CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Gân ba mươi năm qua, nhất là 10 năm gần đây, nhận thức về Đảng và công tác xây dựng Đảng có nhiều đổi mới.
Từ Đại hội VI đến IX, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vai trò tiên phong của mình trong giai cấp công nhân và đại diện trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và dân tộc Tại Đại hội X và XI, khẳng định này được mở rộng, nhấn mạnh Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn của toàn thể nhân dân Đại hội VII (1991) xác định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh Đến Đại hội XI, Đảng đã làm rõ hơn rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện, phản ánh sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong bối cảnh Việt Nam, đánh dấu bước tiến quan trọng trong nhận thức lý luận của Đảng.
Trong gần 30 năm qua, đã có những bước tiến quan trọng trong việc làm rõ các luận điểm của C Mác, Ph Ăng-ghen và V.I Lê-nin, xác định những gì vẫn còn đúng và những gì cần bổ sung, phát triển hoặc thay đổi Đảng ta nhận thức rằng cần vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chủ động tiếp thu các lý thuyết phát triển và thành tựu khoa học xã hội toàn cầu Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ và chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình, đồng thời tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Đảng Các tổ chức và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động theo khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Qua 30 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, sống còn trong sự nghiệp cách mạng Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 nhấn mạnh Đảng cần thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ cách mạng Việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao năng lực và sức chiến đấu, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có đạo đức cách mạng trong sáng và phương thức lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Nhận thức đúng trong xây dựng Đảng về chính trị là điều cần thiết, yêu cầu kiên định đường lối đổi mới và chống lại giáo điều, bảo thủ, trì trệ cũng như những quan điểm chủ quan, nóng vội và đổi mới vô nguyên tắc Điều này giúp xác định rõ vai trò của việc tham mưu, nghiên cứu, tư vấn khoa học và trách nhiệm chính trị của người đứng đầu cấp ủy trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng.
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng là nhiệm vụ chung của toàn Đảng và tất cả đảng viên, đặc biệt là các cấp ủy và bí thư cấp ủy Hệ thống chính trị cần có sự tham gia tích cực của nhân dân, với đội ngũ chuyên trách về tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng đóng vai trò nòng cốt trong quá trình này.
Nhận thức về công tác xây dựng Đảng liên quan đến tổ chức và cán bộ đã có những bước tiến mới, đặc biệt trong việc chăm lo đội ngũ cán bộ chiến lược và cấp cơ sở Công tác cán bộ được đổi mới, kết hợp với việc cải cách phương thức lãnh đạo của Đảng Đảng giữ vai trò lãnh đạo thống nhất trong công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu trong hệ thống chính trị.
Đảng ta ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng tiềm lực trí tuệ và rèn luyện năng lực tư duy chính trị cho cán bộ, đảng viên Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã xác định vấn đề này là cốt lõi trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước Đại hội VII được coi là "Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết", khẳng định sự chú trọng vào tiềm lực trí tuệ Quan điểm này đã được củng cố và cụ thể hóa qua các Đại hội VIII, IX và X, cho thấy việc xây dựng tiềm lực trí tuệ luôn được Đảng đặt lên hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta nhấn mạnh rằng đổi mới tư duy chính trị không có nghĩa là phủ nhận các thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội hay các quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội Thay vào đó, việc đổi mới là bổ sung và phát triển những thành tựu hiện có Để thực hiện điều này, Đảng đã tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn với tinh thần dân chủ, cởi mở, khuyến khích tranh luận thẳng thắn, tự phê bình và phê bình nhằm tìm ra những cái mới đúng đắn thay thế cho những cái cũ không còn phù hợp.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với con đường cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng Niềm tin này được chuyển hóa thành các phong trào thi đua yêu nước rộng rãi, góp phần tạo ra sức mạnh mới cho đất nước trong các giai đoạn phát triển tiếp theo.
