ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù, có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một bộ phận không thể tách rời trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Sản phẩm của ngành không những tạo ra Lâm sản hàng hóa và dịch vụ đóng góp cho nền kinh tế quốc dân mà còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và an ninh quốc phòng của đất nước; góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống, xóa đói, giảm nghèo cho người dân nông thôn và miền núi. Phát triển Lâm nghiệp theo hướng bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường, từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh đang là những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam nhằm phát huy những tiềm năng dồi dào của ngành phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra với toàn nền kinh tế nói chung và ngành Lâm nghiệp nói riêng là nguồn vốn cho đầu tư phát triển còn hết sức hạn chế. Trong khi đó, quá trình phát triển Lâm nghiệp đòi hỏi một lượng kinh phí không hề nhỏ và diễn ra trong một khoảng thời gian lâu dài. Do đó, việc thu hút vốn đầu tư cho phát triển Lâm nghiệp trở thành chiến lược quan trọng của ngành, đặc biệt là các nguồn vốn hỗ trợ, vốn vay ưu đãi từ nước ngoài. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã bước đầu tận dụng được những nguồn lực từ bên ngoài để phục vụ cho quá trình phát triển đất nước trong đó có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Nguồn vốn ODA đầu tư cho ngành Lâm nghiệp thời kỳ 2010 – 2015 không ngừng tăng lên về số lượng cùng với với sự quan tâm tham gia của đông đảo các nhà tài trợ thông qua các chương trình, dự án khác nhau đã góp phần không nhỏ cho ngành Lâm nghiệp thực hiện thành công các chương trình mục tiêu quốc gia, cải thiện thể chế và chính sách, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành. Những thành tựu mà ngành Lâm nghiệp đạt được trong thời gian qua có phần đóng góp quan trọng của viện trợ phát triển như một phần trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho phát triển Lâm nghiệp cũng bộc lộ những điểm hạn chế như còn phụ thuộc nhiều vào ưu tiên của nhà tài trợ, chất lượng văn kiện dự án chưa cao và chưa phù hợp với thực tế triển khai, nhiều dự án vừa ký kết xong đã gặp khó khăn do không đủ quỹ đất để trồng rừng, phải điều chỉnh tổng mức đầu tư do giá cả biến động. Việc bố trí vốn đối ứng không đầy đủ tại một số địa phương làm trì hoãn việc thực hiện các dự án, tỷ lệ giải ngân thấp, người dân sống cạnh rừng chưa có ý thức bảo vệ rừng, chưa thực sự quan tâm đến các dự án trồng, bảo vệ và chăm sóc rừng, diện tích rừng bị chặt phá hàng năm tăng. Trước bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi, đặc biệt là khi Việt Nam đã và đang được cộng đồng quốc tế công nhận là quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, đồng nghĩa với đó là các nguồn vốn vay ưu đãi ít đi thì công tác vận động, thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA cho ngành Lâm nghiệp trong giai đoạn tới cần có những thay đổi về chiến lược, chính sách và thể chế cho phù hợp với tình hình mới. Do đó, việc phân tích, đánh giá thực trạng công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong phát triển ngành Lâm nghiệp là một việc hết sức cần thiết; để có một cái nhìn tổng quát về ODA Lâm nghiệp thời gian qua, tìm ra được nguyên nhân của thành công và những hạn chế trong việc thu hút, sử dụng nguồn vốn này, qua đó rút ra được những bài học kinh nghiệm và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho ngành Lâm nghiệp. Xuất phát từ lý luận, thực tiễn và hướng tới những mục tiêu trên đây, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Giải pháp nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA) cho phát triển ngành Lâm nghiệp Việt Nam” làm Luận văn Thạc sỹ.
Tính cấp thiết của đề tài
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù, giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và không thể tách rời khỏi lĩnh vực nông nghiệp nông thôn Ngành này không chỉ tạo ra lâm sản hàng hóa và dịch vụ mà còn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và đảm bảo an ninh quốc phòng Hơn nữa, lâm nghiệp còn đóng góp quan trọng vào việc cải thiện đời sống, xóa đói và giảm nghèo cho người dân ở nông thôn và miền núi.
