CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Gần ba mươi năm qua, nhất là 10 năm gần đây, nhận thức về Đảng và công tác xây dựng Đảng có nhiều đổi mới.
Từ Đại hội VI đến IX, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vai trò tiên phong của mình trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thể hiện sự trung thành với lợi ích của dân tộc Tại Đại hội X và XI, Đảng tiếp tục nhấn mạnh vai trò này, cho thấy sự tiến bộ trong nhận thức lý luận về bản chất của Đảng Đại hội VII năm 1991 xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Đến Đại hội XI, Đảng đã làm rõ hơn rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện, phản ánh sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện Việt Nam, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng.
Trong gần 30 năm qua, chúng ta đã có những bước tiến quan trọng trong việc làm rõ các luận điểm của C Mác, Ph Ăng-ghen và V.I Lê-nin, xác định những điểm đúng đắn và những điểm cần bổ sung, phát triển hoặc thay đổi theo điều kiện lịch sử hiện nay Đảng ta nhấn mạnh việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chủ động nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết phát triển và thành tựu khoa học xã hội của thế giới Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và cần gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ và chịu sự giám sát của nhân dân.
Các tổ chức và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng Tất cả hoạt động của Đảng diễn ra trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Gần 30 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong sự nghiệp cách mạng Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung năm 2011 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự đổi mới và tự chỉnh đốn để đảm bảo Đảng luôn xứng đáng là Đảng cầm quyền Đổi mới và chỉnh đốn Đảng cần tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao năng lực và sức chiến đấu, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, với bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, tầm cao trí tuệ và phương thức lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Nhận thức đúng về xây dựng Đảng trong lĩnh vực chính trị là điều cần thiết, đòi hỏi sự kiên định với đường lối đổi mới, đồng thời chống lại các tư tưởng giáo điều, bảo thủ và trì trệ Cần tránh sự chủ quan, nóng vội và đổi mới vô nguyên tắc Điều này giúp xác định rõ vai trò của việc tham mưu, nghiên cứu và tư vấn khoa học, cũng như trách nhiệm chính trị của người đứng đầu cấp ủy trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết và quyết định của Đảng.
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng là nhiệm vụ chung của toàn Đảng và tất cả đảng viên, đặc biệt là các cấp ủy và bí thư cấp ủy Sự tham gia của cả hệ thống chính trị và nhân dân là cần thiết, trong đó đội ngũ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng đóng vai trò nòng cốt.
Nhận thức về công tác xây dựng Đảng liên quan đến tổ chức và cán bộ đã có những bước tiến mới, với sự chăm lo thường xuyên cho đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược và cấp cơ sở Công tác cán bộ được đổi mới, kết hợp với việc cải cách phương thức lãnh đạo của Đảng Đảng giữ vai trò thống nhất trong việc lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu trong hệ thống chính trị.
Đảng đã nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của việc xây dựng tiềm lực trí tuệ, rèn luyện năng lực và tư duy chính trị cho cán bộ, đảng viên Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã đề ra vấn đề này trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước Đại hội VII được coi là "Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết", thể hiện cam kết của Đảng đối với việc nâng cao tiềm lực trí tuệ Quan điểm này đã được khẳng định và cụ thể hóa tại các Đại hội VIII, IX và X, cho thấy việc xây dựng tiềm lực trí tuệ luôn được đặt ở vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta nhấn mạnh rằng đổi mới tư duy chính trị không phải là phủ nhận những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội đã đạt được, mà là bổ sung và phát triển những thành tựu đó Đảng đã chú trọng vào công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn với tinh thần dân chủ, cởi mở, khuyến khích tranh luận thẳng thắn, tự phê bình và phê bình nhằm tìm ra những cái mới đúng đắn thay thế cho những cái cũ đã không còn phù hợp.
Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân vào con đường cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng Niềm tin này được chuyển hóa thành các phong trào thi đua yêu nước, góp phần tạo ra thế và lực mới cho đất nước trong các giai đoạn phát triển tiếp theo.
Các cấp ủy, tổ chức đảng cần nâng cao tinh thần trách nhiệm và thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát để duy trì kỷ cương, kỷ luật của Đảng Cần bổ sung chức năng giám sát và xác định rõ hơn nội dung kiểm tra, giám sát, đặc biệt chú trọng vào việc kiểm tra, giám sát người đứng đầu.
Sau gần 30 năm đổi mới, từ Đại hội VI đến Đại hội X, nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo đã có những bước phát triển rõ rệt, đặc biệt là trong việc lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị và Nhà nước Tại Đại hội XI, trong Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011, Đảng đã khẳng định rằng: "Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược và các định hướng cụ thể."
