1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Xử lý kỉ luật công chức

89 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Xử Lý Kỷ Luật Công Chức
Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Đức
Người hướng dẫn ThS. Cao Vũ Minh
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Thể loại thesis
Năm xuất bản 2014
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 89
Dung lượng 1,56 MB

Cấu trúc

  • 1.1 Những vấn đề chung về trách nhiệm kỉ luật công chức (9)
    • 1.1.1 Khái niệm công chức (9)
    • 1.1.2 Khái niệm trách nhiệm kỉ luật (15)
  • 1.2 Khái quát về trách nhiệm kỉ luật và ý nghĩa của việc xử lý kỉ luật công chức (16)
    • 1.2.1 Khái niệm trách nhiệm kỉ luật (16)
    • 1.2.2 Đặc điểm của trách nhiệm kỉ luật công chức (16)
    • 1.2.3 Mục đích của việc quy định xử lý kỉ luật công chức (18)
      • 1.2.3.1 Mục đích giáo dục (18)
      • 1.2.3.2 Mục đích trừng trị (18)
      • 1.2.3.3 Mục đích phòng ngừa (19)
  • 1.3 Những quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý kỉ luật công chức (20)
    • 1.3.1 Hành vi vi phạm kỉ luật (20)
    • 1.3.2 Các hình thức kỉ luật (22)
    • 1.3.3 Nguyên tắc xử lý kỉ luật (32)
    • 1.3.4 Thẩm quyền xử lý kỉ luật (37)
    • 1.3.5 Thời hiệu xử lý kỉ luật (38)
    • 1.3.6 Thời hạn xử lý kỉ luật (40)
    • 1.3.7 Các trường hợp được miễn trách nhiệm kỉ luật (41)
  • 1.4 Thủ tục xử lý kỉ luật công chức (42)
  • CHƯƠNG II: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ KỈ LUẬT CÔNG CHỨC (9)
    • 2.1 Sơ lƣợc về vấn đề vi phạm kỉ luật công chức ở Việt Nam hiện nay (48)
    • 2.2 Thực tiễn xử lý kỉ luật công chức hiện nay (54)
      • 2.2.1 Những mặt tích cực trong xử lý kỉ luật công chức (54)
      • 2.2.2 Những mặt hạn chế trong xử lý kỉ luật công chức (56)
    • 2.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong xử lý kỉ luật công chức (59)
      • 2.3.1 Nguyên nhân chủ quan (59)
      • 2.3.2 Nguyên nhân khách quan (62)
    • 2.4 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý kỉ luật công chức (75)
      • 2.4.1 Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật (75)
      • 2.4.2 Nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng công chức (0)
      • 2.4.3 Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động công vụ (81)
      • 2.4.4 Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công chức (82)

Nội dung

Những vấn đề chung về trách nhiệm kỉ luật công chức

Khái niệm công chức

Khái niệm "công chức" mang tính lịch sử và phụ thuộc vào quan niệm về hoạt động công vụ, chế độ chính trị và nền văn hóa của mỗi quốc gia, cũng như từng giai đoạn lịch sử cụ thể Việc xác định một khái niệm chung về công chức cho các quốc gia là điều không dễ dàng, và cho đến nay, chưa có khái niệm thống nhất nào giữa các quốc gia Thậm chí, trong nội bộ của từng quốc gia, khái niệm này cũng có sự khác biệt qua các thời kỳ lịch sử.

Trong pháp luật Cộng hòa Pháp, công chức được hiểu rộng rãi, bao gồm nhân viên trong bộ máy hành chính và các cơ quan nhà nước, chịu sự điều chỉnh của luật công chức và luật lao động Ngược lại, pháp luật Hoa Kỳ chỉ coi những nhân viên trong bộ máy hành chính của Chính phủ là công chức, trong khi các Thượng nghị sĩ, Hạ nghị sĩ và nhân viên quân đội không thuộc diện này Mối quan hệ giữa Chính phủ và công chức được xác định như một quan hệ lao động, được điều chỉnh bởi luật hành chính và luật dân sự Tại Cộng hòa Liên bang Đức, công chức được xem là một nhóm nghề nghiệp đặc biệt trong xã hội, theo Điều 2 Luật Công chức Liên bang Đức, công chức là người phục vụ trong các đoàn thể xã hội và có quan hệ làm việc theo luật chung.