Các cấp ủy và tổ chức đảng cần nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và giám sát Việc giữ vững kỷ cương và kỷ luật của Đảng là rất quan trọng Cần bổ sung chức năng giám sát và làm rõ hơn nội dung kiểm tra, đặc biệt là tập trung vào việc giám sát người đứng đầu.
Trải qua gần 30 năm đổi mới, từ Đại hội VI đến Đại hội X, nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo đã phát triển rõ rệt, đặc biệt trong việc lãnh đạo Nhà nước Tại Đại hội XI, trong Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011, Đảng khẳng định vai trò lãnh đạo thông qua cương lĩnh, chiến lược, chính sách và chủ trương lớn, cùng với công tác tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức, kiểm tra, giám sát và hành động gương mẫu của đảng viên.
Nhận thức dân chủ cần gắn liền với kỷ luật và phải được thể chế hóa qua pháp luật Đảng đã đưa nội dung dân chủ vào mục tiêu đổi mới, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng và đồng thời giữ nghiêm kỷ luật Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là cần thiết để chống lại các hiện tượng quan liêu, bè phái và lối làm việc vi phạm kỷ luật, nhằm xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI
Các chính sách trong 30 năm đổi mới
2.2.1.Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1996
2.2.1.1 Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1990
Nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng trong thời kỳ Đại hội VI năm 1986, dẫn đến việc Đảng phải nghiêm túc đánh giá các nguyên nhân, đặc biệt là những yếu tố chủ quan và duy ý chí Bài học quan trọng rút ra từ Đại hội VI là Đảng cần phải xuất phát từ thực tế và tôn trọng các quy luật khách quan Tiêu chí đánh giá việc áp dụng đúng đắn các quy luật này là sự phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa thông suốt, và đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện, từ đó hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa và củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa.
Sau nhiều năm theo đuổi chủ nghĩa xã hội, nước ta đã gặp phải tình trạng sản xuất đình trệ và phát triển kinh tế chậm chạp Thực tiễn này cho thấy cần có một phương hướng mới để phát triển chủ nghĩa xã hội, đồng thời khẳng định rằng quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là lâu dài, phức tạp và cần trải qua nhiều bước khác nhau Để đạt được điều này, cần tìm tòi, sáng tạo và rút kinh nghiệm từ thực tiễn, tránh sự dập khuân, máy móc Như Lênin đã nhấn mạnh, lý luận của Mác không phải là bất biến, mà là nền tảng cho việc phát triển khoa học xã hội chủ nghĩa, nếu không muốn lạc hậu với thực tiễn cuộc sống.
Tại Đại hội VI, Đảng đã đề ra chủ trương đổi mới đất nước, bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, không phủ nhận thành tựu lý luận và quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng nhận thức rõ rằng sự phát triển của lực lượng sản xuất bị kìm hãm do sai lầm trong cơ cấu kinh tế và quản lý Do đó, tư tưởng chỉ đạo trong kế hoạch và chính sách kinh tế lần này là giải phóng năng lực sản xuất, khai thác tiềm năng đất nước, và sử dụng hiệu quả sự hỗ trợ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đồng thời củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng khẳng định cần phát triển quan hệ sản xuất mới theo ba mặt, đảm bảo tính chất xã hội chủ nghĩa và gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất Đây là một nhiệm vụ lớn lao, không thể hoàn thành trong thời gian ngắn Khác với trước đây, từ Đại hội VI trở đi, chúng ta đã nhận thức rõ về sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, điều này cho thấy nền kinh tế nước ta đã chuyển mình sang mô hình đa dạng hơn.
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với kinh tế gia đình, tạo thành một hệ thống kinh tế đồng bộ và gắn kết.
Các thành phần kinh tế bao gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa từ thợ thủ công, nông dân cá thể và những người kinh doanh dịch vụ cá nhân; kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước với nhiều hình thức, trong đó có công tư hợp doanh; cũng như kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc của một số đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng khác Đảng khẳng định rằng chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa cần phải dựa trên những đặc trưng này để đưa ra các chủ trương và biện pháp phù hợp.