Phát triển lâm nghiệp bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của ngành Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư cho lâm nghiệp còn hạn chế, trong khi quá trình phát triển này đòi hỏi chi phí lớn và thời gian dài Do đó, thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là từ các nguồn hỗ trợ và vốn vay ưu đãi từ nước ngoài, trở thành chiến lược quan trọng cho ngành lâm nghiệp.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã khai thác hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) để thúc đẩy ngành Lâm nghiệp Giai đoạn 2010 – 2015, ODA cho ngành này tăng đáng kể nhờ sự tham gia của nhiều nhà tài trợ, góp phần vào thành công của các chương trình mục tiêu quốc gia và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Tuy nhiên, việc thu hút và sử dụng ODA vẫn gặp khó khăn do phụ thuộc vào ưu tiên của nhà tài trợ, chất lượng văn kiện dự án chưa cao, và nhiều dự án gặp trở ngại vì thiếu quỹ đất hoặc biến động giá cả Hơn nữa, sự thiếu hụt vốn đối ứng tại một số địa phương đã làm chậm tiến độ thực hiện dự án, tỷ lệ giải ngân thấp, và người dân sống gần rừng chưa có ý thức bảo vệ, dẫn đến tình trạng chặt phá rừng gia tăng hàng năm.
Trước sự thay đổi trong bối cảnh quốc tế và trong nước, Việt Nam đã được công nhận là quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, dẫn đến việc giảm nguồn vốn vay ưu đãi Do đó, ngành Lâm nghiệp cần điều chỉnh chiến lược, chính sách và thể chế để thu hút, quản lý và sử dụng hiệu quả vốn ODA trong giai đoạn tới Việc phân tích và đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho ngành Lâm nghiệp là cần thiết để có cái nhìn tổng quát, xác định nguyên nhân thành công và hạn chế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả trong huy động và sử dụng vốn ODA.
Dựa trên lý luận và thực tiễn, tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho ngành Lâm nghiệp Việt Nam” cho Luận văn Thạc sỹ.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Dựa trên nghiên cứu và đánh giá tình hình huy động cùng với việc sử dụng nguồn vốn ODA trong phát triển lâm nghiệp, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA cho ngành lâm nghiệp Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về ODA;
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA cho phát triển ngành Lâm nghiệp trong thời gian;
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành Lâm nghiệp thời gian tới.
Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút, quản lý, sử dụng vốn ODA.
- Nghiên cứu thực trạng về công tác vận động, thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành Lâm nghiệp thời gian qua.
Để nâng cao hiệu quả trong việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA cho phát triển lâm nghiệp, cần đề xuất một số giải pháp chủ yếu như: tăng cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức về vai trò của ODA trong phát triển lâm nghiệp, xây dựng các chính sách khuyến khích đầu tư và hợp tác quốc tế, cải thiện quy trình quản lý và giám sát dự án, đồng thời tăng cường năng lực cho các tổ chức và cá nhân tham gia vào việc sử dụng nguồn vốn ODA Những giải pháp này sẽ góp phần tối ưu hóa nguồn lực và đảm bảo sự bền vững trong phát triển lâm nghiệp.
Cơ sở lý luận về thu hút, quản lý, sử dụng vốn ODA
1.1.1 Khái niệm về vốn ODA
ODA làm cụm từ viết tắt trong tiếng Anh: Official Development
Assistance có nghĩa là hỗ trợ phát triển chính thức hay viện trợ phát triển chính thức
Thuật ngữ hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ra đời sau Thế chiến II, cùng với kế hoạch Marshall, nhằm giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị tàn phá Kế hoạch này được thực hiện trong vòng 4 năm, bắt đầu từ tháng 7 năm 1947 Để nhận viện trợ từ kế hoạch Marshall, các nước Châu Âu đã triển khai một chương trình phục hồi kinh tế có sự phối hợp và thành lập tổ chức hợp tác kinh tế Châu Âu, hiện nay là OECD.
ODA, hay còn gọi là Hỗ trợ phát triển chính thức, đã được định nghĩa qua nhiều cách khác nhau kể từ khi ra đời Mặc dù có nhiều định nghĩa, nhưng giữa chúng không có sự khác biệt lớn Dưới đây là một số khái niệm nổi bật về ODA.
