1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Rà soát và sửa đổi các tiêu chuẩn và quy định về chiếu sáng công cộng trong khuôn khổ ADB SEECP TA

44 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 44
Dung lượng 503,39 KB

Cấu trúc

  • 1. Kh ở i ngu n c a nghiên c u ồ ủ ứ (0)
    • 1.1. Giới thiệu (8)
    • 1.2. Các hoạt động được đề xuất theo nhiệm vụ này (8)
    • 1.3. Tóm tắt các cuộc thảo luận sơ bộ với Cục quản lý hạ tầng kĩ thuật (10)
      • 1.3.1. Cuộc họp khởi động với Cục quản lý hạ tầng kĩ thuật vào ngày 26 tháng 3 năm 2021 (10)
      • 1.3.2. Nhận xét về Phạm vi công việc sửa đổi vào ngày 1 tháng 6 năm 2021 (11)
      • 1.3.3. Họp với Cục quản lý hạ tầng kĩ thuật vào ngày 22 tháng 6 năm 2021 (11)
  • 2. C ơ ở......................................................................................................................................................... s 10 1. Bối cảnh (12)
    • 2.2. Đánh giá các dự án trước đây liên quan đến phát triển / nâng cao tiêu chuẩn chiếu sáng ở Việt Nam12 2.3. Những phát triển gần đây liên quan đến tiêu chuẩn chiếu sáng ở Việt Nam (14)
    • 2.4. Tóm tắt những thách thức chính (16)
  • 3. Ph ươ ng ph á p ti ế p c ậ n và ph ươ ng ph á p lu ậ n (0)
    • 3.1. Quy trình sửa đổi / phát triển tiêu chuẩn của Bộ Xây Dựng (18)
    • 3.2. Phương pháp luận đề xuất (21)
  • 4. K ế ho ch làm vi c ạ ệ (26)
    • 4.1. Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường (nếu có) (26)
  • 5. Ph ụ ụ l c - 1: Ph m vi công vi c ạ ệ (0)

Nội dung

Kh ở i ngu n c a nghiên c u ồ ủ ứ

Giới thiệu

Vào ngày 1 tháng 10 năm 2018, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã phê duyệt Cơ sở Hỗ trợ Kỹ thuật Giao dịch mới cho Việt Nam, mang tên F-TRTA 9600, nhằm phát triển ngành năng lượng Đông Nam Á và xây dựng năng lực đầu tư Đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đồng thuận với ADB về F-TRTA Dự án Thành phố Thông minh và Hiệu quả Việt Nam (SEECP) được triển khai trong khuôn khổ F-TRTA với ba mục tiêu chính: nâng cao năng lực và nhận thức cho các cổ đông, cải thiện hệ thống chiếu sáng đường phố tái tạo tại các tỉnh và thành phố được chọn, và tăng cường chính sách cũng như quy định về sử dụng năng lượng hiệu quả, bao gồm cả đèn đường.

Vào tháng 2 và tháng 3 năm 2019, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã thảo luận với Bộ Xây dựng (MOC) về việc hỗ trợ tăng cường năng lực quản lý chiếu sáng đô thị công cộng tại Việt Nam Ngày 22 tháng 4 năm 2019, ADB đã yêu cầu MOC chuẩn bị Văn kiện Dự án Từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2019, ADB đã tiến hành các cuộc tham vấn với MOC và Cục Hạ tầng Kỹ thuật (ATl) để hoàn thiện bản phác thảo Văn kiện Dự án, được chính thức hóa trong Biên bản Ghi nhớ (MoU), tóm tắt các hoạt động hỗ trợ của ADB theo Hỗ trợ kỹ thuật.

Bộ Xây Dựng đã phê duyệt dự án thành phố thông minh và hiệu quả năng lượng, khởi động các hoạt động cho hợp phần của Bộ Thông tin chi tiết về cuộc họp khởi động và các cuộc họp tham vấn giữa Ngân hàng Phát triển châu Á và Bộ Xây Dựng được trình bày trong các phần 1.3.1, 1.3.2 và 1.3.3.

Các hoạt động được đề xuất theo nhiệm vụ này

Nhiệm vụ được đề xuất nhằm mục đích thúc đẩy sự nâng cấp và quản lý hệ thống chiếu sáng đô thị thông minh và hiệu quả ở Việt Nam.

Ngân hàng Phát triển châu Á sẽ thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ đầu tư, quản lý và vận hành hệ thống chiếu sáng đô thị thông minh tại Việt Nam, thông qua Bộ Xây Dựng và các tỉnh, thành phố Dự án bao gồm các thành phần chính: nâng cao năng lực và nhận thức của chính quyền về hệ thống chiếu sáng hiệu quả; phát triển phương thức đầu tư cho hệ thống chiếu sáng thông minh; và xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm thúc đẩy hoạt động chiếu sáng công cộng và thu hút đầu tư tư nhân.

Trong khuôn khổ hợp phần i), các buổi nâng cao năng lực sẽ được tổ chức cho các cơ quan như Sở Xây dựng, Công ty chiếu sáng công cộng, Sở Công Thương và các văn phòng tỉnh của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Mục tiêu của các buổi này là nâng cao nhận thức về các đề xuất sửa đổi quy định và tiêu chuẩn chiếu sáng công cộng, cũng như chia sẻ các thông lệ tốt nhất trong việc vận hành và bảo trì hiệu quả các tài sản công cộng Các hoạt động này sẽ tập trung vào việc phát triển hệ thống chiếu sáng công cộng thông minh và tiết kiệm năng lượng, đồng thời là một phần của quá trình kiểm toán và tư vấn năng lượng.

PwC đã tổ chức các buổi giới thiệu cho các sở, ban, ngành thành phố và tỉnh về dịch vụ công nghệ liên quan đến chiếu sáng công cộng và các công trình công cộng trong Dự án thành phố thông minh và hiệu quả năng lượng Mục tiêu là để hiểu rõ nhu cầu đào tạo của các đơn vị này Thiết kế các mô-đun đào tạo cho hội thảo sẽ dựa trên các ý kiến đóng góp từ UBND xã và UBND tỉnh trong quá trình nghiên cứu sơ cấp.

Các hoạt động nâng cao năng lực trong Dự án thành phố thông minh và hiệu quả năng lượng sẽ được thiết kế tổng thể để đáp ứng nhu cầu đào tạo của các bên liên quan quan trọng, bao gồm các bộ trung ương, sở ban ngành địa phương, khu vực tư nhân, tổ chức tài chính, ngân hàng và các viện nghiên cứu.

Một lịch đào tạo dự kiến đã được xây dựng với sự tham vấn từ Ngân hàng phát triển châu Á và các chính quyền địa phương, kết hợp các ý kiến thu thập trong giai đoạn khởi động dự án Các hội thảo tập huấn dự kiến sẽ bắt đầu vào tháng 6 năm nay.

Năm 2021, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, các hội thảo sẽ được tổ chức sau khi tình hình tại Việt Nam được cải thiện.