Việc công nhận nền kinh tế đa thành phần phản ánh nhận thức mới của Đảng về quá trình chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội Lênin đã chỉ ra rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản tồn tại một thời kỳ quá độ, bao gồm đặc điểm của cả hai hệ thống kinh tế Ông cũng nhấn mạnh rằng trong thời kỳ này, nền kinh tế hiện tại chứa đựng các yếu tố của cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội Mặc dù chúng ta không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa như một chế độ xã hội, nhưng vẫn có thể tận dụng những thành tựu của chủ nghĩa tư bản Do đó, sự tồn tại của các thành phần kinh tế tư bản trong quá trình chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội là điều tự nhiên, phù hợp với quy luật phát triển xã hội.
Sau thập kỷ đầu tiên quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận định rằng lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ do quan hệ sản xuất lạc hậu mà còn do sự phát triển không đồng bộ giữa các yếu tố Thực tế đất nước yêu cầu phải chú trọng đến các hình thức kinh tế trung gian, từ quy mô nhỏ đến lớn Trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, cần đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để tạo ra lực lượng sản xuất mới, đồng thời đưa quan hệ sản xuất mới tiến tới hình thức và quy mô phù hợp, nhằm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trước Đại hội VI, Đảng đã có những quyết định vội vàng nhằm xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và chuyển đổi nhanh chóng kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh Tuy nhiên, việc tổ chức các hợp tác xã quy mô lớn đã không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ Qua thực tiễn, Đảng đã nhận ra những sai lầm do áp đặt chủ quan gây ra, và sự phát triển của lực lượng sản xuất cần phải có các mối quan hệ phù hợp.
Những quan hệ sản xuất lạc hậu và yếu tố không tương thích với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển Kinh nghiệm này đã được Lênin rút ra từ thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, khi ông chỉ ra rằng việc áp dụng phương pháp “xung phong” để thực hiện sản xuất và phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa là không thành công.
Lênin đã quyết định thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP) với nội dung chính là thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán và áp dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước NEP đã đặt ra một vấn đề mới mẻ cho chủ nghĩa Mác, đó là khả năng và sự cần thiết sử dụng các biện pháp “quá độ gián tiếp” với nhiều nấc thang trung gian, liên quan đến nền sản xuất hàng hoá nhỏ ở một quốc gia đang chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội, trong đó đại đa số là nông dân.
Trong một quốc gia mà sản xuất tiểu nông chiếm phần lớn dân cư, việc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi những biện pháp quá độ đặc biệt, điều này không cần thiết ở các nước tư bản phát triển Những kinh nghiệm quý báu này đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta.
Việc công nhận nền kinh tế đa thành phần không chỉ cho phép cá nhân sử dụng vốn để sản xuất và kinh doanh theo pháp luật, mà còn giải phóng tiềm năng sản xuất và khai thác khả năng của đất nước Điều này khuyến khích sự năng động, sáng tạo của người lao động, gắn liền với lợi ích cá nhân và trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển xã hội Hơn nữa, sự điều chỉnh này còn phát huy tiềm năng phân tán trong nhân dân, bao gồm sức lao động, kỹ thuật, vốn và khả năng tự tạo việc làm.
Nền kinh tế hiện tại của chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy việc củng cố và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa là rất quan trọng Để thực hiện công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách vững chắc, cần phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần Điều cốt yếu là kinh tế quốc doanh phải giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác, với công hữu về tư liệu sản xuất là hình thức sở hữu chính và chủ yếu tại Việt Nam.
Việc tái cấu trúc nền kinh tế cần gắn liền với việc cải cách cơ chế quản lý kinh tế Cơ chế quản lý kinh tế tập trung và bao cấp trước đây đã không thúc đẩy được sự phát triển, dẫn đến sự suy yếu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và hạn chế khả năng phát triển bền vững.