Theo chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc, ODA được định nghĩa là viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi từ các tổ chức nước ngoài, trong đó phần viện trợ không hoàn lại phải chiếm ít nhất 25% giá trị của khoản vay.
Theo Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC), ODA là các luồng tài chính được chuyển đến các nước đang phát triển và các tổ chức đa phương nhằm hỗ trợ phát triển ODA được cung cấp bởi các tổ chức chính phủ, bao gồm cả trung ương và địa phương, với mục tiêu chính là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện phúc lợi xã hội cho các nước này Đặc biệt, ODA mang tính chất ưu đãi, trong đó yếu tố không hoàn lại phải đạt ít nhất 25%, được tính dựa trên tỷ suất chiết khấu 10%.
Tại Việt Nam, theo Nghi đinh số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 thì ODA là: Hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ Việt
Nam với nhà tài trợ bao gồm chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế và các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia Hình thức cung cấp ODA bao gồm ODA không hoàn lại và ODA vay ưu đãi, trong đó yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là các khoản hỗ trợ không hoàn lại và tín dụng ưu đãi từ Chính phủ, tổ chức Liên hợp quốc, tổ chức phi Chính phủ (NGO) và các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, ADB, WB dành cho các nước nhận viện trợ ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại và vay ưu đãi với lãi suất thấp, trong đó khoản vay ưu đãi phải có yếu tố cho không đạt 25% trở lên theo định nghĩa của OECD ODA được xem là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào quốc gia, do đó được coi là nguồn lực từ bên ngoài Các nguồn vốn ODA có ba đặc điểm chung: tính ưu đãi, tính ràng buộc và yếu tố chính trị, cũng như khả năng gây nợ.
ODA Lâm nghiệp là các khoản vốn vay ưu đãi, bao gồm cả hoàn lại và không hoàn lại, được cung cấp bởi các nhà tài trợ nhằm hỗ trợ phát triển lĩnh vực Lâm nghiệp.
1.1.2 Qui trình, nội dung thu hút, quản lý và sử dụng ODA
Theo Nghị định 38 của Chính phủ, quy trình quản lý và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi được quy định tại Điều 8, bao gồm các bước: (i) Xây dựng và phê duyệt danh mục tài trợ; (ii) Chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt văn kiện chương trình, dự án; (iii) Đàm phán và ký kết điều ước cụ thể về ODA; (iv) Tổ chức thực hiện chương trình, dự án ODA; và (v) Giám sát và đánh giá chương trình, dự án.
1.1.2.1 Xây dựng và phê duyệt danh mục tài trợ
Trình tự thực hiện xây dựng và phê duyệt danh mục tài trợ được tiến hành theo 3 bước
Bước 1: Dựa trên định hướng hợp tác và lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ cùng nhà tài trợ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo nhu cầu huy động vốn ODA và vay ưu đãi Cơ quan chủ quản cần gửi công văn đề nghị tài trợ kèm theo Đề xuất khoản viện trợ phi dự án đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan để xem xét, trao đổi với nhà tài trợ nhằm lựa chọn các đề xuất phù hợp.
Sau khi lựa chọn các đề xuất phù hợp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ thông báo cho cơ quan chủ quản và nhà tài trợ để phối hợp xây dựng Đề cương cho khoản viện trợ phi dự án.
Sau khi hoàn tất Đề cương, cơ quan chủ quản cần gửi công văn đề nghị góp ý kiến đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cùng các cơ quan liên quan, kèm theo hồ sơ theo quy định Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ xem xét công văn đề nghị góp ý kiến từ cơ quan chủ quản.
Bộ Tài chính cùng các cơ quan liên quan sẽ gửi ý kiến góp ý bằng văn bản cho cơ quan chủ quản Sau khi nhận được các ý kiến này, cơ quan chủ quản sẽ xem xét và quyết định phê duyệt Danh mục tài trợ Nếu cần hoàn thiện Đề cương, cơ quan chủ quản sẽ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như nhà tài trợ để hoàn thiện Đề cương trước khi xem xét quyết định phê duyệt Danh mục tài trợ.