Dưới đây là tổng quan ngắn gọn về lịch đào tạo được đề xuất:

Để thực hiện hợp phần ii), một cuộc đánh giá các dự án thí điểm về chiếu sáng công cộng thông minh tại Hội An và Hà Nội đã được tiến hành, cùng với việc chuẩn bị báo cáo về phương thức đầu tư Ngân sách cho dự án thí điểm Đèn đường Hội An đã được phân bổ và thiết kế đã được phê duyệt, tuy nhiên, việc lắp đặt vẫn bị trì hoãn do chưa có sự phê duyệt từ Cục Hải quan Đối với Hà Nội, việc đánh giá thí điểm không còn nằm trong phạm vi do thành phố đã rút khỏi Dự án thành phố thông minh PwC đã phát triển phương pháp luận cho đánh giá dự án thí điểm và chuẩn bị tài liệu hướng dẫn về Báo cáo và Xác minh Đo lường (MRV), với các bước chính bao gồm rà soát dữ liệu hiện có và xác định các hành động giảm thiểu cũng như chỉ số chính.

Bước 3 trong quá trình xây dựng khung báo cáo và xác minh đo lường (MRV) cho ba kịch bản dự án là phát triển dự thảo khung, trong khi Bước 4 liên quan đến việc tham vấn các bên liên quan để hoàn thiện khung MRV cho các dự án chiếu sáng đường phố Vào ngày 12 tháng 7 năm 2021, PwC đã chia sẻ dự thảo báo cáo phương thức đầu tư cuối cùng với Ngân hàng Phát triển châu Á để xem xét và nhận đóng góp ý kiến Ngoài ra, PwC cũng đã trình bày phân tích về các lựa chọn phương thức đầu tư, bao gồm PPP và Quỹ đầu tư phát triển địa phương, trong buổi thảo luận chung với Ngân hàng Phát triển châu Á vào ngày 29 tháng 7 năm.

Vào ngày 14 tháng 8 năm 2021, PwC đã công bố phiên bản cập nhật của Báo cáo về phương thức đầu tư, dựa trên ý kiến từ Ngân hàng phát triển châu Á Báo cáo này bao gồm các nội dung chính như: bối cảnh tài chính cho lĩnh vực sử dụng năng lượng hiệu quả, các phương thức đầu tư tiềm năng cho chiếu sáng đường phố và trang bị các công trình công cộng tại Việt Nam, những cân nhắc quan trọng cùng với các tổ chức thực hiện hướng dẫn cho các phương thức đầu tư khác nhau ở Việt Nam, và mô hình đầu tư ưu tiên cho Dự án thành phố thông minh và hiệu quả năng lượng.

Báo cáo về phương thức đầu tư được chia sẻ với Ngân hàng phát triển châu Á vào ngày 14 tháng 8 năm

2021 hiện đang được xem xét và sau khi hoàn thiện, các cuộc thảo luận sẽ được bắt đầu với Bộ Xây dựng.

Báo cáo này trình bày tiến độ thực hiện hợp phần iii) liên quan đến việc xem xét tiêu chuẩn và quy định chiếu sáng công cộng Các phần tiếp theo tóm tắt kết quả thảo luận sơ bộ với Cục quản lý hạ tầng kỹ thuật và các kết luận đạt được Chương 2, 3 và 4 sẽ đi sâu vào nền tảng, phương pháp luận và kế hoạch làm việc cho việc xem xét các tiêu chuẩn này.

Tóm tắt các cuộc thảo luận sơ bộ với Cục quản lý hạ tầng kĩ thuật

1.3.1 Cuộc họp khởi động với Cục quản lý hạ tầng kĩ thuật vào ngày 26 tháng

Một cuộc họp quan trọng đã diễn ra tại Văn phòng Cục Quản lý Hạ tầng Kỹ thuật (ATI) ở Hà Nội, nhằm thảo luận về việc sửa đổi tiêu chuẩn kỹ thuật cho chiếu sáng công cộng Cuộc họp cũng đã cập nhật tiến độ dự án và xác định các bước tiếp theo cùng với các hoạt động chính trong dòng thời gian thực hiện Tham gia cuộc họp có đại diện từ Cục quản lý hạ tầng kĩ thuật thuộc Bộ Xây Dựng, Ngân hàng phát triển châu Á và PwC.

PwC đã đề xuất phạm vi công việc liên quan đến việc điều chỉnh tiêu chuẩn cho chiếu sáng đô thị thông minh và hiệu quả năng lượng Cục quản lý hạ tầng kỹ thuật nhận định rằng phạm vi này phù hợp với các hoạt động trong tài liệu dự án Hỗ trợ Kỹ thuật đã ký Các quan chức của Cục đã đưa ra phản hồi và đề xuất sửa đổi Điều khoản tham chiếu.

- Các sản phẩm được cung cấp có liên quan đến kết quả mong đợi của sự hỗ trợ kĩ thuật và cần được làm rõ thêm;

- Các mốc thời gian của nghiên cứu sẽ được kéo dài thêm do sự phụ thuộc giữa các hoạt động;

- Tên của Cơ quan có liên quan, nơi sẽ cung cấp phê duyệt các sản phẩm được giao, phải được chỉ định rõ ràng;

- Tình hình thực hiện các tiêu chuẩn hiện có được nhóm dự án đánh giá;

Việc thành lập Ban kỹ thuật hoặc nhóm công tác để sửa đổi tiêu chuẩn là không cần thiết, do cần sự tham gia của đại diện từ nhiều bộ, ban ngành khác nhau, điều này sẽ gây khó khăn trong việc tổ chức.

Thay vì tổ chức các hội thảo đào tạo lớn với sự tham gia của nhiều tổ chức, nên xem xét tổ chức các hội thảo nhỏ hơn, tập trung vào các cơ quan liên quan.

Cục Quản lý Hạ tầng Kỹ thuật yêu cầu Ngân hàng Phát triển Châu Á tìm kiếm một nhà tư vấn quốc gia độc lập nhằm đánh giá dự thảo tiêu chuẩn kỹ thuật và xác định sự phù hợp của các tiêu chuẩn này.

PwC yêu cầu của ATI và xác định bất kỳ khía cạnh nào không được xem xét trong dự thảo tiêu chuẩn kỹ thuật.

Sau cuộc họp, PwC đã điều chỉnh Điều khoản tham chiếu theo đề xuất của Bộ Xây Dựng, và những sửa đổi này đã được Ngân hàng Phát triển Châu Á thông báo đến Bộ Xây Dựng.

1.3.2 Nhận xét về Phạm vi công việc sửa đổi vào ngày 1 tháng 6 năm 2021

Cục Quản lý Hạ tầng Kỹ thuật thuộc Bộ Xây Dựng đã tiến hành xem xét các điều khoản tham chiếu sửa đổi được Ngân hàng Phát triển Châu Á cung cấp và đã đưa ra những nhận xét cùng đề xuất cụ thể.

