, môi trường, xã hội trong và ngoài ô bao khép kín (64)
    • 4.2 Lịch sử phát triển canh tác sen (68)
      • 4.2.1 Lịch sử phát triển (68)
      • 4.2.2 Mô tả hệ thống canh tác sen (69)
    • 4.3 Chi phí và lợi ích (76)
      • 4.3.1 Chi phí và lợi nhuận từ sen (76)
      • 4.3.2 Lợi ích đa chiều của sen (82)
      • 4.3.3 Cảm nhận địa phương về mô hình canh tác sen (84)
    • 4.5 Sự liên quan của chính sách nhà nước và chính quyền địa phương đến mô hình canh tác sen (88)
    • 4.6 Thuận lợi và khó khăn của quá trình canh tác sen (88)
      • 4.6.1 Thuận lợi (88)
      • 4.6.2 Khó khăn (89)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (91)
    • 5.1 Kết luận (91)
    • 5.2 Kiến nghị (92)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (94)

Nội dung

GIỚI THIỆU CHUNG

Đặt vấn đề

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu, theo Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH Dự báo, đến cuối thế kỷ XXI, khi mực nước biển dâng 100 cm, sẽ có tới 16,8% diện tích đồng bằng sông Hồng và 38,9% diện tích đồng bằng sông Cửu Long bị ngập lụt Đặc biệt, đồng bằng sông Cửu Long nằm trong nhóm năm châu thổ toàn cầu có nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do biến đổi khí hậu.

Hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo ở ĐBSCL, đang đối mặt với thách thức lớn từ biến đổi khí hậu (BĐKH), ảnh hưởng nghiêm trọng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo ĐBSCL, khu vực phía Nam Việt Nam, có vai trò quan trọng trong việc trao đổi hàng hóa, với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, khiến nông nghiệp trở thành hoạt động kinh tế chính Sản xuất lúa gạo không chỉ góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp mà còn đưa Việt Nam vào top ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới Những năm gần đây, nhờ đổi mới cơ chế quản lý, ĐBSCL đã đóng góp một nửa sản lượng lúa gạo cả nước, xuất khẩu từ 3-4 triệu tấn mỗi năm Tuy nhiên, người dân đang phải đối mặt với các vấn đề như lũ lụt, xâm nhập mặn và ô nhiễm đất, dẫn đến việc thâm canh xen kẽ và thay đổi đối tượng nông nghiệp ngày càng phổ biến.

[2] và một phần để đảm bảo cuộc sống của họ không bị đe dọa bởi sự đói khổ, nghèo nàn.

Nông nghiệp đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo thu nhập và xóa đói giảm nghèo, đặc biệt ở khu vực nông thôn Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, vai trò của nông nghiệp trong phát triển bền vững là không thể phủ nhận.

Năm 2008, khoảng 75% người nghèo ở các nước đang phát triển sống ở khu vực nông thôn, với phần lớn trong số họ phụ thuộc vào nông nghiệp cho sinh kế, đặc biệt là sản xuất lúa gạo và nuôi trồng thủy sản, hai lĩnh vực chủ chốt trong nền nông nghiệp.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng phức tạp, hệ thống sản xuất nông nghiệp truyền thống phải đối mặt với ba thách thức lớn: đảm bảo an ninh lương thực, thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ tác động của BĐKH Để giải quyết vấn đề này, các chuyên gia đã nghiên cứu và phát triển mô hình nông nghiệp thích ứng với BĐKH (CSA), đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) Các mô hình nông nghiệp bền vững như giống lúa chịu mặn, cây ăn trái chịu phèn và mô hình luân canh tôm-rừng, tôm-lúa đã được áp dụng Trong đó, mô hình canh tác sen (sen chuyên canh, sen-lúa, sen-cá, sen du lịch) được chọn làm đại diện cho mô hình FBFS, nhằm tìm hiểu đa chức năng của nó, bao gồm giá trị văn hóa, cải thiện thu nhập và tạo việc làm Mô hình này không chỉ thân thiện với môi trường mà còn giúp cải thiện sinh kế và thích ứng với BĐKH Tuy nhiên, mỗi mô hình CSA chỉ có ý nghĩa khi phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, và mô hình canh tác sen hiện nay được xem là lý tưởng cho cuộc sống của người dân ở vùng Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Tiển và Phạm Lê Thông (2014), Phạm Văn Hiền (2017) đã chỉ ra rằng mô hình canh tác sen có chi phí đầu tư thấp, tăng thu nhập và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời cải thiện môi trường sống cho người dân địa phương, với tiềm năng phát triển du lịch lớn Tại Đồng Tháp, người dân đã áp dụng mô hình này trong nhiều năm và đạt được kết quả khả quan, phù hợp với mong đợi của nông dân Mô hình canh tác sen đặc biệt thích hợp với vùng đất dễ bị nhiễm mặn, phèn do tác động của biến đổi khí hậu Việc áp dụng mô hình canh tác sen với kỹ thuật và quy mô phù hợp không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với thâm canh lúa truyền thống mà còn là giải pháp ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu cho huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp trong bối cảnh hiện tại và tương lai.