1.1.2.2 Chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt văn kiện chương trình, dự án
Kế hoạch chuẩn bị chương trình và dự án ODA cần được hoàn thành trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày thành lập Ban chuẩn bị Trưởng Ban phải trình kế hoạch này để Cơ quan chủ quản hoặc Chủ dự án phê duyệt.
Việc thẩm định các chương trình, dự án ODA hỗ trợ kỹ thuật (HTKT) thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, với Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ trì tổ chức thẩm định Các cơ quan hữu quan sẽ tham gia thẩm định theo chức năng quản lý Nhà nước về ODA và tính chất của từng chương trình, dự án cụ thể, chịu trách nhiệm trước pháp luật về ý kiến đóng góp của mình Quy trình thẩm định bao gồm việc chuẩn bị, thực hiện thẩm định và tổ chức Hội nghị thẩm định sau đó.
1.1.2.3 Đàm phán, ký kết điều ước cụ thể về ODA
Trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đàm phán, cơ quan chủ trì đàm phán cần gửi văn bản thông báo kết quả đàm phán theo quy định tại Điều 23 Quy chế Văn bản này phải bao gồm các thông tin quan trọng như: (1) tên cơ quan chủ trì và các cơ quan tham gia đàm phán; (2) địa điểm và thời gian diễn ra đàm phán.
Kinh nghiệm trong về thu hút và sử dụng ODA
1.2.1 Kinh nghiệm thu hút, sử dụng ODA ở một số nước trên thế giới
Nhiều quốc gia trên thế giới đã tiếp nhận vốn ODA từ rất sớm, trong đó Malaysia bắt đầu vào năm 1970, Indonesia và Philippines cũng vào năm 1970, trong khi Trung Quốc nhận vốn ODA từ năm 1980 Ngoài ra, Ba Lan và Mexico cũng nằm trong số những nước hưởng lợi từ nguồn vốn này.
Việc tiếp cận nguồn vốn ODA đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và môi trường Hiệu quả sử dụng ODA khác nhau giữa các quốc gia do cách quản lý riêng biệt Tại Malaysia, sự phối hợp chặt chẽ với nhà tài trợ và kiểm tra đánh giá là ưu tiên hàng đầu Ở Indonesia, tính minh bạch với nhà tài trợ giúp đảm bảo độc lập và chủ quyền quốc gia Tại Philippines, các chính sách hỗ trợ tuyệt đối với nhà tài trợ được áp dụng Còn ở Trung Quốc, việc nâng cao vai trò quản lý và giám sát, cùng với quản lý tập trung nhưng thực thi phi tập trung, là chiến lược chính.
Ba Lan là tập trung đầu tư vào nguồn nhân lực và năng lực thể chế; Tại Mexico là chính sách vay vốn và sử dụng vốn
Không phải quốc gia nào cũng thành công trong việc quản lý nguồn vốn ODA, do mỗi nước có đặc thù riêng dẫn đến những thất bại ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế Không có mô hình chuẩn mực cho mọi quốc gia, nhưng những nước thành công như Trung Quốc, Ba Lan và Malaysia đã sử dụng vốn vay để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển ngành công nghiệp xuất khẩu và đầu tư lớn vào giáo dục Họ cũng linh hoạt điều chỉnh chính sách để tránh khủng hoảng nợ Ngược lại, những nước không thành công thường dùng vốn vay để phát triển ngành công nghiệp nội địa, hỗ trợ ngành yếu kém hoặc đầu tư vào các dự án kém hiệu quả do tham nhũng, như trường hợp của Mexico và Philippines.