Pháp luật về công chức ở các quốc gia có những quan niệm khác nhau, điều này phản ánh sự khác biệt về lịch sử, địa lý, kinh tế - xã hội và văn hóa của từng quốc gia và khu vực trên thế giới.

Khái niệm công chức ở Việt Nam đã hình thành và phát triển cùng với nền hành chính nhà nước từ năm 1945 Qua từng giai đoạn lịch sử, quan niệm về công chức có những khác biệt nhất định Nền công vụ được thiết lập từ khi Nhà nước kiểu mới ra đời vào ngày 02/9/1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, đánh dấu sự chuyển mình từ chế độ quan lại phong kiến sang một hệ thống công chức hiện đại Ngay sau Cách mạng tháng Tám, khái niệm công chức bắt đầu được khẳng định và phát triển mạnh mẽ.

Trần Anh Tuấn (2007) đã nghiên cứu về việc hoàn thiện thể chế quản lý công chức tại Việt Nam trong bối cảnh phát triển và hội nhập quốc tế, trong luận án tiến sĩ kinh tế của mình.

Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam Theo Nguyễn Quốc Sửu (2011), việc nâng cao nhận thức pháp luật không chỉ giúp cán bộ, công chức thực hiện đúng chức trách mà còn góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về công chức tại Việt Nam được ghi nhận trong Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950, do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành, xác định công chức là những công dân được tuyển dụng để giữ chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ Định nghĩa này, tuy đã xác lập khái niệm công chức như một thuật ngữ pháp lý, nhưng vẫn còn hạn chế, chỉ áp dụng cho những người làm việc trong các cơ quan Chính phủ và không bao gồm những người làm việc trong các tổ chức đảng hay tổ chức chính trị - xã hội Đến năm 1991, nhằm cải cách hành chính và chuẩn hóa đội ngũ công chức, Nghị định số 169/HĐBT đã được ban hành, mở rộng khái niệm công chức, xác định rõ rằng công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm vào công vụ thường xuyên tại các cơ sở Nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Trong văn bản này, phạm vi công chức đã được mở rộng so với Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950, tách biệt công chức khỏi nhóm lao động trong cơ quan nhà nước, Đảng, Đoàn thể và cán bộ chính trị Quy định này thể hiện sự tiến bộ và phản ánh nhiều đặc điểm của công chức hiện nay, mặc dù khái niệm vẫn cần được làm rõ hơn.

Khái niệm “công chức” hiện vẫn chỉ được quy định trong một văn bản của Chính phủ mà chưa được thể hiện rõ ràng trong luật Đến năm 1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức, trong đó Điều 1 nêu rõ: “Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, thuộc biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.”

- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

Những người được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào các vị trí công vụ thường xuyên sẽ được phân loại dựa trên trình độ đào tạo và ngành chuyên môn Họ sẽ được xếp vào các ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước, với mỗi ngạch thể hiện chức vụ và cấp bậc chuyên môn nghiệp vụ, đi kèm với chức danh tiêu chuẩn riêng.

- Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;

Những cá nhân được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm để làm việc thường xuyên trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, nhưng không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp hay công nhân quốc phòng, cũng như những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan hay hạ sĩ quan chuyên nghiệp.

Pháp lệnh này sử dụng thuật ngữ chung "cán bộ, công chức" mà không phân chia rõ ràng giữa hai nhóm này Việc quy định như vậy thiếu tính cụ thể, vì không đưa ra tiêu chí phân biệt rõ ràng giữa cán bộ và công chức.