- Thay đổi thuật ngữ “chiếu sáng đường phố công cộng” thành “chiếu sáng công cộng đô thị”;

Bổ sung việc "rà soát và sửa đổi" TCVN 333:2005 - Chiếu sáng nhân tạo ngoài trời cho các công trình công cộng và hạ tầng đô thị vào phạm vi dự án là cần thiết để nâng cao chất lượng chiếu sáng, đảm bảo an toàn và thẩm mỹ cho không gian đô thị.

Để phát triển lộ trình cho các tiêu chuẩn và quy định chiếu sáng công cộng, cần làm rõ các điều khoản liên quan và xác định các công việc, nhiệm vụ cần thiết để đảm bảo quy định và tiêu chuẩn được thực hiện hiệu quả Việc này bao gồm việc khảo sát thực trạng chiếu sáng hiện tại, phân tích nhu cầu và đề xuất các giải pháp cải tiến, nhằm nâng cao chất lượng và an toàn cho hệ thống chiếu sáng công cộng.

- Thay đổi nhãn tiêu chuẩn quốc gia từ TCXDVN sang TCVN ở Điều khoản tham chiếu để phù hợp với Luật Tiêu chuẩn và Quy định kỹ thuật;

- Giảm số lượng Quy định kỹ thuật (ngoài QCVN333, TCXDVN259 và QCVN333) phải rà soát; và

Nội dung bài viết bao gồm việc soạn thảo các điều khoản của Quy định và Tiêu chuẩn chiếu sáng đô thị, tập trung vào chiếu sáng thông minh và hiệu quả năng lượng trong khuôn khổ dự án.

Dựa trên các nhận xét và đề xuất, PwC đã điều chỉnh Điều khoản tham chiếu mà Ngân hàng Phát triển châu Á đã chia sẻ với Cục Quản lý Hạ tầng Kỹ thuật thuộc Bộ Xây dựng.

1.3.3 Họp với Cục quản lý hạ tầng kĩ thuật vào ngày 22 tháng 6 năm 2021

Vào ngày 22 tháng 6 năm 2021, một cuộc họp đã diễn ra giữa Ngân hàng Phát triển Châu Á, nhóm dự án và Cục Quản lý Hạ tầng Kỹ thuật nhằm thảo luận và hoàn thiện Điều khoản tham chiếu sửa đổi Cuộc họp tập trung vào kế hoạch thực hiện dự án Rà soát và Sửa đổi Quy chế Chiếu sáng Công cộng và Tiêu chuẩn tại Việt Nam Các điểm chính trong thảo luận bao gồm phạm vi chi tiết công việc và sản phẩm giao, phương pháp luận và thời gian thực hiện dự án.

PwC đã trình bày và thảo luận về các mục tiêu nghiên cứu, hoạt động đề xuất và phân phối nghiên cứu theo Điều khoản tham chiếu sửa đổi, với thời gian nộp tài liệu từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 6 năm 2022 Cục quản lý hạ tầng kỹ thuật đã đồng ý với phạm vi công việc và tiến trình tổng thể được đề xuất bởi Ngân hàng phát triển châu Á, với phạm vi công việc chi tiết được cung cấp trong Phụ lục 1.

PwC đã tổng hợp quy trình sửa đổi các tiêu chuẩn và quy định tại Việt Nam thông qua một phương pháp luận gồm 9 bước Phương pháp này được áp dụng để thiết kế cách tiếp cận nhằm thực hiện rà soát kỹ thuật và chuẩn bị các khuyến nghị cho đề xuất sửa đổi QCVN 07-7:2016/BXD, TCVN 259:2001 và TCVN 333.

Vào năm 2005, PwC đã thực hiện quy trình rà soát các tiêu chuẩn liên quan nhằm sửa đổi các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn phương pháp đo, và quyết định công bố dự toán kinh phí bảo trì hệ thống chiếu sáng đô thị Chi tiết về quy trình này sẽ được trình bày trong các chương tiếp theo của báo cáo.

C ơ ở s 10 1 Bối cảnh

Đánh giá các dự án trước đây liên quan đến phát triển / nâng cao tiêu chuẩn chiếu sáng ở Việt Nam12 2.3 Những phát triển gần đây liên quan đến tiêu chuẩn chiếu sáng ở Việt Nam

triển / nâng cao tiêu chuẩn chiếu sáng ở Việt Nam

Một đánh giá sơ bộ về các sáng kiến trước đây của Chính phủ Việt Nam đã được thực hiện với sự hỗ trợ của các cơ quan phát triển quốc tế, nhằm tìm hiểu về hiệu quả của các chương trình này trong việc cải thiện các tiêu chuẩn chiếu sáng công cộng Mặc dù số lượng sáng kiến tập trung vào lĩnh vực này còn hạn chế, nhưng một số chương trình đã góp phần mang lại những thay đổi tích cực và đáng kể.

1 Dự án Chiếu sáng Công cộng Hiệu quả Năng lượng Việt Nam (VEEPL): Dự án “Chiếu sáng Công cộng Hiệu quả Năng lượng Việt Nam (VEEPL)” do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) hình thành Dự án bắt đầu vào năm 2005 với sự đồng tài trợ của Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), chính phủ quốc gia và các nguồn tài chính tư nhân Dự án kết thúc vào tháng 6 năm 2011 Mục tiêu chung của dự án là hỗ trợ cả về kỹ thuật và chính sách để chuyển đổi sang chiếu sáng công cộng hiệu quả hơn (chiếu sáng đường phố, không gian công cộng và các tòa nhà công cộng) ở Việt Nam Trong số các thành phần khác nhau của dự án, những điều sau đây được phát hiện là có liên quan đến các tiêu chuẩn chiếu sáng công cộng: i Hợp phần 1 Xây dựng chính sách chiếu sáng công cộng - Hợp phần này bao gồm việc thực hiện các hoạt động nhằm củng cố và cải thiện khung chính sách và quy định để khuyến khích sự hiệu quả năng lượng cho các dự án chiếu sáng công cộng ở Việt Nam. ii Hợp phần 2 Chương trình hỗ trợ kỹ thuật chiếu sáng công cộng - Hợp phần này bao gồm các hoạt động tăng cường năng lực của các cơ quan Chính phủ có liên quan về thử nghiệm sản phẩm chiếu sáng hiệu quả năng lượng, giám sát thị trường và thực thi các tiêu chuẩn với người tiêu dùng. Điều này sẽ thiết lập các tiềm năng và yêu cầu cho việc áp dụng sự hiệu quả năng lượng cho các hệ thống chiếu sáng công cộng.

Các kết quả chính liên quan đến chính sách chiếu sáng công cộng bao gồm việc xây dựng khung pháp lý, trong đó có Chiến lược quốc gia về phát triển chiếu sáng đô thị của Việt Nam đến năm 2025 và Nghị định về quản lý chiếu sáng đô thị.