Đề tài “Đánh giá hiệu quả mô hình canh tác sen trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp” được thực hiện nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho người dân, nhà hoạch định chính sách và các cơ quan địa phương Mục tiêu là giúp họ có cái nhìn toàn diện và đưa ra quyết định phù hợp cho sản xuất nông nghiệp bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là phân tích tình hình và tính khả thi của mô hình canh tác sen trong bối cảnh lũ lụt hiện nay tại tỉnh Đồng Tháp, nằm ở đầu nguồn Đồng bằng sông Cửu Long, thuộc vùng Đồng Tháp Mười, một khu vực trũng tự nhiên của ĐBSCL.

Theo đó các mục tiêu cụ thể bao gồm:

Nghiên cứu các yếu tố tác động đến tư duy và hành vi của các bên liên quan trong việc chuyển đổi ý tưởng mô hình canh tác sen là rất quan trọng Điều này không chỉ giúp hiểu rõ quá trình ra quyết định mà còn ảnh hưởng đến khả năng chính sách hóa mô hình này trong thực tế tại địa phương.

- Phân tích (định tính và định lượng) các chi phí và lợi ích (trực tiếp và gián tiếp) của mô hình canh tác sen.

- So sánh hiệu quả kinh tế của mô hình canh tác sen với thâm canh lúa (3 vụ và lúa truyền thống) được thực hiện ở tỉnh Đồng Tháp.

- Xác định những thuận lợi, khó khăn và thách thức khi áp dụng mô hình canh tác sen trong bối cảnh BĐKH hiện tại cho tỉnh Đồng Tháp.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Mô hình canh tác sen trong mùa lũ tại các vùng trũng của Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là tỉnh Đồng Tháp, đang được nghiên cứu với sự tham gia của mười hộ nông dân Đối tượng khảo sát bao gồm các hộ nông dân đã, đang và sẽ tham gia vào các hình thức canh tác sen như sen chuyên canh, sen-lúa, sen-cá và sen du lịch.

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu Đồng Tháp đại diện cho vùng Đồng Tháp Mười, một trong hai vùng trũng, ngập lũ lớn ở phía thượng nguồn ĐBSCL được chọn làm địa điểm nghiên cứu Đây là vùng có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thủy văn của đồng bằng với chức năng trữ lũ từ khi mới khai sinh, vùng còn lại là Tứ giác Long Xuyên ở An Giang và Kiên Giang. Một cách cụ thể, nghiên cứu được tiến hành khảo sát tại huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng pg 14 Sinh viên Phạm Thị Quỳnh Ngọc – GVHD ThS Võ Thị Minh Hoàng Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình canh tác sen trong bối cảnh BĐKH ở vùng ĐBSCL

Tháp Trong đó, các xã điển hình của huyện Tháp Mười (Mỹ Hòa, Tân Kiều) được chọn lựa để khảo sát sâu.