Năm 2003, Pháp lệnh Cán bộ, công chức được sửa đổi để phân định rõ ràng giữa cán bộ và công chức Theo điều 1 của Pháp lệnh, cán bộ và công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm những người được bầu cử hoặc tuyển dụng vào các vị trí trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp từ trung ương đến cấp xã Cụ thể, các đối tượng này bao gồm những người giữ chức vụ theo nhiệm kỳ, được giao nhiệm vụ thường xuyên trong các tổ chức chính trị, được bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc viên chức, thẩm phán, kiểm sát viên, và những người làm việc trong các cơ quan thuộc quân đội và công an nhân dân không phải là sĩ quan.

Vào ngày 10/10/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2003/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức Theo điều 2 của nghị định này (được sửa đổi, bổ sung năm 2007), công chức được định nghĩa là công dân Việt Nam, làm việc trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, thuộc các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội.

Nghị định số 114/2003/NĐ-CP quy định về công chức cấp xã theo Pháp lệnh Cán bộ, công chức, trong khi Nghị định 116/2003/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung năm 2007) làm rõ khái niệm viên chức Theo đó, những người thuộc điểm b, c, e khoản 1 Điều 1 là công chức; điểm d là viên chức; và điểm h là công chức cấp xã Ngược lại, những người theo điểm a, đ, g khoản 1 Điều 1 không phải là công chức, công chức cấp xã hay viên chức, mà chỉ có thể được coi là cán bộ.

Khái niệm trách nhiệm kỉ luật

Kỷ luật được hiểu là tổng thể các quy định nhằm duy trì trật tự và nền nếp trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước và xã hội Nó bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực cụ thể về hành vi con người, được pháp luật chính thức hóa thành các quy định pháp lý, yêu cầu sự tuân thủ nghiêm ngặt từ các chủ thể.

Trách nhiệm kỷ luật của công chức có thể được hiểu theo hai nghĩa Thứ nhất, theo nghĩa tích cực, đây là trách nhiệm và bổn phận của công chức trong việc tuân thủ nghiêm chỉnh các nghĩa vụ khi tham gia công vụ Thứ hai, theo nghĩa tiêu cực, trách nhiệm kỷ luật được hiểu là các biện pháp chế tài bất lợi mà nhà nước áp dụng đối với công chức vi phạm quy định về chế độ công vụ Cách hiểu này hiện đang phổ biến trong các văn bản pháp lý và nghiên cứu khoa học về xử lý kỷ luật.

Trong nghiên cứu này, tác giả xác định trách nhiệm kỉ luật là hậu quả pháp lý tiêu cực đối với cá nhân vi phạm các quy tắc và nghĩa vụ trong hoạt động của mình Những vi phạm này không chỉ dẫn đến hậu quả xấu mà còn ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, ngành nghề và lĩnh vực hoạt động của đơn vị Thủ trưởng cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và xử lý các trường hợp vi phạm này.

10 Trường đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2010), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia

TP Hồ Chí Minh, tr 293 - 294

11 Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr 549

Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến các vấn đề liên quan đến kỷ luật nhà nước và trách nhiệm của công chức, như được phân tích trong các tài liệu từ Đinh Văn Mậu (2010), Bùi Thị Đào (2010) và Cao Vũ Minh - Nguyễn Thị Thiện Trí (2013) Cụ thể, việc áp dụng hình thức xử lý kỷ luật cho các đối tượng vi phạm được thực hiện bởi cơ quan nhà nước hoặc thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp, dựa trên các quy định trong chế tài kỷ luật.

Khái quát về trách nhiệm kỉ luật và ý nghĩa của việc xử lý kỉ luật công chức

Khái niệm trách nhiệm kỉ luật

Trách nhiệm pháp lý là mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước và cá nhân vi phạm, trong đó nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế trừng phạt theo quy định của pháp luật Đồng thời, cá nhân vi phạm phải chịu những hậu quả tiêu cực về vật chất và tinh thần do hành vi của mình gây ra.