1.2.2 Thực trạng cam kết, ký kết và giải ngân ODA của Việt Nam
Trong giai đoạn 2010-2015, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết theo các điều ước quốc tế đạt trên 27,782 tỷ USD, tăng 31,47% so với giai đoạn 2005-2010 (21,131 tỷ USD) Trong đó, vốn ODA vay và vốn vay ưu đãi chiếm 26,527 tỷ USD, tương đương 95,48%, trong khi ODA viện trợ không hoàn lại đạt 1,254 tỷ USD, chiếm khoảng 4,52% tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi đã ký kết trong thời kỳ này.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
BIỂU ĐỒ 1.1 CƠ CẤU VỐN ODA VÀ VỐN VAY ƯU ĐÃI KÝ KẾT
THEO NHÀ TÀI TRỢ GIAI ĐOẠN 2010-2015 Đơn vị: Triệu USD
Trong giai đoạn 2010-2015, tổng giá trị vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi ký kết đạt khoảng 26,308 tỷ USD, trong đó có 4,5 tỷ USD là vốn vay kém ưu đãi từ ADB, AFD và WB Biểu đồ 1.1 cho thấy rằng các ngân hàng phát triển như WB, ADB và JICA chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu vốn này.
BẢNG 1.1 ODA KÝ KẾT THEO NGÀNH VÀ LĨNH VỰC
GIAI ĐOẠN 2010-2015 Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi cho thấy lĩnh vực giao thông vận tải, môi trường, phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp có tỷ trọng ODA và vốn vay ưu đãi cao, trong khi nông nghiệp, phát triển nông thôn, y tế, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ và tăng cường năng lực thể chế lại có tỷ trọng thấp hơn Hiện tại, vốn ODA không hoàn lại đang giảm mạnh, và nhiều chương trình, dự án trong các ngành ít khả năng hoàn vốn, khiến việc sử dụng vốn vay, đặc biệt là vốn vay ưu đãi, trở nên khó khăn.
BẢNG 1.2 ODA CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN GIAI ĐOẠN 1993-2014 Đơn vị: Triệu USD
Trong giai đoạn 2011-2014, việc giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi đã có nhiều biến đổi đáng kể, với tổng vốn giải ngân ước đạt 22,325 tỷ USD, tương đương bình quân khoảng 4,46 tỷ USD/năm Mức giải ngân này cao hơn từ 39,53-59,45% so với các giai đoạn trước và gấp 1,6 lần tổng số ODA giải ngân trong giai đoạn 2006-2010.
Trong giai đoạn này, theo các hiệp định đã ký, dự kiến có khoảng 904 dự án sẽ hoàn thành với tổng vốn giải ngân đạt khoảng 21,2 tỷ USD Trong số đó, có 556 dự án sử dụng vốn vay với tổng số vốn khoảng 19,8 tỷ USD và 348 dự án ODA không hoàn lại với tổng số vốn khoảng 1,4 tỷ USD.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư
BIỂU ĐỒ 1.2 CAM KẾT, KÝ KẾT VÀ GIẢI NGÂN TRONG GIAI ĐOẠN
BIỂU ĐỒ 1.3 DƯ NỢ VAY ODA NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN 2010-2015 Đơn vị: Triệu USD Nguồn: Bộ Tài chính
Giải ngân từ các nhà tài trợ lớn như WB và JICA đã có sự cải thiện rõ rệt, với tỷ lệ giải ngân của Nhật Bản tại Việt Nam tăng đều qua các năm Kể từ năm 2012, Nhật Bản đã trở thành quốc gia dẫn đầu về tổng tỷ lệ giải ngân trong số các nhà tài trợ Tuy nhiên, tỷ lệ dự nợ vay ODA từ Nhật Bản đã đạt mức cao nhất vào năm 2012 và sau đó có xu hướng giảm dần trong những năm tiếp theo.
Nguồn vốn ODA cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn được giải ngân:
BẢNG 1.3 TỶ TRỌNG ODA VÀ VỐN VAY ƯU ĐÃI SO VỚI GDP, TỔNG VỐN ĐẦU TƯ TOÀN XÃ HỘI VÀ TỔNG VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN
Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội hàng năm của Chính phủ
Theo bảng 1.3, mức giải ngân ODA và vốn vay ưu đãi chỉ chiếm 2,78% GDP và 8,64% tổng vốn đầu tư xã hội trong giai đoạn 2010-2015, nhưng trung bình hàng năm vẫn đóng góp khoảng 47,37% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước Điều này cho thấy ODA và vốn vay ưu đãi giữ vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách nhà nước hạn hẹp.