Ý nghĩa của đề tài

Việc phát triển và mở rộng mô hình canh tác sen dựa vào lũ tại huyện Tháp Mười, Đồng Tháp, không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao mà còn góp phần bảo vệ môi trường và sinh thái ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

(1) Thích nghi với điều kiện ngập sâu, đất phèn, tạo không gian chứa nước cho lũ Do đó, mô hình có khả năng thích ứng với BĐKH cao.

(2) Tạo nơi cư trú, sinh sản cho nguồn thủy sinh tự nhiên, điển hình là cá nước ngọt.

(3) Nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho nông dân.

(4)Góp phần duy trì và giữ vững giá trị văn hóa “hồn sen” bao đời của vùng Tháp Mười.

(5) Cải thiện môi trường sạch, giúp duy trì cân bằng hệ sinh thái.

Bài viết này phân tích cảm nhận và mức độ đồng thuận của người dân tại xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp về mô hình canh tác sen Mục tiêu là đề xuất các giải pháp cải tiến và hướng phát triển nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu trong tương lai.

Lịch sử nghiên cứu

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về phát triển hệ thống canh tác sen tại khu vực ĐBSCL, Việt Nam, trong đó có một số nghiên cứu nổi bật đáng chú ý.

Vào ngày 01/08/2013, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam cùng Bộ Hạ tầng cơ sở và Môi trường Hà Lan đã công bố "Kế hoạch châu thổ sông Cửu Long" nhằm phát triển bền vững khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Plan – MDP)” Lấy cảm hứng từ kinh nghiệm gần đây (từ năm 2008 trở lại đây) ở Hà

Chính phủ Việt Nam đã chính thức đề nghị Hà Lan hỗ trợ thực hiện kế hoạch Châu thổ cho Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nhằm phát triển bền vững về kinh tế và môi trường, đồng thời ứng phó với biến đổi khí hậu Trong kế hoạch này, tác giả đã phân tích hiện trạng khu vực, nêu rõ tiềm năng và thách thức, đồng thời đưa ra các kịch bản phát triển kinh tế xã hội trong tương lai Tác giả cũng thiết lập một tầm nhìn dài hạn về việc sống chung với lũ ở ĐBSCL, đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình canh tác sen trong bối cảnh biến đổi khí hậu, và đề xuất các biện pháp quản lý lũ cùng với khung thể chế cho đầu tư, quy hoạch và quản lý vùng ĐBSCL một cách bền vững.

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Tiển và Phạm Lê Thông (2014) về hiệu quả kinh tế của nông hộ trồng sen tại tỉnh Đồng Tháp cho thấy thu nhập từ trồng sen khá cao nhưng biến động lớn do giá cả Cụ thể, thu nhập trung bình vụ 1 đạt 20 triệu đồng/ha và vụ 2 đạt 54 triệu đồng/ha Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng lượng phân đạm nguyên chất, phân lân nguyên chất và số ngày công lao động gia đình có ảnh hưởng tích cực đến năng suất sen Tuy nhiên, lượng phân N và P mà nông hộ sử dụng vẫn thấp hơn mức khuyến cáo, dẫn đến năng suất chưa cao Các yếu tố khác như vay vốn, trình độ học vấn và diện tích đất canh tác cũng được phân tích là những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của nông hộ trồng sen.

Trong nghiên cứu của Phạm Văn Hiền (2017) về cây sen Đồng Tháp, tác giả đã nhấn mạnh những đặc tính nổi bật và giá trị văn hóa của cây sen, bao gồm loại đất phù hợp, giá trị du lịch và sự đa dạng sản phẩm từ sen Để phát triển cây sen, tác giả đề xuất một số giải pháp như thúc đẩy việc công nhận hoa sen là Quốc hoa, nghiên cứu chuỗi giá trị cây sen, tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật liên quan, phát triển du lịch sinh thái và cải thiện mô hình canh tác sen.