Trách nhiệm kỷ luật của công chức được xem là một dạng trách nhiệm pháp lý, phản ánh những hậu quả bất lợi mà công chức phải chịu khi vi phạm kỷ luật Những hành vi vi phạm này có thể là hành động hoặc không hành động, và chúng ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan nhà nước Trách nhiệm kỷ luật này áp dụng cho công chức nhà nước, với cơ sở là các vi phạm pháp luật và quy tắc đạo đức trong hoạt động công vụ Mức độ trách nhiệm pháp lý của công chức cần cao hơn so với công dân bình thường khi cùng vi phạm, do những hành vi vi phạm pháp luật thường xảy ra từ những người có chức vụ.

Trách nhiệm kỉ luật đối với công chức là một hình thức trách nhiệm pháp lý áp dụng trong mối quan hệ nội bộ của các cơ quan nhà nước Hình thức trách nhiệm này liên quan đến việc áp dụng các hậu quả pháp lý bất lợi cho công chức khi họ vi phạm pháp luật và phải chịu xử lý kỉ luật theo quy định.

Đặc điểm của trách nhiệm kỉ luật công chức

13 Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr 285

Dựa vào khái niệm đã nêu, trách nhiệm kỉ luật của công chức có những đặc điểm sau đây:

Cơ sở để xử lý kỷ luật công chức là hành vi vi phạm kỷ luật, tuy nhiên, pháp luật không quy định cụ thể về các hành vi này Theo Điều 3 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP, hành vi vi phạm kỷ luật được hiểu là những hành vi có lỗi, vi phạm các quy tắc và nghĩa vụ trong hoạt động công vụ của công chức nhà nước.

Trạng thái tâm lý của công chức phản ánh thái độ tiêu cực đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thực hiện, cùng với hậu quả nghiêm trọng mà hành vi đó có thể gây ra Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định số 34/2011/NĐ-CP, các hành vi vi phạm kỷ luật của công chức không chỉ đơn thuần là vi phạm nội quy cơ quan, mà còn là vi phạm các quy tắc và nghĩa vụ trong hoạt động công vụ, ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội Hành vi vi phạm kỷ luật cần phải được xác định rõ ràng và chỉ có thể truy cứu trách nhiệm kỷ luật cá nhân, không thể áp dụng cho trách nhiệm kỷ luật tập thể nếu không xác định được hành vi cụ thể.

Hai là, đối tượng bị áp dụng trách nhiệm kỉ luật theo luật Cán bộ, công chức năm

2008 và Nghị định số 34/2011/NĐ-CP phải là công chức nhà nước

Trong quan hệ xử lý kỷ luật công chức, luôn tồn tại mối quan hệ tổ chức giữa người có thẩm quyền và người vi phạm kỷ luật.

Trách nhiệm kỉ luật có thể được áp dụng đồng thời với các hình thức trách nhiệm pháp lý khác như trách nhiệm hình sự, hành chính và vật chất Khi hành vi vi phạm kỉ luật cũng được xem là tội phạm, vi phạm hành chính, hoặc gây thiệt hại về tài sản, người vi phạm sẽ phải chịu các chế tài tương ứng Điều này cho thấy trách nhiệm kỉ luật khác biệt rõ rệt với trách nhiệm hành chính và hình sự, vì một hành vi vi phạm chỉ có thể phát sinh một loại trách nhiệm pháp lý tại một thời điểm.

Thủ tục truy cứu trách nhiệm kỷ luật là một quy trình hành chính, và kết quả của quy trình này là quyết định xử lý kỷ luật được ban hành bởi người có thẩm quyền.

Mục đích của việc quy định xử lý kỉ luật công chức

Công chức là nhân tố cốt lõi trong mọi công việc, quyết định sự thành công hay thất bại của công cuộc đổi mới đất nước Việc khen thưởng và kỷ luật công chức đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết hoạt động của họ Công chức có kết quả tốt cần được khen thưởng, trong khi những hành vi vi phạm gây ảnh hưởng xấu đến công vụ phải bị xử lý kỷ luật Do đó, pháp luật về xử lý kỷ luật công chức và các quy định liên quan được xem là chuẩn mực hành vi, giúp các công chức lựa chọn cách ứng xử phù hợp.