Để thực hiện hiệu quả 5 hướng về chính sách và chủ trương lớn, cần tăng cường công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và giám sát Đồng thời, đảng viên cần gương mẫu trong hành động để tạo sự lan tỏa và khuyến khích mọi người cùng tham gia.
Nhận thức dân chủ cần gắn liền với kỷ luật và kỷ cương, được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm Đảng đã đưa nội dung dân chủ vào mục tiêu đổi mới, bao gồm “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Việc phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng phải đi đôi với việc giữ nghiêm kỷ luật Cần thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và chống lại các hiện tượng quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương cũng như các hành vi vi phạm kỷ luật và dân chủ.
CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI
Hoàn cảnh
2.1.1.1 Hoạt động trong 10 năm thực hiện đường lối thời kỳ trước đổi mới từ năm 1975 đến năm 1985
Nước ta đã hoàn thành thống nhất đất nước và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời bảo vệ Tổ quốc Từ đầu năm 1975, chúng ta bước vào một kỷ nguyên mới với Tổ quốc hoàn toàn độc lập và thống nhất, chuyển sang giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội Nhiệm vụ hiện nay là thống nhất hai chính quyền: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở miền Nam.
Chủ trương của Đảng được xác định qua Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III vào tháng 8 năm 1975 và Chỉ thị số 228 của Bộ Chính trị năm 1976 Hội nghị này nhấn mạnh việc hoàn thành thống nhất đất nước, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và bền vững lên chủ nghĩa xã hội Miền Bắc cần tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong khi miền Nam phải đồng thời thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội Chỉ thị số 228 của Bộ Chính trị được ban hành vào ngày 3 tháng 1 năm 1976, khẳng định những định hướng quan trọng này.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 228-CT/TW, nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc Tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp ủy trong việc lãnh đạo bầu cử Dưới sự chỉ đạo của Đảng, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất đã được tổ chức vào ngày 25-4-1976, với sự tham gia của hơn 23 triệu cử tri, đạt tỷ lệ cao.
98,77% tổng số cử tri đi bầu, đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần công nhân,
Bài viết đề cập đến sự tham gia của 6 nhóm đối tượng quan trọng trong xã hội Việt Nam, bao gồm nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc thiểu số và các tôn giáo khác nhau trên toàn quốc.
Việt Nam đã đạt được sự thống nhất về chính quyền, Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội, tạo ra sức mạnh toàn diện cho đất nước trong giai đoạn chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
❖ Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng đưa ra đường lối cụ thể:
Trong tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam được xác định với ba đặc điểm lớn: Thứ nhất, Việt Nam đang chuyển từ một xã hội sản xuất nhỏ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa Thứ hai, đất nước đã đạt được hòa bình, độc lập và thống nhất, nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới Thứ ba, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra trong bối cảnh quốc tế thuận lợi, nhưng cuộc đấu tranh giữa lực lượng cách mạng và phản cách mạng vẫn còn quyết liệt Về xây dựng đất nước, cần xác định đường lối phát triển kinh tế, chú trọng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng dựa trên nền tảng nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đồng thời kết hợp kinh tế trung ương với địa phương và tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước khác, hướng tới kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
❖ Năm 1976 - 1981: Tiến hành xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc.
Hội nghị Trung ương 6 vào tháng 8 năm 1979 đánh dấu bước đột phá quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế của Đảng, nhằm khắc phục những khuyết điểm và sai lầm trong quản lý kinh tế cũng như trong cải tạo xã hội chủ nghĩa Hội nghị này đã đề ra chủ trương phá bỏ các rào cản, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt khi tập đoàn Pôn Pốt gia tăng các hành động chống phá và tấn công xâm lược tại biên giới Tây Nam Từ ngày 26-12-1978, quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp cùng quân dân Campuchia thực hiện tổng tiến công, dẫn đến việc giải phóng Phnôm Pênh vào ngày 7-1-1979, xóa bỏ chế độ diệt chủng Pôn Pốt Ngày 18-2-1979, Việt Nam và Campuchia đã ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác Ngoài ra, vào năm 1974, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, gây ra những thách thức lớn đối với chủ quyền lãnh thổ.
Từ năm 1978, Việt Nam đã phải đối mặt với các xung đột biên giới phía Bắc do sự lấn chiếm của Trung Quốc Ngày 5-3-1979, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã ra lệnh Tổng động viên toàn quốc để ứng phó với tình hình Cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố sẽ rút quân, và đến ngày 18-3-1979, quân đội Trung Quốc đã hoàn tất việc rút lui về nước.
Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành đàm phán nhằm giải quyết từng bước các tranh chấp về biên giới lãnh thổ cũng như những vấn đề khác, từ đó khôi phục hòa bình và củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai dân tộc.