Nguyễn Phước Tuyên (2007) đã nghiên cứu kỹ thuật trồng sen, cho thấy có hàng trăm giống sen được trồng với các mục đích khác nhau như lấy củ, hạt hoặc hoa Tác giả phân tích các phương pháp nhân giống, bao gồm hạt sen có khả năng tồn trữ lên đến 1.500 năm, cấy mô cho khai thác công nghiệp, và nhân giống vô tính từ củ, cùng với việc chuẩn bị đất, yếu tố quan trọng trong sản xuất sen Đặng Thị Kim Phượng (2007) đã so sánh hiệu quả sản xuất giữa mô hình độc canh lúa 3 vụ và luân canh lúa với màu tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, cho thấy mô hình luân canh lúa với cây màu có hiệu quả đồng vốn cao hơn (2,96 so với 2,42) và hiệu quả lao động cao hơn gấp 1,23 lần Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận bao gồm chi phí giống, nông dược, phân bón, công chăm sóc và thu hoạch Phạm Thị Quỳnh Ngọc cũng đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình canh tác sen trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở vùng ĐBSCL.

Nghiên cứu của Võ Chí Cường (2008) cho thấy trồng xen xoài và chanh Giấy tại huyện Kế Sách, Sóc Trăng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với chỉ thâm canh cây xoài, với tỷ lệ hiệu quả đồng vốn lần lượt là 1,5 và 1,3 Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận mô hình trồng xoài bao gồm diện tích canh tác, kinh nghiệm sản xuất và vốn sản xuất Đối với mô hình trồng xen xoài và chanh Giấy, các yếu tố quan trọng là kinh nghiệm sản xuất, số lao động chính và vốn sản xuất.

Lê Thị Mỹ Ái (2009) đã thực hiện nghiên cứu so sánh hiệu quả sản xuất giữa mô hình Dâu Hạ Châu và Dâu Bòn Bon tại huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ Kết quả cho thấy mô hình Dâu Bòn Bon có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn, đạt 3,89, trong khi mô hình Dâu Hạ Châu chỉ đạt 1,15 Nghiên cứu cũng xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của mô hình trồng dâu, bao gồm diện tích trồng, sản lượng, tuổi cây và chi phí sản xuất.

Nguyễn Quốc Nghi và Mai Văn Nam (2016) đã thực hiện nghiên cứu về hiệu quả sản xuất khóm của nông hộ tại huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang, sử dụng phương pháp phân tích màng bao dữ liệu (DEA) Nghiên cứu dựa trên số liệu thu thập từ 226 nông hộ trồng khóm, cho thấy hiệu quả kỹ thuật của nông hộ đạt mức cao (TE = 0,799), trong khi hiệu quả phân phối nguồn lực (AE = 0,59) và hiệu quả sử dụng chi phí (CE = 0,473) ở mức trung bình Bên cạnh đó, hiệu quả quy mô của hộ sản xuất khóm cũng đạt kết quả khá cao.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Tổng quan về khu vực nghiên cứu

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một vùng châu thổ hình tam giác với diện tích 3,9 triệu ha, kéo dài từ Mỹ Tho ở phía Đông đến Châu Đốc và Hà Tiên ở phía Tây Bắc, và Cà Mau ở cực Nam Việt Nam Thượng nguồn của ĐBSCL bao gồm hai nhánh sông Bassac và sông Cửu Long gần Phnom Penh, với diện tích hơn 1,6 triệu ha Vùng châu thổ này được chia thành 12 tỉnh và 1 thành phố, trong đó Cần Thơ được coi là trung tâm của ĐBSCL.