Pháp luật không chỉ dựa trên lý luận mà còn phản ánh thực tiễn đời sống, do đó, sự gần gũi của pháp luật với cuộc sống sẽ nâng cao hiệu quả thực thi Khi hiểu rõ quy định về xử lý kỷ luật, công chức có thể xây dựng chuẩn mực hành vi phù hợp, tránh vi phạm pháp luật Qua quy định và thực tiễn xử lý kỷ luật, công chức nhận thức được nguy hiểm của hành vi vi phạm và những hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu Điều này giúp họ điều chỉnh hành vi theo chuẩn mực đạo đức xã hội và quy định pháp luật Giáo dục trong xử lý kỷ luật không chỉ nhằm trừng phạt mà còn củng cố kỷ luật trong công vụ, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trong bối cảnh hiện nay.

Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI năm 2011, mục XI, điểm 3 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch và có năng lực, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Việc rà soát và hoàn thiện quy chế pháp lý cho cán bộ, công chức là cần thiết nhằm phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của từng cá nhân Tăng cường tính công khai, minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động công vụ sẽ nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức về cả bản lĩnh chính trị lẫn năng lực quản lý Cần có chính sách đãi ngộ và khuyến khích để động viên cán bộ hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời thiết lập cơ chế loại bỏ những người vi phạm kỷ luật Mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, có năng lực là rất quan trọng trong tiến trình lập pháp và hành pháp, do đó cần tăng cường và hoàn thiện các quy định xử lý kỷ luật Khi pháp luật về xử lý kỷ luật được đồng bộ và nghiêm minh, sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc nâng cao chất lượng công vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính hiện đại và hiệu quả.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng kỉ luật, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ vững kỉ luật trong công việc Ông khẳng định rằng việc khen thưởng những cán bộ có thành tích tốt là cần thiết để khuyến khích, trong khi việc xử lý kỉ luật đối với những cá nhân vi phạm cũng không thể bỏ qua Các quy định pháp luật về xử lý kỉ luật công chức chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm, và hình thức xử lý sẽ phụ thuộc vào mức độ vi phạm Những chế tài này là cần thiết để đảm bảo kỉ luật và có tác động trực tiếp đến những người vi phạm, góp phần duy trì trật tự và kỉ cương trong công tác.

Nhà nước có trách nhiệm "trừng trị" những người làm "công bộc" của nhân dân nhưng không hoàn thành tốt vai trò và chức trách của mình Mục đích này, kết hợp với chức năng giáo dục và răn đe của pháp luật, sẽ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

Quy định về xử lý kỷ luật công chức không chỉ mang tính chất trừng trị mà còn có mục đích giáo dục, góp phần răn đe và nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phòng ngừa vi phạm, vì có những hành vi kỷ luật gây ra hậu quả khó khắc phục Do đó, bên cạnh việc xử lý các vi phạm, pháp luật cũng cần chú trọng đến vai trò phòng ngừa Những chế tài nghiêm khắc trong xử lý kỷ luật sẽ giúp công chức nhận thức rõ hơn về trách nhiệm của mình trong quá trình thực hiện công vụ.

14 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr 86

15 Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1984, tr 116

Trong bối cảnh vi phạm pháp luật gia tăng trong đội ngũ cán bộ, công chức, việc kiểm tra và xử lý kỷ luật trở nên cần thiết hơn bao giờ hết Hoạt động này không chỉ tạo ra hiệu quả răn đe đối với những hành vi vi phạm mà còn nâng cao ý thức của công chức Qua đó, nó góp phần xây dựng lòng tin của người dân vào một nền hành chính hiện đại, trong sạch và vững mạnh.