Vào năm 2009, đã có các thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định tháng 8 năm 2010 về tích hợp của EEPL trong quy hoạch thành phố, cùng với các yêu cầu kỹ thuật đối với đèn điện hiệu quả năng lượng Tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng được thiết lập cho nhiều sản phẩm chiếu sáng như đèn huỳnh quang compact, chấn lưu cho đèn huỳnh quang, đèn huỳnh quang dạng ống và đèn natri cao áp Đồng thời, năng lực thử nghiệm chiếu sáng tại các trung tâm thử nghiệm cũng được nâng cao, với việc thử nghiệm các mô hình CFL đã chọn Cuối cùng, đề xuất thành lập Phòng thí nghiệm Chứng nhận và Thử nghiệm Chiếu sáng Quốc gia đã được hoàn thành.

VEEPL được triển khai khi đèn LED chưa phổ biến trên thị trường, dẫn đến việc dự án chưa chú trọng vào công nghệ đèn LED như một giải pháp tiết kiệm năng lượng cho chiếu sáng công cộng Hệ quả là các quy định do dự án ban hành cũng thiếu sự tập trung vào đèn LED và các công nghệ thông minh trong lĩnh vực chiếu sáng.

2 Phát triển địa phương và thúc đẩy công nghệ LED cho chiếu sáng chung tiên tiến ở Việt Nam:

Dự án được khởi động với sự đồng tài trợ từ Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), cùng với sự hỗ trợ của chính phủ quốc gia và khu vực tư nhân Thời gian thực hiện dự án bắt đầu từ ngày 1 tháng.

Dự án được thực hiện từ năm 2015 đến ngày 30 tháng 6 năm 2019 bởi Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST), với sự tham gia của Trung tâm Phát triển Công nghệ cao (CHTD) thuộc Viện Hàn lâm KHCNVN.

Ngành công nghiệp đèn LED địa phương đang phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về sản phẩm đèn LED chất lượng sản xuất trong nước.

- Hoàn thành đánh giá hai năm một lần về lộ trình quốc gia về phát triển đèn LED

- Cải tiến tiêu chuẩn chiếu sáng LED đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế

- Hội thảo đào tạo để tăng cường chế độ thử nghiệm / thực thi đèn LED

- Các sản phẩm chiếu sáng LED được dán nhãn và chứng nhận

- Các quy tắc xây dựng được cập nhật bao gồm việc sử dụng các sản phẩm chiếu sáng LED

- Chương trình nâng cao năng lực cho các cơ sở nghiên cứu và phát triển về LED được củng cố và

- Thiết kế kỹ thuật / xây dựng để sản xuất đèn LED cải tiến.

3 Việt Nam - Chương trình hiệu quả năng lượng quốc gia giai đoạn 2019 - 2030: Các hoạt động sau đây được nêu trong Chương trình hành động VNEEP3 có mối liên hệ với hiệu quả năng lượng trong chiếu sáng công cộng: i Tích hợp các giải pháp tiết kiệm năng lượng cho hệ thống chiếu sáng đô thị; ii Thực hiện các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, xúc tiến các dự án đầu tư xây dựng mới, dự án cải tiến, lắp đặt, thay thế thiết bị trong hệ thống chiếu sáng công cộng; dự án đầu tư sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; iii Chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan rà soát, nghiên cứu, phát triển và ban hành định mức năng lượng, định mức sử dụng năng lượng cho hệ thống chiếu sáng giao thông quốc gia đáp ứng yêu cầu quản lý và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; và iv Thí điểm phát triển và nâng cấp các trung tâm chỉ huy và điều khiển chiếu sáng công cộng sử dụng GSM / GPRS để cải thiện sự hiệu quả năng lượng chiếu sáng công cộng.

VNEEP3 tuân theo ATI và chịu trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, bao gồm sửa đổi Quyết định 1874 về quy hoạch chiếu sáng đô thị Việt Nam và Nghị định 79 về quản lý chiếu sáng đô thị Ngoài ra, VNEEP3 còn nghiên cứu, xây dựng và ban hành các quy định liên quan đến mô hình ESCO trong chiếu sáng công cộng giai đoạn 2021-2023 Cuối cùng, chương trình cũng sẽ phát triển chính sách khuyến khích hiệu quả năng lượng chiếu sáng đô thị từ năm 2021 đến 2025.

18 tại Quyết định 1677 / QĐ-BXD ngày 30 tháng 12 năm 2020).

2.3 Những phát triển gần đây liên quan đến tiêu chuẩn chiếu sáng ở Việt Nam

Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư 08/2019/TT-BKHCN, quy định yêu cầu chứng nhận cho sản phẩm chiếu sáng sử dụng đèn LED Thông tư này bao gồm các nội dung liên quan đến đèn LED tích hợp chấn lưu, phục vụ cho chiếu sáng chung với điện áp làm việc cao hơn.

50V LED thay thế trực tiếp cho LFL; và

Bộ đèn LED (mã HS - 85395000, 94051091, 94052090).

Yêu cầu tuân thủ cần được đáp ứng theo bảng dưới đây:

Bảng 2: Yêu cầu tuân thủ đối với các sản phẩm chiếu sáng khác nhau

Loại sản phẩm Đèn LED nắp đôi thay thế trực tiếp cho LFL (Đèn LED phẳng)

Tất cả các sản phẩm chiếu sáng LED đều được tích hợp chấn lưu và có điện áp làm việc trên 50V Để đảm bảo sự phù hợp, các sản phẩm này sẽ phải trải qua đánh giá thử nghiệm kiểu mẫu để nhận chứng chỉ CR Mark Thử nghiệm trong nước là bắt buộc, và sau khi hoàn tất, chứng chỉ hợp quy CR Mark (COC) sẽ có hiệu lực trong ba năm Khi được chứng nhận, các sản phẩm sẽ được gắn nhãn CR Mark.

Hình 2: Mô tả CR mark

Quy định có hiệu lực từ ngày 31 tháng 12 năm 2019, cho phép các sản phẩm hiện có lưu thông trên thị trường đến hết tháng 6 năm 2022 Từ ngày 1 tháng 6 năm 2020, tất cả sản phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu an toàn và EMC trước khi gia nhập thị trường Đến ngày 1 tháng 6 năm 2021, các sản phẩm chiếu sáng LED cần tuân thủ thêm các yêu cầu về miễn nhiễm EMC và an toàn quang sinh học Lưu ý rằng thông tư này loại trừ một số loại đèn LED, bao gồm đèn đường cho cơ sở hạ tầng công cộng, phương tiện quảng cáo ngoài trời và đèn cho ô tô.

Việc áp dụng các tiêu chuẩn về phát xạ, miễn nhiễm và an toàn sinh học cho hệ thống chiếu sáng công cộng tại Việt Nam vẫn chưa được thực hiện.