Sông Cửu Long chảy qua hệ thống kênh, rạch trước khi đổ ra biển Đông và Vịnh Thái Lan, với Thành phố Hồ Chí Minh là cửa ngõ quan trọng nằm ngay ngoài châu thổ Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) rất bằng phẳng, với độ cao trung bình chỉ khoảng 0,8 m so với mực nước biển Vào mùa mưa, dòng chảy lớn từ hai nhánh sông chính là Bassac/Hậu và Cửu Long/Tiền sẽ tràn vào nội đồng, khiến khoảng 50% diện tích châu thổ bị ngập lũ theo mùa, ảnh hưởng đến đời sống của hơn 2 triệu người dân Ngược lại, vào mùa khô, dòng chảy kiệt gây ra tình trạng xâm nhập mặn ở vùng ven biển, ảnh hưởng đến hơn 1,4 triệu ha đất canh tác Bờ biển dài khoảng 600 km, chủ yếu là đê biển với cao trình thấp và rừng ngập mặn.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có khí hậu nhiệt đới ẩm cận xích đạo với hai mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình dao động từ 26-29ºC và số giờ nắng trung bình hàng năm từ 2.226-2.709 giờ Nhiệt độ cao nhất có thể đạt 38-40ºC, trong khi nhiệt độ thấp nhất khoảng 14-16ºC Điều kiện khí hậu này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp nhiệt đới, với sự đa dạng trong các loại cây trồng và chuyển dịch cơ cấu sản xuất.

Mùa mưa ở khu vực này kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm tới 99% tổng lượng mưa hàng năm, trong khi mùa khô diễn ra từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau với hầu như không có mưa Lượng mưa trung bình hàng năm biến động theo không gian và thời gian, dao động từ dưới 1400 mm ở khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu, bao gồm các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, đến trên 2400 mm tại bán đảo Cà Mau Đặc biệt, ven biển phía Tây có lượng mưa cao hơn từ 2000-2400 mm, trong khi ven biển phía Đông có lượng mưa thấp hơn, chỉ từ 1400-1600 mm.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sở hữu nguồn nước mặt phong phú, bao gồm hệ thống sông tự nhiên và mạng lưới kênh đào dày đặc Nguồn nước này trải rộng khắp vùng, với hai hệ thống sông chính là Cửu Long và Vàm Cỏ đóng vai trò chủ yếu trong việc cung cấp nước cho khu vực.

Dòng chảy của sông Cửu Long và ĐBSCL chủ yếu phụ thuộc vào lượng mưa, dẫn đến sự biến đổi theo mùa Vào mùa mưa, lượng mưa lớn trên lưu vực gây ra lũ lụt chính trên dòng sông này Bên cạnh đó, chế độ dòng chảy ở ĐBSCL còn bị ảnh hưởng bởi thủy triều từ biển Đông, biển Tây và lượng mưa nội đồng.

Nước lũ tại ĐBSCL mang theo khoảng 150 triệu tấn phù sa mỗi năm, nhưng xu hướng này đang giảm dần Các khảo sát chất lượng nước lũ dọc biên giới Campuchia cho thấy nước vẫn giữ được chất lượng tốt, không chua và các độc tố ở mức cho phép Tuy nhiên, hàm lượng phù sa lại rất thấp, với tháng cao nhất chỉ dưới 200 g/m³, điều này không thuận lợi cho các vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, nơi mà dòng lũ từ sông chính cần có nhiều phù sa hơn.

Chế độ thủy văn tại 9 tỉnh ĐBSCL có chu kỳ hàng năm, với ngập lũ kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống Dù vậy, lũ cũng mang lại nguồn phù sa quý giá cho đồng ruộng và cải thiện môi trường nước Tuy nhiên, trong những năm gần đây, lượng phù sa bồi đắp hàng năm trên sông Cửu Long đã giảm nghiêm trọng, chỉ còn khoảng 1/5 so với mức trung bình nhiều năm.

Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã có sự chuyển dịch rõ rệt, giảm tỷ trọng ngành nông lâm thủy sản và tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ Mặc dù kinh tế nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ vẫn còn hạn chế Các tiểu vùng kinh tế trong ĐBSCL phát triển không đồng đều và chưa khai thác hiệu quả tiềm năng của từng khu vực Hằng năm, ĐBSCL đóng góp khoảng 22% vào GDP cả nước, sản xuất 55% lương thực, cung cấp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu, 70% trái cây và 58% sản lượng thủy sản, trong đó tôm chiếm 80% và đóng góp trên 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.