Những quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý kỉ luật công chức

Hành vi vi phạm kỉ luật

Việc xử lý kỷ luật người lao động thường dựa vào việc vi phạm nội quy doanh nghiệp, trong khi pháp luật lao động chỉ đưa ra chuẩn mực hành vi mà không quy định chi tiết Ngược lại, xử lý kỷ luật công chức dựa trên quy định pháp luật, tạo tính thống nhất trong các cơ quan nhà nước và đảm bảo áp dụng pháp luật không tùy tiện Theo quy định hiện hành, hành vi vi phạm của công chức bị xử lý kỷ luật bao gồm vi phạm nghĩa vụ, đạo đức và văn hóa giao tiếp trong thi hành công vụ, cũng như các hành vi bị cấm theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008.

Trong hoạt động công vụ, công chức nhà nước đại diện cho nhà nước và sử dụng quyền lực để thực hiện nhiệm vụ quản lý Những hành động này có thể ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, do đó, việc xử lý nghiêm minh các vi phạm về nghĩa vụ và đạo đức của công chức là cần thiết Khi công chức có hành vi không đúng đắn, họ phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và nhân dân, điều này cũng phản ánh mục đích của chế định xử lý kỷ luật công chức.

Trong quá trình xây dựng nền hành chính hiện đại, công chức đóng vai trò then chốt trong việc phục vụ và bảo vệ lợi ích của công dân Nghĩa vụ và trách nhiệm của công chức ngày càng được cụ thể hóa trong pháp luật nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của nền hành chính Các quy định chi tiết về nghĩa vụ của công chức được nêu rõ tại Mục 1, Chương II của Luật Cán bộ, công chức.

Năm 2008, công chức cần thực hiện công vụ một cách nghiêm túc, không được chây lười hay trốn tránh trách nhiệm Họ cũng không được gây bè phái, mất đoàn kết, hoặc tự ý bỏ việc Việc vi phạm những quy định này đi ngược lại với mục đích của hoạt động công vụ Do đó, xử lý kỷ luật công chức trong những trường hợp này là cần thiết để nâng cao trách nhiệm của nhà nước đối với nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức trong công việc, cho rằng người cách mạng cần có đạo đức để lãnh đạo nhân dân hiệu quả Điều này lý giải tại sao đạo đức công vụ trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia Tại Việt Nam, pháp luật cũng đã quy định rõ ràng về đạo đức của công chức trong Điều 15, 16, 17 của Luật Cán bộ, công chức.

Vào năm 2008 và các văn bản pháp lý khác, yêu cầu đối với công chức là phải duy trì lối sống lành mạnh, trung thực, cần kiệm liêm chính, và chí công vô tư Họ không được phép thể hiện hành vi quan liêu, hách dịch, cửa quyền hay tham nhũng Đặc biệt, công chức vi phạm pháp luật sẽ bị Tòa án kết án theo bản án có hiệu lực pháp luật.

Hoạt động công vụ phải luôn hướng tới lợi ích của xã hội và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của công dân Chế tài xử lý kỷ luật không chỉ nhằm xử lý công chức vi phạm nghĩa vụ, đạo đức công vụ mà còn áp dụng cho những hành vi vi phạm pháp luật đã bị tòa án kết án Khi công chức vi phạm pháp luật và bị xử án, họ cũng phải chịu trách nhiệm kỷ luật, điều này thể hiện sự nghiêm minh trong quản lý công vụ Quy định này góp phần nâng cao trách nhiệm của công chức, những người được xem là “công bộc” của nhân dân, đồng thời đảm bảo tuân thủ các quy định về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, bình đẳng giới, và các quy định liên quan khác.

Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ và quyền hạn của người có trách nhiệm để thu lợi cá nhân Điều này thể hiện rõ ràng qua những hành vi vi phạm đạo đức và pháp luật, gây ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội và sự phát triển kinh tế.

17 Lưu Kiếm Thanh, Đạo đức công vụ, Tạp chí Quản lý nhà nước số 197, tháng 6, năm 2012

Theo Khoản 2, Điều 1 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012), tham nhũng gắn liền với quyền lực công và phát sinh từ hoạt động công vụ Chỉ những người nắm giữ quyền lực công, đặc biệt là cán bộ, công chức, mới có khả năng thực hiện hành vi tham nhũng Hiện nay, tham nhũng trong quản lý được xem là vấn đề cấp bách và được Nhà nước đặc biệt chú trọng trong Chiến lược chống tham nhũng quốc gia Công chức, với vai trò là "công bộc" của nhân dân, cần tiên phong trong việc chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí.