- Phân bổ theo ngành, lĩnh vực
Trong giai đoạn 2010-2015, tổng vốn ODA và vay ưu đãi đạt 27.782,29 triệu USD, trong đó vốn viện trợ chiếm 1.254,34 triệu USD Số vốn này chủ yếu được phân bổ cho 7 lĩnh vực chính: Giao thông vận tải, Môi trường, Năng lượng và công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Xóa đói giảm nghèo, Y tế - Xã hội, Giáo dục và đào tạo, cùng với các ngành khác.
BIỂU ĐỒ 1.4 TỶ TRỌNG ODA VÀ VỐN VAY ƯU ĐÃI
TRONG CÁC LĨNH VỰC GIAI ĐOẠN 2010-2015
Trong lĩnh vực giao thông vận tải, tổng vốn ODA đạt 9.913 triệu USD, được đầu tư vào các dự án trọng điểm quốc gia như cao tốc Nội Bài - Lào Cai và cao tốc TP Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi.
Trong lĩnh vực năng lượng và công nghiệp, tổng vốn đạt khoảng 4.762 triệu USD, với sự hỗ trợ từ vốn vay ưu đãi đã giúp xây dựng nhiều nguồn điện và hệ thống truyền tải quan trọng Các dự án nổi bật bao gồm đường dây 500KV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông, 220KV Tây Nguyên - Miền Nam, 110KV Hà Tiên - Phú Quốc, cùng với nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn có công suất 3,6 tỷ kWh.
Trong lĩnh vực môi trường, tổng vốn ODA đạt khoảng 5.181 triệu USD đã được triển khai cho các hệ thống cấp nước sinh hoạt, bao gồm Dự án cấp nước thành phố Lai Châu và cấp nước Sông Công Ngoài ra, các dự án liên quan đến nước, chất thải và xử lý chất thải cũng được thực hiện tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Hải Phòng.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng nguồn vốn ODA đạt khoảng 2.632 triệu USD đã được đầu tư cho nhiều dự án quan trọng Những dự án này bao gồm hỗ trợ phát triển hệ thống thủy lợi Phan Rí – Phan Thiết, Chương trình 135 giai đoạn II, và phát triển hạ tầng nông thôn tại các tỉnh miền núi phía Bắc cùng một số tỉnh Tây Nguyên và phía Tây Nghệ An, góp phần vào công tác xóa đói giảm nghèo.
Tổng quan ngành Lâm nghiệp Việt Nam
2.1.1 Giới thiệu ngành Lâm nghiệp Việt Nam
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên 33,12 triệu ha, trong đó diện tích đất quy hoạch cho mục đích Lâm nghiệp 16,24 triệu ha, được phân chia theo
Ngành Lâm nghiệp Việt Nam hiện quản lý và sản xuất trên tổng diện tích đất lên đến 16.247.493 ha, trong đó bao gồm 2.199.342 ha đất quy hoạch phát triển rừng đặc dụng (chiếm 13,5%), 5.552.328 ha đất quy hoạch phát triển rừng phòng hộ (34,2%) và 8.495.823 ha đất quy hoạch phát triển rừng sản xuất (52,3%) Diện tích đất Lâm nghiệp chủ yếu tập trung ở các vùng đồi núi, nơi sinh sống của 25 triệu người, bao gồm nhiều dân tộc thiểu số với trình độ dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tế chậm phát triển và đời sống gặp nhiều khó khăn.
Năm 1943, Việt Nam sở hữu 14,3 triệu ha rừng với độ che phủ đạt 43% Tuy nhiên, đến năm 1990, diện tích rừng chỉ còn 9,18 triệu ha, tương ứng với độ che phủ 27,2% Trong giai đoạn 1980 - 1995, Việt Nam trung bình mất 110 nghìn ha rừng tự nhiên mỗi năm Từ năm 1995, tình hình đã có những thay đổi tích cực trong việc bảo vệ và phục hồi rừng.