Hệ thống hạ tầng giao thông và thủy lợi đã được đầu tư phát triển mạnh mẽ, với nhiều công trình mới và trọng điểm được đưa vào sử dụng Những dự án này góp phần quan trọng vào việc nâng cao yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng, giúp cải thiện đời sống và thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Giao thông đường bộ và giao thông đường thủy đều được chú ý, nhiều tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đã được nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới.

Các cụm và tuyến dân cư đã được triển khai nhằm hỗ trợ đồng bào vùng ngập lũ, góp phần ổn định chỗ ở cho nhiều hộ gia đình sống trong khu vực ngập sâu Sinh viên Phạm Thị Quỳnh Ngọc, dưới sự hướng dẫn của ThS Võ Thị Minh Hoàng, đã thực hiện đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình canh tác sen trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có dân số khoảng 18 triệu người, với hơn 70% lao động tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp Tỷ lệ tham gia lao động chỉ đạt 77,2%, là mức thấp nhất trong 6 vùng kinh tế Đặc biệt, tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ khoảng 11%, thấp nhất cả nước, do trình độ dân trí ở đây còn hạn chế, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa và vùng đồng bào dân tộc Chất lượng đào tạo lao động chưa cao và năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động làm công ăn lương tại đây cũng rất khiêm tốn.

2.1.2 Tổng quan về huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp

2.1.2.1 Tổng quan về huyện Tháp Mười [22]

Huyện Tháp Mười thuộc vùng Đồng Tháp Mười cách Thành phố Hồ Chí Minh

90 km, Thành phố Cần Thơ 95 km, Thành phố Cao Lãnh 32 km.

+ Phía Bắc: giáp huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An và huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp. + Phía Đông: giáp huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.

+ Phía Tây: giáp huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

+ Phía Nam: giáp huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

Huyện Tháp Mười có tổng diện tích tự nhiên là 52.800 ha, tương đương khoảng 17% diện tích của tỉnh Đồng Tháp Trong đó, diện tích đất nông nghiệp chiếm 45.774 ha, còn lại là 7.026 ha đất phi nông nghiệp.

Huyện Tháp Mười nằm ở vùng thấp và tương đối bằng phẳng, với địa hình phía Nam và Tây cao hơn so với phía Đông và Bắc Huyện có hệ thống kênh rạch phong phú, trong đó nguồn nước ngọt từ sông Tiền được đưa vào qua các kênh như kênh Tháp Mười số 1, kênh Tháp Mười số 2 (kênh Nguyễn Văn Tiếp) và kênh An Phong – Mỹ Hòa – Bắc Đông Những kênh này đóng vai trò quan trọng trong việc cải tạo đất, bao gồm tháo chua, rửa phèn và cung cấp lượng lớn phù sa cho vùng đất.

Khí hậu huyện Tháp Mười thuộc khu vực ĐBSCL, với nhiệt độ trung bình 26,9°C và độ ẩm không khí đạt 82% Vùng này nhận được trung bình 2.733 giờ nắng mỗi năm, trong khi mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, với lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.410 mm Từ tháng 7 đến tháng 11, nước từ thượng nguồn sông Cửu Long tràn về, khiến mực nước ngập trung bình đạt 4,2 m so với mực nước biển, và trên đồng ngập sâu khoảng 1m.