Tóm tắt những thách thức chính

Khung chính sách về chiếu sáng công cộng hiệu quả năng lượng, mặc dù đã được cải thiện nhờ các dự án trước đây, vẫn tồn tại một số vấn đề Quy định QCVN 07-7, mặc dù là quy định quốc gia bắt buộc cho việc cải tạo và xây dựng mới các công trình hạ tầng chiếu sáng công cộng, nhưng chưa tập trung đầy đủ vào hiệu quả năng lượng Các điều khoản liên quan đến hiệu quả năng lượng được trình bày một cách chung chung, trong khi việc nâng cao hiệu quả năng lượng trong chiếu sáng công cộng cần yêu cầu nâng cấp công nghệ lên những tiêu chuẩn tốt nhất hiện có và áp dụng các thực tiễn quản lý, vận hành và bảo trì tốt nhất.

Quy định hiện hành về hiệu quả năng lượng không rõ ràng, dẫn đến sự hiểu biết khác nhau giữa các tỉnh/thành phố về công nghệ và thực tiễn áp dụng Các cuộc tham vấn cho thấy đèn thông thường vẫn được coi là hiệu quả năng lượng, dù một số loại không thể điều chỉnh độ sáng và có thể gây ô nhiễm ánh sáng Thiếu nhận thức về hiệu suất của đèn LED so với đèn thông thường khiến công chúng vẫn cho rằng LED có chất lượng màu sắc kém hơn, mặc dù thực tế không phải vậy Người tiêu dùng mong đợi sự thay đổi hoàn toàn giữa các công nghệ chiếu sáng, yêu cầu sản phẩm thay thế phải tương thích về chất lượng màu sắc và phân bố ánh sáng Cuối cùng, mặc dù tiết kiệm năng lượng trong chiếu sáng công cộng là ưu tiên trong VNEEP3, các cơ quan chính phủ vẫn thiếu sự giám sát và thúc đẩy trong lĩnh vực này.

4 Tài liệu dự án của dự án VEEPL, UNDP

PwC thực hiện lắp đặt hệ thống chiếu sáng LED và đánh giá hiệu suất chiếu sáng công cộng, nhưng gặp phải những hạn chế về năng lực do thiếu hiểu biết về tiêu chuẩn và quy trình cho sản phẩm LED Họ cũng thiếu kinh nghiệm trong việc đàm phán với nhà sản xuất để cải thiện hiệu quả năng lượng và giám sát vi phạm quyền sở hữu trí tuệ Hơn nữa, cơ sở hạ tầng kiểm tra sản phẩm LED tại Việt Nam còn thiếu, mặc dù có các cơ sở nghiên cứu và kiểm tra chất lượng sản phẩm.

Cơ sở nghiên cứu tại Viện An toàn và Vệ sinh Lao động Việt Nam, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cùng với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các nghiên cứu liên quan đến an toàn lao động và sức khỏe nghề nghiệp.

- Cơ sở kiểm tra chất lượng sản phẩm tại các Phòng thử nghiệm QUATEST 1, 2 và 3 lần lượt ở các miền Bắc, Trung, Nam của Việt Nam và

Công ty Cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông tại Hà Nội, Công ty Điện Quang và Công ty Philips đều có cơ sở sản xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Phòng thử nghiệm QUATEST là cơ sở hàng đầu và uy tín nhất tại Việt Nam, được công nhận bởi Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc MoST Trước khi đưa sản phẩm ra thị trường, các nhà bán lẻ, phân phối và sản xuất đều phải đảm bảo nhận được chứng nhận tuân thủ tiêu chuẩn quốc gia từ QUATEST Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức cần phải giải quyết.

QUATEST có khả năng kiểm tra độ an toàn, hiệu suất và hiệu quả của các loại đèn LED như bóng LED và ống LED Tuy nhiên, họ không có thiết bị để kiểm tra tính tuân thủ điện, hiệu suất năng lượng và đo quang, dẫn đến việc chỉ có thể kiểm tra các sản phẩm này Ngoài ra, QUATEST còn gặp khó khăn về nhân sự có trình độ và không gian thử nghiệm Do đó, các nhà sản xuất đèn LED thường phải gửi sản phẩm đến các phòng thí nghiệm khác, chủ yếu là nước ngoài, với chi phí cao hơn.

Văn phòng Công nhận (BoA) chỉ thực hiện việc công nhận các thông số kỹ thuật, không phải sản phẩm Hiện tại, BoA đã cấp sự công nhận cho việc kiểm tra các thông số kỹ thuật an toàn và hiệu suất của hai loại đèn LED Các thông số kỹ thuật và loại đèn LED khác không thể được QUATEST kiểm tra và do đó không đủ điều kiện nhận sự công nhận từ BoA.

Ph ươ ng ph á p ti ế p c ậ n và ph ươ ng ph á p lu ậ n

Quy trình sửa đổi / phát triển tiêu chuẩn của Bộ Xây Dựng

Bộ Xây dựng (MoC) chịu trách nhiệm lập, phê duyệt và quản lý các tiêu chuẩn xây dựng quốc gia Vụ Khoa học và Công nghệ (DST) cùng các Vụ chức năng như ATI là những đơn vị đảm nhiệm công tác tiêu chuẩn hóa tại Bộ Hiện tại, không có hạn chế nào về loại hình tổ chức có thể đề xuất xây dựng hoặc sửa đổi các tiêu chuẩn và quy định, cho phép viện nghiên cứu, tổ chức quản lý xây dựng, doanh nghiệp và trường đại học tham gia vào quá trình này.

Tháng 6 năm 2006, Luật tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật mới được Quốc hội khóa XI thông qua, có hiệu lực từ tháng 1 năm 2007 Theo luật mới, hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam bao gồm các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật Có hai loại tiêu chuẩn, là tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn công ty Tất cả các tiêu chuẩn quốc gia đều có ký hiệu chữ cái là TCVN và tiêu chuẩn công ty có ký hiệu chữ cái là TCCS Các quy định kỹ thuật được chia thành quy định kỹ thuật quốc gia được giao ký hiệu QCVN và quy định kỹ thuật cấp tỉnh được giao ký hiệu QCDP Trong khi việc áp dụng các quy định kỹ thuật/ mã (QCVN) là bắt buộc, thì việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) là tự nguyện.

Quy trình xây dựng quy định kỹ thuật quốc gia và tiêu chuẩn quốc gia được thực hiện bởi các bộ liên quan, không phải Ủy ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia Theo luật, các tiêu chuẩn cần được đánh giá khả năng áp dụng ba năm một lần, trong khi các quy định kỹ thuật phải được xem xét định kỳ năm năm một lần Việc sửa đổi và bổ sung các tiêu chuẩn trong lĩnh vực này là sáng kiến kịp thời của MOC và ATI.

Bước 6: Lập bản phác thảo cuối cùng

Bước 7: Công bố và phổ biến tiêu chuẩn

Sự phát triển của mã và tiêu chuẩn xây dựng ở Việt Nam đã được thực hiện bởi Trung tâm Tiêu chuẩn hóa Xây dựng thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Xây dựng Việt Nam (IBST) tại Hà Nội Những mã và tiêu chuẩn này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công trình xây dựng, đảm bảo an toàn và bền vững cho các dự án xây dựng trong cả nước.