Trước đây, khi xã hội được quản lý theo cơ chế tập trung và bao cấp, nhu cầu về phục vụ dân sự đơn giản, dẫn đến ít sự quan tâm đến quy định về công chức trong hệ thống hành chính Tuy nhiên, khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, bộ máy hành chính ngày càng phình to để đáp ứng nhu cầu quản lý, khiến cải cách hành chính trở thành yêu cầu tất yếu Để thực hiện nhiệm vụ này, cần có đội ngũ công chức có năng lực, người phải làm gương trong tuyên truyền và thực hiện bình đẳng giới cũng như phòng, chống tệ nạn xã hội Thực tế cho thấy, số lượng công chức tham nhũng và gây lãng phí đang gia tăng, gây tổn thất cho đất nước và nhân dân Do đó, cần xử lý nghiêm khắc những hành vi này bằng chế tài hình sự hoặc kỷ luật, không chỉ để "trả lời" trước Nhà nước và nhân dân mà còn để giáo dục, răn đe những công chức vi phạm, giúp họ tiến bộ và xứng đáng với kỳ vọng của xã hội.

Các hình thức kỉ luật

Theo quy định pháp luật hiện hành, công chức vi phạm pháp luật có thể bị xử lý kỷ luật với một trong sáu hình thức, trong đó có hình thức khiển trách.

Khiển trách là hình thức xử lý kỷ luật nhẹ nhất đối với công chức theo quy định pháp luật Hình thức kỷ luật này được quy định tại Điều 9 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP và áp dụng cho các hành vi vi phạm nhất định.

- Có thái độ hách dịch, cửa quyền hoặc gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong thi hành công vụ;

19 Thanh tra Chính phủ (2012), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng, tr 9

- Không thực hiện nhiệm vụ được giao mà không có lý do chính đáng;

- Gây mất đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Tự ý nghỉ việc, tổng số từ 03 đến dưới 05 ngày làm việc trong một tháng;

- Sử dụng tài sản công trái pháp luật;

- Xác nhận giấy tờ pháp lý cho người không đủ điều kiện;

Vi phạm các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiết kiệm và chống lãng phí, kỷ luật lao động, bình đẳng giới, phòng, chống tệ nạn mại dâm, cũng như các quy định khác liên quan đến công tác là những vấn đề cần được nghiêm túc xem xét và xử lý.

So với Nghị định số 35/2005/NĐ-CP, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP đã đưa ra quy định rõ ràng hơn về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức Nghị định 35/2005 chỉ đề cập đến hình thức khiển trách cho vi phạm lần đầu ở "mức độ nhẹ" mà không giải thích cụ thể, dẫn đến sự chủ quan trong việc đánh giá Trong khi đó, Nghị định 34/2011 đã liệt kê 7 trường hợp cụ thể áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho người có thẩm quyền, thể hiện sự tiến bộ trong quy trình lập pháp của nhà nước.

Nghị định số 35/2005/NĐ-CP không chỉ rõ các hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật khiển trách, nhưng điều này đã được làm rõ trong Thông tư số 03/2006/TT-BNV do Bộ Nội vụ ban hành Mục 5.1 của Thông tư này quy định chi tiết những hành vi vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật dưới hình thức khiển trách.

Công chức có thái độ hách dịch và phiền hà trong quá trình thực thi nhiệm vụ đã được nhắc nhở và phê bình nhưng vẫn không có sự sửa chữa Điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả công việc và lòng tin của người dân đối với cơ quan nhà nước.