Từ năm 2012, diện tích rừng tại Việt Nam đã gia tăng liên tục nhờ vào các hoạt động trồng rừng và nỗ lực phục hồi rừng tự nhiên Theo thông báo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Quyết định số 1739/QĐ-BNN-TCLN ngày 31/7/2013, tính đến cuối năm, Việt Nam đã ghi nhận những kết quả tích cực trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
2012, diện tích rừng toàn quốc là 13.862.043 ha, trong đó 10.243.844 ha rừng tự nhiên và 3.438.200 ha rừng trồng Độ che phủ của rừng tăng từ 37% năm
2005 lên 39,9% năm 2012 với độ che phủ rừng bình quân tăng 0,41%/năm
Trong những năm gần đây, tỷ lệ trồng rừng sản xuất tại các tỉnh Đông Bắc bộ và Trung bộ đã tăng mạnh, nhờ vào chính sách phát triển rừng cởi mở Sự tiến bộ trong công tác giống cũng đã góp phần nâng cao năng suất rừng trồng, rút ngắn chu kỳ kinh doanh và mở rộng thị trường.
Trong thời gian qua, tốc độ khôi phục diện tích rừng đã gia tăng, đồng thời năng suất và chất lượng rừng cũng được cải thiện rõ rệt Từ năm 1995 đến nay, trữ lượng rừng, đặc biệt là rừng trồng, đã có sự tăng trưởng đáng kể.
Trong những năm gần đây, sản lượng khai thác gỗ chủ yếu tập trung vào rừng trồng, trong khi khai thác từ rừng tự nhiên rất hạn chế Cụ thể, sản lượng khai thác gỗ đã tăng từ 3,462 triệu m³ vào năm 2007 lên 5,251 triệu m³ vào năm 2012.
Vào năm 2016, sản lượng đạt 17 triệu m³, cung cấp một lượng nguyên liệu đáng kể cho các ngành công nghiệp như giấy, khai thác mỏ, đồ mộc, dăm gỗ xuất khẩu và củi đun, từ đó giúp giảm áp lực lên rừng tự nhiên.
Việt Nam đang nỗ lực quản lý và bảo vệ rừng thông qua việc cấp chứng chỉ rừng FSC cho các chủ rừng, với mô hình cấp chứng chỉ cho nhóm hộ được coi là phù hợp trong bối cảnh giao đất giao rừng cho hộ gia đình Để thúc đẩy quản lý rừng bền vững, Tổng cục Lâm nghiệp đã ban hành văn bản hướng dẫn xây dựng phương án quản lý rừng bền vững và chỉ đạo các công ty lâm nghiệp thực hiện mô hình thí điểm theo chỉ đạo của Chính phủ Tuy nhiên, tiến độ thực hiện lộ trình này còn chậm so với các nước trong khu vực, khó đạt mục tiêu 30% diện tích rừng trồng sản xuất được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững vào năm 2020, khi đến tháng 9/2017 chỉ có 220.000 ha rừng trồng được cấp chứng chỉ.
Việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp được quy định tại Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg Các cấp chính quyền địa phương và chủ rừng đã chủ động triển khai các biện pháp phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR), giúp phát hiện và chữa cháy kịp thời nhiều vụ cháy rừng Diện tích rừng bị mất do phá rừng trái phép và vi phạm quy định khai thác gỗ đã giảm trong những năm qua, với mức độ nghiêm trọng không lớn, chỉ xảy ra ở một số địa phương với quy mô nhỏ lẻ.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong việc khôi phục và bảo vệ rừng, góp phần nâng cao khả năng bảo tồn đa dạng sinh học, nhưng vẫn còn nhiều thách thức và hạn chế trong công tác bảo vệ và phát triển rừng trong những năm qua.
Hiện nay, chỉ tiêu bình quân rừng ở Việt Nam chỉ đạt 0,15 ha/người và 9,16 m³ gỗ/người, thấp hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu là 0,97 ha/người và 75 m³/người Sự chênh lệch này đang tạo ra áp lực ngày càng lớn lên rừng do nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là nhu cầu đất cho sản xuất lương thực và lâm sản.
Mặc dù diện tích rừng đã gia tăng, nhưng chất lượng và tính đa dạng sinh học của rừng tự nhiên ở nhiều khu vực vẫn tiếp tục suy giảm Từ năm 2000 đến nay, vấn đề này ngày càng trở nên nghiêm trọng, đòi hỏi sự quan tâm và hành động khẩn cấp để bảo vệ hệ sinh thái rừng.