Các bước liên quan đến việc ban hành hoặc sửa đổi các tiêu chuẩn /mã và quy định tại Việt Nam được trình bày chi tiết dưới đây.

Nhà phát triển tiêu chuẩn 5 đánh giá nhu cầu về các tiêu chuẩn hoặc sửa đổi mới so với các tiêu chuẩn hiện có Họ cũng lập chương trình phát triển tiêu chuẩn hàng năm với sự hỗ trợ từ các chuyên gia tư vấn.

• Sở Khoa học và Công nghệ (DST) phê duyệt chương trình cho phép đưa ra đề xuất tạo / sửa đổi tiêu chuẩn.

5 Một tổ chức chuẩn bị các mã và tiêu chuẩn được gọi là nhà phát triển tiêu chuẩn.

2 Chuẩn bị đề xuất dự án i TWG chuẩn bị đề xuất (với sự hỗ trợ của chuyên gia tư vấn) Đề xuất này phải nêu rõ ý nghĩa, mục tiêu, phạm vi và phương pháp luận của việc xây dựng / sửa đổi tiêu chuẩn, các thành viên của

WG chuẩn bị chi phí và thời gian để hoàn thành dự án Cuộc họp đánh giá diễn ra nhằm hội đồng Khoa học và Kỹ thuật xem xét và phê duyệt đề xuất, với sự tham gia của DST Sau đó, đề xuất được đệ trình cho DST để xem xét và phê duyệt Cuối cùng, hợp đồng được trao cho nhà phát triển tiêu chuẩn để thực hiện việc phát triển các tiêu chuẩn.

3 Xây dựng bản phác thảo đầu tiên

• TWG chuẩn bị bản thảo đầu tiên (với sự hỗ trợ của các chuyên gia tư vấn); và

• Hội thảo được thực hiện với các bên liên quan trong ngành để thu thập ý kiến.

4 Xây dựng và xem xét bản phác thảo thứ 2

• Bản phác thảo đầu tiên được sửa đổi dựa trên ý kiến nhận được trong buổi hội thảo

Sau khi hoàn thiện, bản phác thảo thứ hai đã được gửi đến Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật để tiến hành xem xét.

Ủy ban khoa học và kỹ thuật sẽ tiến hành đánh giá chung với sự tham gia của 2-3 người đánh giá bổ sung, 1 nhân chứng từ DST và 1 chuyên gia từ một tổ chức bên ngoài trong một cuộc họp đánh giá.

Bản thảo thứ hai đã được sửa đổi và đăng tải trên trang web của MOC để thu thập ý kiến từ cộng đồng Mọi người có thể tải bản thảo và gửi phản hồi cho MOC trong thời gian chuẩn bị bản thảo lần thứ ba Những phản hồi này sẽ được chuyển đến TWG để xem xét Thảo luận có thể diễn ra qua email, điện thoại hoặc fax, và thông tin cập nhật sẽ được tích hợp vào bản thảo thứ ba trước khi gửi đến DST Cơ chế này tạo cơ hội cho ngành công nghiệp tham gia vào việc định hình nội dung tiêu chuẩn trước khi công bố chính thức.

5 Xây dựng và xem xét bản phác thảo thứ 3

• Dựa trên các ý kiến nhận được trong cuộc họp đánh giá, bản thảo thứ 2 được cập nhật để chuẩn bị cho bản thảo thứ 3

• Bản dự thảo thứ 3 được Ủy ban khoa học và kỹ thuật của nhà phát triển tiêu chuẩn thẩm định trước khi đệ trình lên DST để xem xét;

Cuộc họp đánh giá tiêu chuẩn ở cấp bộ được tổ chức bởi DST, dưới sự điều hành của một hội đồng khoa học và kỹ thuật Hội đồng này bao gồm các chuyên gia từ nhiều tổ chức và đơn vị khác nhau, những người sẽ bị ảnh hưởng bởi các tiêu chuẩn được thảo luận.

6 Lập bản phác thảo cuối cùng

• Bản thảo cuối cùng được lập sau cuộc họp xem xét ở cấp bộ và được gửi lại cho DST để phê duyệt.

7 Công bố và phổ biến tiêu chuẩn

Sau khi được phê duyệt, việc công bố và phổ biến tiêu chuẩn được thực hiện.

Theo chỉ đạo của ATI trong cuộc họp ngày 22 tháng 6 năm 2021, Bộ Xây dựng sẽ không thành lập nhóm công tác kỹ thuật (TWG) để sửa đổi tiêu chuẩn Vì vậy, ATI sẽ là đối tác của chính phủ trong việc xem xét tài liệu phân phối, cũng như cách tiếp cận và phương pháp luận cho nghiên cứu được chuẩn bị và trình bày chi tiết trong các phần tiếp theo.

Phương pháp luận đề xuất

Nghiên cứu sẽ tập trung vào việc đề xuất sửa đổi các quy định và tiêu chuẩn như QCVN 07-7, TCVN 259: 2001 và TCVN 333: 2005, nhằm xây dựng dự thảo tiêu chuẩn sửa đổi đầu tiên Nhóm dự án sẽ hỗ trợ ATI trong việc phản hồi các ý kiến nhận được trong quá trình xem xét bản thảo tiêu chuẩn sửa đổi thứ hai và thứ ba Các bước cụ thể sẽ được đề xuất để tiến hành xem xét và soạn thảo các sửa đổi cần thiết.

Hình 4: Phương pháp luận đề xuất

Tham vấn các bên liên quan

Cập nhật cuộc họp với ATI và chuẩn bị đề xuất

Phân tích bằng chứng thực nghiệm từ kiểm toán năng lượng Đánh giá năng lực khảo thí ở Việt Nam

Chuẩn bị bản thảo sửa đổi các tiêu chuẩn / quy định đầu tiên

Hội thảo đào tạo và nâng cao nhận thức về các khuyến nghị được đề xuất và thực hành vận hành và bảo trì cho chiếu sáng thông minh

Hội thảo cuối cùng để các bên liên quan có quan điểm về các khuyến nghị / đầu vào được đề xuất

Các tiêu chuẩn kỹ thuật và đo lường sẽ được xem xét để xây dựng các điều khoản cho tiêu chuẩn chiếu sáng hiệu suất năng lượng Đầu tiên, tài liệu cơ sở của các quy định sẽ được rà soát để hiểu rõ phạm vi áp dụng và các ghi chú từ việc tham vấn cộng đồng Tiếp theo, việc phân tích so sánh giữa các tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn Việt Nam là cần thiết, nhằm xác định tiêu chuẩn chiếu sáng phù hợp với điều kiện thị trường Hài hòa các tiêu chuẩn này có thể thúc đẩy sự chuyển đổi thị trường và làm cho sản phẩm chiếu sáng hiệu quả trở nên dễ tiếp cận hơn Tiêu chuẩn IESNA và CIE được công nhận toàn cầu, trong đó CIE phổ biến ở Đông Nam Á, sẽ được sử dụng làm cơ sở so sánh với tiêu chuẩn Việt Nam Cuối cùng, tham vấn các bên liên quan như cơ quan chính phủ và tổ chức tư nhân sẽ giúp trình bày kết quả phân tích và thu thập phản hồi để hoàn thiện tiêu chuẩn chiếu sáng.