Hình 2.2 Bản đồ hành chính huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp [21]

2.1.2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 20/01/2022, 13:39

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[3] Nguyễn Thế Chinh, Đặng Trung Tú và Nguyễn Sỹ Linh, Báo cáo Định hướng chuyển đổi quy mô lớn mô hình phát triển ĐBSCL. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 09/2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Thế Chinh, Đặng Trung Tú và Nguyễn Sỹ Linh, "Báo cáo Định hướng chuyển đổi quy mô lớn mô hình phát triển ĐBSCL
[5] Phạm Thị Sến, Mai Văn Trịnh và Trần Thế Tưởng, Nông nghiệp ứng phó biến đổi khí hậu. Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI), Viện Môi trường nông nghiệp (AEI) và Cục Trồng trọt (DCP), 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phạm Thị Sến, Mai Văn Trịnh và Trần Thế Tưởng, "Nông nghiệp ứng phó biến đổikhí hậu
[6] Phạm Thị Sến, CSA Thực hành nông nghiệp thông minh với khí hậu ở Việt Nam.Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phạm Thị Sến, "CSA Thực hành nông nghiệp thông minh với khí hậu ở Việt Nam
[7] Trần Thục, Nguyễn Văn Thắng, Huỳnh Thị Lan Hương, Mai Văn Khiêm, Nguyễn Xuân Hiển và Doãn Hà Phong, Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trần Thục, Nguyễn Văn Thắng, Huỳnh Thị Lan Hương, Mai Văn Khiêm, NguyễnXuân Hiển và Doãn Hà Phong, "Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho ViệtNam
[8] Trần Thọ Đạt và Võ Thị Hoài Thu, Tác động của biến đổi khí hậu đến tăng trưởng và phát triển ở Việt Nam và một số gợi ý chính sách. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 193; tr. 15-22, 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trần Thọ Đạt và Võ Thị Hoài Thu, "Tác động của biến đổi khí hậu đến tăng trưởngvà phát triển ở Việt Nam và một số gợi ý chính sách
[9] Trúc Anh, Mức chuẩn nghèo mới trong giai đoạn 2016 – 2020. Tin tức Pháp luật, 2015: https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/thoi-su/11005/muc-chuan-ngheo-moi-trong-giai-doan-2016-%E2%80%93-2020 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trúc Anh, "Mức chuẩn nghèo mới trong giai đoạn 2016 – 2020
[10] Cao Thanh Tờ, Đề cương hoàn chỉnh “ Phân tích hiệu quả sản xuất mô hình trồng sen huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp”. Sở Khuyến nông huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cao Thanh Tờ, "Đề cương hoàn chỉnh “ Phân tích hiệu quả sản xuất mô hình trồng sen huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp”
[11] Phạm Văn Hiền, Tiềm năng và giải pháp phát triển cây sen Đồng Tháp. Trường Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh, 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phạm Văn Hiền, "Tiềm năng và giải pháp phát triển cây sen Đồng Tháp
[12] Nguyễn Hữu Thiện, Tăng Phương Giản và Lý Văn Lợi, Phân tích tình hình canh tác lúa ba vụ ở Đồng Tháp. Dự án IP, IUCN, 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Hữu Thiện, Tăng Phương Giản và Lý Văn Lợi, "Phân tích tình hình canh tác lúa ba vụ ở Đồng Tháp
[13] Dự án IP, Flood Retention Livelihood Demonstration Design Study. IUCN, 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dự án IP, "Flood Retention Livelihood Demonstration Design Study
[15] Nguyễn Phước Tuyên, Cây sen trên thị trường thế giới. Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM, Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Công nghệ, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Phước Tuyên, "Cây sen trên thị trường thế giới
[16] Đỗ Huy Bích và ctv, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam. Tập II, NXB Khoa học và kỹ thuật, 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đỗ Huy Bích và ctv, "Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam
Nhà XB: NXBKhoa học và kỹ thuật
[1] Hội nghị về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường, 09/2017 Khác
[2] Kế hoạch châu thổ sông Cửu Long, Phiên bản 1.1 (MDP1.1). Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Hạ tầng cơ sở và Môi trườngHà Lan, 08/2013 Khác
[4] Kingdom of the Netherlands Socialist Republic of Vietnam, Mekong Delta plan: long-term vision and strategy for a safe, prosperous and sustainable delta. 2013 Khác
[14] Flood based farming systems in Africa. Spate Irrigation Network Foundation, không rõ năm Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w