Đại hội đại biểu lần thứ V đã ghi nhận sự phát triển mới trong nhận thức và tìm kiếm đổi mới trong quá trình chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế Mặc dù đường lối chung được xác định là đúng đắn, nhưng khuyết điểm nằm ở khâu tổ chức thực hiện, dẫn đến việc thiếu sót trong việc thực hiện các sửa chữa cần thiết.
2.1.1.2 Mười năm thực hiện đường lối thời kỳ trước đổi mới từ năm 1975 - 1985
Sau 10 năm thống nhất đất nước, Việt Nam đã hình thành một nhà nước vững mạnh với tên gọi là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng với Quốc kỳ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca và Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã được xác định rõ ràng Quốc hội đã bầu ra các vị trí lãnh đạo quan trọng như Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, đồng thời thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp mới Sự thống nhất của các tổ chức chính trị xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh đã tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong chủ nghĩa xã hội, bước vào giai đoạn quá độ với những thách thức cần vượt qua để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam đã đạt được chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh Đầu tiên, Việt Nam và Campuchia đã ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác Thứ hai, từ ngày 18-4-1979, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành đàm phán để giải quyết các tranh chấp về biên giới lãnh thổ và khôi phục quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước.
Việt Nam không ngừng tăng cường các hoạt động đối ngoại, tham gia các hiệp định kinh tế thế giới phải kể đến như:
- Ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
- Ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB).
- Ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
- Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV).
- Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô.
Việt Nam vừa phát triển kinh tế vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạt được nhiều thành tựu trong bảo vệ tổ quốc, nhưng cũng đối mặt với nhiều khó khăn Đất nước thời điểm đó chủ yếu là nông nghiệp, nghèo nàn và lạc hậu sau thời kỳ chiến tranh kéo dài, dẫn đến tình trạng dân cư đói nghèo và dân trí thấp Cuối năm 1979, một số địa phương miền Bắc xuất hiện hiện tượng “xé rào”, trong khi miền Nam gặp khó khăn trong việc thí điểm hợp tác xã Những khó khăn này xuất phát từ nền kinh tế yếu kém, thiên tai liên tiếp, chiến tranh biên giới, cùng với chính sách cấm vận và bao vây của Mỹ Hơn nữa, Chính phủ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội không tránh khỏi những sai lầm do sự nóng vội và chủ quan.
Tư tưởng nóng vội trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn bắt nguồn từ "bệnh chủ quan, duy ý chí", thể hiện qua lối suy nghĩ và hành động giản đơn, thiếu tính toán, chạy theo nguyện vọng cá nhân.
Các chính sách trong 30 năm đổi mới
2.2.1 Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1996
2.2.1.1 Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1990
Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua giai đoạn sa sút nghiêm trọng vào thời điểm Đại hội VI năm 1986 Đảng đã nghiêm túc đánh giá nguyên nhân của tình trạng này, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan và sự thiếu hiểu biết trong việc áp dụng các quy luật khách quan Một bài học quan trọng được rút ra là Đảng cần xuất phát từ thực tế và tôn trọng các quy luật khách quan Tiêu chí để đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật này là sự phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hóa, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân được cải thiện, con người mới xã hội chủ nghĩa dần hình thành, và xã hội ngày càng lành mạnh, củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa.
Sau nhiều năm theo đuổi chủ nghĩa xã hội, tình trạng sản xuất đình đốn và sự phát triển chậm chạp của nền kinh tế đã cho thấy cần thiết phải tìm ra phương hướng mới Quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một hành trình dài, phức tạp, đòi hỏi sự tìm tòi và sáng tạo, cũng như việc rút ra bài học từ thực tiễn để xác định những bước đi tiếp theo Lênin nhấn mạnh rằng lý luận của Mác không phải là điều bất biến mà cần được phát triển hơn nữa để không bị lạc hậu với thực tiễn cuộc sống.
Tại Đại hội VI Đảng, chủ trương đổi mới đất nước được đề ra với trọng tâm là đổi mới tư duy, không phủ nhận những thành tựu lý luận và quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được Đảng nhận thức rõ rằng sự phát triển của lực lượng sản xuất bị kìm hãm bởi những sai lầm trong cơ cấu kinh tế và quản lý Do đó, tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và chính sách kinh tế lần này là giải phóng năng lực sản xuất, khai thác tiềm năng đất nước và sử dụng hiệu quả sự hỗ trợ quốc tế nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đồng thời củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển quan hệ sản xuất mới trên cả ba phương diện, đảm bảo tính chất xã hội chủ nghĩa và đồng hành cùng sự phát triển của lực lượng sản xuất Đây là nhiệm vụ lớn lao, không thể hoàn thành trong thời gian ngắn Khác với những năm trước, từ Đại hội VI, chúng ta đã nhận thức rõ về sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, điều này phản ánh sự chuyển mình của nền kinh tế nước ta.