Bảng 3: Danh sách các bên liên quan cần tham vấn

Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất

Trung tâm Kiểm định và Đảm bảo Chất lượng 1

Vụ Khoa nghệ và Tiết kiệm Năng lượng (DSTES)

Các nhà sản xuất đèn

LED trong khu vực tư nhân trong

Các tổ chức dịch vụ xã hội dân sự và các tổ chức Phi trong lĩnh vực sử dụng năng

(như Hiệp sáng Việt Nam, Hiệp hội

Tiết kiệm và Hiệu quả năng

Hiệp hội Kỹ sư Năng lượng Việt Nam, Ủy ban

Quốc gia về tiêu chuẩn

Các quan điểm đồng thuận từ các cuộc tham vấn sẽ được tóm tắt trong một trang trình chiếu để trình bày với ATI Cuộc họp cập nhật với ATI sẽ diễn ra, trong đó phân tích sơ bộ và kết quả tham vấn sẽ được trình bày nhằm tìm kiếm phản hồi Bước này rất quan trọng để nhận diện các kỳ vọng mâu thuẫn giữa chính phủ và khu vực tư nhân, đồng thời xác định các lĩnh vực thỏa thuận Sau đó, việc soạn thảo đề xuất sẽ được bắt đầu, trong đó nêu rõ ý nghĩa, mục tiêu, phạm vi, phương pháp luận, chi phí và thời gian hoàn thành tiêu chuẩn.

Bản phác thảo tiêu chuẩn sẽ được đệ trình lên DST để xem xét và phê duyệt, khởi đầu cho việc xây dựng tiêu chuẩn đầu tiên Dữ liệu từ kiểm toán năng lượng ở 6 tỉnh/thành phố sẽ được phân tích để đánh giá mức độ tuân thủ các tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, đồng thời đề xuất cải tiến quy định về chiếu sáng công cộng Nhóm dự án sẽ tham khảo ý kiến các phòng thí nghiệm để nâng cao năng lực thử nghiệm cho các sản phẩm chiếu sáng LED, đồng thời xác định phương thức thử nghiệm phù hợp Sau khi phân tích, nhóm sẽ soạn thảo các sửa đổi cho tiêu chuẩn và thông báo cho ATI để nhận được sự ủng hộ Các buổi đào tạo sẽ được tổ chức nhằm nâng cao nhận thức và năng lực cho các đơn vị quản lý, vận hành và bảo trì chiếu sáng công cộng Cuối cùng, hội thảo với sự tham gia của các bên liên quan sẽ được tổ chức để thảo luận về bản thảo tiêu chuẩn sửa đổi và đảm bảo tính phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế Sau hội thảo, bản thảo sẽ được chỉnh sửa để phát triển bản thảo thứ hai, với sự hỗ trợ kỹ thuật từ ADB.

PwC sẽ xem xét các tiêu chuẩn chiếu sáng khác và nhóm dự án sẽ thực hiện các bước I, II và III để đánh giá nhu cầu cập nhật và sửa đổi Thông tin về lịch trình của các sản phẩm sẽ được cung cấp trong chương tiếp theo.

K ế ho ch làm vi c ạ ệ

Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường (nếu có)

Nhóm tư vấn sẽ tổ chức các cuộc họp với ATI và Nhóm công tác kỹ thuật để cập nhật thông tin và thảo luận về tài liệu quan trọng ATI và TWG sẽ xem xét các tài liệu đã được phân phối, đưa ra nhận xét để sửa đổi và hoàn thiện Tài liệu sẽ được cung cấp bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt.

Bảng 4: Kế hoạch làm việc

Báo cáo lộ trình thực hiện các tiêu chuẩn, quy định chiếu sáng công cộng

Báo cáo rà soát kỹ thuật QCVN 07-7: 2016 / BXD, TCVN 259: 2001 và TCVN 333: 2005 và rà soát kỹ thuật sơ bộ các tiêu chuẩn nêu tại Mục 3.3 của TOR

Dự thảo báo cáo về các khuyến nghị đối với tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật

Báo cáo cuối cùng về các khuyến nghị đối với các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật

Dự thảo Quy định và Tiêu chuẩn Kỹ thuật (chiếu sáng thông minh và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam)

Cố vấn sẽ thực hiện công việc không liên tục từ tháng 3 năm 2021 đến tháng 6 năm 2022, với phạm vi công việc được xác định rõ ràng, trong đó các sản phẩm cuối cùng sẽ được ATI phê duyệt.

Lưu ý: Nếu không đạt được sự chấp thuận cho các sản phẩm đã nói trong vòng 3 tuần, thì điều tương tự sẽ được coi là đã được chấp thuận:

Nhiệm vụ 1 bao gồm việc xây dựng lộ trình cho tiêu chuẩn và quy định chiếu sáng công cộng tại Việt Nam nhằm đánh giá các lỗ hổng trong quy định hiện hành và xác định các tiêu chuẩn kỹ thuật cần sửa đổi Đầu tiên, cần xác định khoảng cách giữa các quy định quốc gia và các thông lệ quốc tế tốt nhất trong lĩnh vực chiếu sáng công cộng, bao gồm điều chỉnh độ sáng và tiêu chuẩn thiết bị Tiếp theo, cung cấp hướng dẫn kỹ thuật cho Bộ Giao thông Vận tải về các yêu cầu và phương pháp cần thiết để đảm bảo chiếu sáng đường phố an toàn, hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, đồng thời hỗ trợ các phương pháp tiếp cận PPP và EPC Cuối cùng, xây dựng lộ trình thực hiện các tiêu chuẩn và quy định chiếu sáng công cộng, cùng với việc xác định phạm vi công việc trong nghiên cứu này như một phần của quá trình hỗ trợ thực hiện lộ trình.

Lưu ý rằng công việc chỉ bao gồm việc cung cấp các đầu vào và khuyến nghị kỹ thuật, đồng thời xem xét các tiêu chuẩn và quy định hiện hành.