Tính đến năm 2005, diện tích rừng tự nhiên, bao gồm rừng giàu và rừng trung bình, đã giảm lần lượt 10,2% và 13,4% Ngược lại, rừng phục hồi và rừng trồng lại có sự gia tăng đáng kể, với mức tăng 20,7% và 50,8% Trong tổng số hơn 10 triệu ha rừng tự nhiên, chỉ có 2,5 triệu ha rừng giàu và trung bình, chủ yếu tập trung ở các khu rừng đặc dụng và phòng hộ Hiện nay, diện tích rừng tự nhiên phục vụ sản xuất chủ yếu là rừng nghèo và rừng phục hồi, có năng suất và chất lượng thấp.
Tình trạng phá rừng và cháy rừng vẫn diễn ra nghiêm trọng, đặc biệt ở các vùng sâu xa, nơi công tác bảo vệ rừng chưa được ưu tiên Việc xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến rừng và đất đai gặp nhiều khó khăn, kéo dài và chế tài xử lý đối với kẻ phá rừng còn nhẹ Sự phối hợp giữa các ngành còn hạn chế, trong khi tình trạng di dân tự do và việc phá rừng làm nương rẫy vẫn phổ biến, đặc biệt ở các tỉnh Tây Nguyên Hậu quả của việc này dẫn đến hiện tượng thiên tai như lũ ống, lũ quét, hạn hán và sạt lở đất, chủ yếu do mất rừng và suy thoái rừng.
2.1.2 Vai trò của Lâm nghiệp vào nền kinh tế quốc dân
Mặc dù GDP ngành Lâm nghiệp chỉ chiếm khoảng 1% tổng GDP quốc gia, nhưng ngành này đóng góp lớn vào nền kinh tế thông qua chế biến lâm sản xuất khẩu và giá trị môi trường của rừng Từ năm 1995 đến 2005, kim ngạch xuất khẩu gỗ đã tăng mạnh từ 61 triệu USD năm 1996 lên 1.570 triệu USD năm 2005, vượt qua 2.000 triệu USD vào năm 2006 và ước tính đạt 2.740 triệu USD trong những năm tiếp theo.
Phương pháp nghiên cứu
99 về chính sách chi trả dich vụ môi trường rừng, Quyết đinh 147 về một số chính sách phát triển rừng trồng sản xuất…
Nguồn vốn ODA không chỉ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần tăng thu nhập cho người lao động Điều này giúp xóa đói giảm nghèo cho người dân nông thôn miền núi, từ đó giảm tỷ lệ đói nghèo tại Việt Nam.
2.2.1 Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu, khảo sát Đia điểm nghiên cứu là một số chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA cho phát triển Lâm nghiệp do bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn quản lý (Tổng cục Lâm nghiệp và Ban Quản lý các dự án Lâm nghiệp).
2.2.2 Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu
Dữ liệu và tư liệu cho nghiên cứu đề tài được thu thập từ báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, niên giám thống kê, các văn bản pháp lý của Nhà nước, báo cáo dự án hoàn thành, báo cáo giám sát và đánh giá dự án, cùng với các nghiên cứu và thông tin từ internet.
2.2.3 Phương pháp xử lý số liệu
Luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như thống kê, mô tả, phân tích, so sánh, khái quát hóa, tổng hợp, đánh giá và dự báo để đạt được kết quả chính xác và toàn diện.
Để đánh giá thực trạng chung, cần thống kê các số liệu liên quan từ nguồn dữ liệu và tổng hợp chúng dưới dạng biểu đồ, bảng biểu Sau đó, các con số và sự kiện sẽ được phân tích độc lập để khái quát hóa bản chất, quy luật và xu hướng biến đổi Việc so sánh giữa các sự kiện và các thời kỳ là cần thiết để đạt được kết quả chính xác.
Tùy thuộc vào từng vấn đề cụ thể, luận văn có thể áp dụng các phương pháp riêng lẻ hoặc kết hợp nhiều phương pháp để làm rõ và giải thích vấn đề một cách hiệu quả.