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm hai khu vực chính là khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, đồng thời có sự liên kết chặt chẽ với bộ phận kinh tế gia đình.
Các thành phần kinh tế bao gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa như thợ thủ công, nông dân cá thể và những người kinh doanh dịch vụ cá nhân; kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước với hình thức cao nhất là công tư hợp doanh; cùng với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc của một số đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các khu vực khác Đảng khẳng định rằng chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa cần phải dựa trên những đặc trưng này để đề ra các chủ trương và biện pháp phù hợp.
Việc thừa nhận nền kinh tế đa thành phần phản ánh nhận thức mới của Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Lênin khẳng định rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ, bao gồm những đặc điểm của cả hai hệ thống kinh tế xã hội Danh từ "quá độ" ám chỉ sự tồn tại của các thành phần kinh tế tư bản trong chế độ hiện tại, cho thấy rằng mặc dù chúng ta không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa như một chế độ xã hội, nhưng vẫn có thể tận dụng những thành tựu của chủ nghĩa tư bản Do đó, sự hiện diện của các thành phần kinh tế tư bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là điều hiển nhiên và phù hợp với quy luật phát triển xã hội.
Sau thập kỷ đầu tiên quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận thấy rằng lực lượng sản xuất có thể bị kìm hãm không chỉ do quan hệ sản xuất lạc hậu mà còn do sự phát triển không đồng bộ Tình hình thực tiễn yêu cầu chú trọng đến các hình thức kinh tế trung gian, từ quy mô nhỏ đến lớn Trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, cần đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tạo ra lực lượng sản xuất mới, từ đó tiếp tục phát triển quan hệ sản xuất mới theo hình thức và quy mô phù hợp nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất.
Trước Đại hội VI, Đảng đã thực hiện các biện pháp nóng vội nhằm xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và chuyển đổi nhanh chóng kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh Tuy nhiên, việc tổ chức các hợp tác xã quy mô lớn đã không xem xét đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ Qua thực tiễn, Đảng đã nhận thức rõ những sai lầm do áp đặt chủ quan gây ra.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có những quan hệ phù hợp với nó.
Những quan hệ sản xuất lạc hậu và yếu tố không tương thích với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ cản trở sự phát triển Kinh nghiệm này đã được Lênin rút ra từ thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, khi ông dũng cảm chỉ ra rằng việc áp dụng phương pháp "xung phong" đã dẫn đến thất bại.
12 nghĩa là dùng con đường ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”.
Lênin quyết định thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP) nhằm thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán và phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước NEP đã đặt ra một vấn đề mới mẻ cho chủ nghĩa Mác, liên quan đến khả năng và sự cần thiết sử dụng các biện pháp "quá độ gián tiếp" với nhiều nấc thang trung gian Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nền sản xuất hàng hoá nhỏ ở một quốc gia đang chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội, nơi mà phần lớn dân số là nông dân.
Ở những quốc gia có đa số dân cư là nông dân, việc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi những biện pháp quá độ đặc biệt, điều này không cần thiết ở các nước tư bản phát triển Những kinh nghiệm này là rất quý báu cho sự nghiệp đổi mới tại Việt Nam.
Việc thừa nhận nền kinh tế đa thành phần cho phép cá nhân sử dụng vốn để sản xuất và kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, từ đó giải phóng năng lực sản xuất và khai thác tiềm năng của đất nước Sự điều chỉnh này kích thích tính năng động, sáng tạo của người lao động, gắn liền với lợi ích cá nhân, tạo động lực cho sự phát triển xã hội Đồng thời, nó còn phát huy tiềm năng phân tán trong nhân dân, bao gồm sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn và khả năng tự tạo việc làm.
Nền kinh tế hiện tại đang trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy việc củng cố và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa là rất quan trọng Để thực hiện công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách vững chắc, cần phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh phải giữ vai trò chủ đạo và chi phối các thành phần kinh tế khác Điều này có nghĩa là công hữu về tư liệu sản xuất cần phải là hình thức sở hữu chính, chủ yếu và căn bản ở nước ta.
Việc tái cấu trúc nền kinh tế cần gắn liền với việc cải cách cơ chế quản lý kinh tế Cơ chế quản lý kinh tế trước đây, mang tính tập trung và bao cấp, đã không tạo ra động lực phát triển, dẫn đến sự suy yếu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và hạn chế khả năng phát triển bền vững.