Nhiệm vụ 2 bao gồm việc rà soát kỹ thuật và đề xuất sửa đổi QCVN 07-7: 2016/BXD liên quan đến quy định kỹ thuật quốc gia về hạ tầng kỹ thuật và chiếu sáng nhân tạo Công việc này sẽ xem xét các tài liệu quy định và tiêu chuẩn cơ sở, phân tích các số liệu kỹ thuật hiện có, và so sánh các quy định trước đây với hiện tại Đồng thời, cần rà soát các tiêu chuẩn quốc tế về chiếu sáng công cộng, xác định các bên liên quan và nguồn lực kỹ thuật, cũng như tham vấn với các bên liên quan về tác động của các khuyến nghị đối với thị trường Việt Nam Cuối cùng, sẽ tổ chức hội thảo với Bộ Xây dựng và phân tích dữ liệu từ các cuộc kiểm toán năng lượng để đánh giá sự tuân thủ của các tỉnh/thành phố thuộc SEECP đối với tiêu chuẩn và đề xuất các khuyến nghị cập nhật cho QCVN-07.

Để đảm bảo hiệu quả năng lượng và giảm ô nhiễm ánh sáng từ hệ thống chiếu sáng công cộng, cần điều chỉnh mức độ chiếu sáng phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và điều kiện thực tế tại Việt Nam, dựa trên việc kiểm kê các loại đường.

 Đặt mức chiếu sáng tối thiểu thấp hơn / tạo phân loại mới cho các đường nhỏ hơn và đường dân cư

Để tiết kiệm năng lượng, các quy định về việc 'giảm độ sáng' của đèn đường đã được thiết lập và phát triển thành quy định quốc gia Cụ thể, sau 9 giờ tối hoặc khi lưu lượng giao thông giảm xuống 50%, mức độ ánh sáng có thể được điều chỉnh giảm từ 40% đến 60% so với mức tối thiểu toàn quốc.

 Xác định chức năng và đặc tính hiệu suất tối thiểu cho thiết bị / hệ thống điều khiển chiếu sáng

Báo Cáo Ban ĐầuPwC

 Bài báo về kiểm soát ô nhiễm ánh sáng, hướng dẫn các vấn đề khác như “ánh sáng xanh”, kiểm tra thiết bị, v.v.

Đối chiếu và căn chỉnh sự khác biệt giữa các quy định của QCVN 07-7: 2016/BXD và TCVN 259: 2001 là cần thiết để đảm bảo tính đồng bộ trong quy chuẩn Phân tích bằng chứng thực nghiệm từ các cuộc kiểm toán năng lượng trong dự án SEECP cùng với dữ liệu từ các cuộc tham vấn sẽ cung cấp cơ sở cho việc soạn thảo các khuyến nghị nhằm cập nhật TCVN 259: 2001 và TCVN 333: 2005 Các khía cạnh cần xem xét bao gồm nhưng không giới hạn ở hiệu quả năng lượng, tính khả thi và sự phù hợp với thực tiễn hiện tại.

 Chiều cao các cột đèn

 Quy định các tiêu chuẩn quốc tế về mức độ chiếu sáng tối thiểu cần thiết trên mặt đường

 Đối chiếu sự khác biệt giữa các quy định của QCVN 07-7: 2016 / BXD và TCVN 259: 2001; và

Lưới đo được sử dụng để đánh giá mức độ chói và độ rọi thông qua phương pháp mô phỏng Đánh giá năng lực thử nghiệm trong nước là cần thiết để đáp ứng các tiêu chuẩn đề xuất Cuối cùng, tổ chức hội thảo cho các bên liên quan nhằm thu thập ý kiến về các khuyến nghị và đầu vào được đề xuất, cũng như tổ chức hội thảo đào tạo nhằm nâng cao nhận thức về các khuyến nghị, tiêu chuẩn, quy định, và thực hành vận hành, bảo trì liên quan đến đầu tư và chiếu sáng thông minh.

Nhiệm vụ 3 bao gồm việc rà soát kỹ thuật sơ bộ và so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến chiếu sáng đường phố Cần đánh giá các lỗ hổng và khuyến nghị về các tiêu chuẩn sau: TCVN 10485: 2015 về môđun LED trong chiếu sáng chung; TCVN 10885-1: 2015 và TCVN 10885-2-1: 2015 về hiệu suất đèn điện; TCVN 10886: 2015 và TCVN 10887: 2015 về phương pháp đo; TCVN 11842: 2017 và TCVN 11843: 2017 về bảo trì và thử nghiệm bóng đèn LED; cùng với Quyết định 594/QĐ-BXD về chi phí duy trì hệ thống chiếu sáng đô thị Cuối cùng, cần phân tích sự khác biệt với các tiêu chuẩn quốc tế và đưa ra khuyến nghị về việc sửa đổi các tiêu chuẩn hiện hành.

Nhiệm vụ 4 yêu cầu soạn thảo các điều khoản nhằm phát triển tiêu chuẩn chiếu sáng liên quan đến hiệu suất năng lượng Nhóm PwC sẽ dựa trên việc xem xét các tiêu chuẩn hiện hành và quốc tế cùng với dữ liệu thu thập từ kiểm toán năng lượng để chuẩn bị các điều khoản này Các điều khoản được kiểm tra kỹ lưỡng sẽ được ADB lấy ý kiến từ chuyên gia pháp lý, từ đó các tiêu chuẩn có thể được trình lên chính phủ để thực hiện.

Mục tiêu chính của khung MRV là giám sát sử dụng năng lượng, tiết kiệm năng lượng, phát thải khí nhà kính và giảm khí thải thông qua việc thay thế hệ thống chiếu sáng đường phố hiện tại bằng công nghệ mới tại Việt Nam Khung MRV cũng sẽ theo dõi các tác động phát triển bền vững như tạo việc làm, an ninh năng lượng và giảm tai nạn giao thông Mặc dù chưa có quy định pháp lý về MRV trong lĩnh vực năng lượng, khung tổng thể sẽ phù hợp với Quyết định 2359/QĐ-TTg ngày 22 tháng 12 năm 2015 về thiết lập hệ thống kiểm kê khí nhà kính quốc gia.

Chúng tôi sẽ điều chỉnh hệ thống MRV để phù hợp với yêu cầu của UNFCCC MRV và Khung minh bạch nâng cao (ETF), cho phép khung này được sử dụng trong việc báo cáo dữ liệu cho Truyền thông quốc gia (NC) và Báo cáo cập nhật hai năm một lần (BUR) của Việt Nam gửi tới UNFCCC.

Các nhiệm vụ và kết quả

Theo TA này, chúng tôi dự đoán ba kịch bản cho các dự án chiếu sáng đường phố sẽ được đánh giá cho triển khai quy mô lớn: thay thế đèn chiếu sáng thông thường bằng đèn LED, hệ thống điều khiển dựa trên thời gian và hệ thống điều khiển dựa trên động lực học Phương pháp CDM AMS-II.L đã được phê duyệt sẽ được sử dụng làm cơ sở để phát triển khuôn khổ MRV cho ba kịch bản dự án này.

Chúng tôi sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây để đạt được các mục tiêu phát triển MRV, bao gồm cải tiến đơn giản, làm mờ dựa trên thời gian và giảm sáng dựa trên giao thông, phù hợp với các điều khoản tham chiếu.

Bảng 5: Danh sách các nhiệm vụ và hoạt động

Ngày đăng: 18/01/2022, 12:45

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w