- Công chức chây lười trong công tác, trốn tránh trách nhiệm hoặc thoái thác nhiệm vụ, công vụ đã được nhắc nhở, phê bình nhưng không sửa chữa;

- Công chức gây bè phái, mất đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Công chức tự ý bỏ việc lần đầu nhưng chưa quá 3 ngày làm việc;

- Công chức lần đầu mắc khuyết điểm do thiếu trách nhiệm trong việc xác nhận hồ sơ và văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp;

Công chức phụ trách quản lý hồ sơ và cấp phát văn bằng, chứng chỉ đã cố tình cản trở quá trình thẩm tra và xác minh các văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp.

Nghị định số 34/2011/NĐ-CP đã bổ sung các trường hợp bị kỷ luật khiển trách, như “sử dụng tài sản công trái pháp luật” và “xác nhận giấy tờ pháp lý cho người không đủ điều kiện”, điều mà Thông tư số 03/2006/TT-BNV không đề cập Sự bổ sung này là cần thiết, vì trước đây, nhiều công chức quản lý tài sản công đã vi phạm quy định pháp luật mà không bị xử lý Trước khi Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ra đời, không có cơ sở pháp lý để xử lý những hành vi này chỉ dựa vào Nghị định số 35/2005/NĐ-CP và Thông tư số 03/2006/TT-BNV Việc bổ sung hai hành vi trên không chỉ tạo cơ sở cho xử lý kỷ luật mà còn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp lý và nâng cao đạo đức trong thực thi công vụ.

Theo Điều 10 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP thì những hành vi vi phạm pháp luật sau đây bị áp dụng hình thức kỉ luật cảnh cáo:

- Cấp giấy tờ pháp lý cho người không đủ điều kiện;

- Sử dụng thông tin, tài liệu của cơ quan, tổ chức, đơn vị để vụ lợi;

- Không chấp hành quyết định điều động, phân công công tác của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền;

- Sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được tham gia đào tạo, bồi dưỡng; được dự thi nâng ngạch công chức;

- Tự ý nghỉ việc, tổng số từ 05 đến dưới 07 ngày làm việc trong một tháng;

- Sử dụng trái phép chất ma túy bị cơ quan công an thông báo về cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi công chức đang công tác;

- Bị phạt tù cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý;

Vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, kỷ luật lao động, bình đẳng giới, phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác liên quan đến công chức đã xảy ra Tuy nhiên, người vi phạm đã thành khẩn kiểm điểm trong quá trình xem xét xử lý kỷ luật.

So với Nghị định số 35/2005/NĐ-CP, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP đã cải cách và đơn giản hóa các quy định trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 Văn bản này loại bỏ những quy định định tính khó áp dụng như “vi phạm ở mức độ nhẹ” và “khuyết điểm có tính chất thường xuyên”, giúp việc thực thi pháp luật trở nên rõ ràng và hiệu quả hơn.

Nghị định số 34/2011/NĐ quy định rõ các trường hợp vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo, nhằm đảm bảo sự thống nhất và thuận tiện trong việc áp dụng pháp luật Điều này giúp tạo ra một khung pháp lý rõ ràng, mặc dù chưa gây hậu quả nghiêm trọng.

CP đã xây dựng các hành vi làm căn cứ xử lý kỷ luật cảnh cáo dựa trên việc kế thừa hợp lý các quy định trong Nghị định số 35/2005/NĐ-CP và Thông tư 03/2006/TT-BNV Cụ thể, quy định về việc công chức tự ý nghỉ việc trước đây là “tổng số 2 lần không quá 6 ngày” đã được điều chỉnh thành “tự ý nghỉ việc, tổng số từ 05 đến dưới 07 ngày làm việc trong một tháng” Bên cạnh đó, quy định về việc “sử dụng giấy tờ không hợp pháp để tham gia đào tạo, bồi dưỡng” cũng kế thừa từ quy định trước đó liên quan đến việc sử dụng văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp trong quá trình thi tuyển và xét tuyển.

Nghị định số 34/2011/NĐ-CP đã bổ sung các hành vi vi phạm để xử lý kỷ luật công chức, như việc sử dụng trái phép chất ma túy và trường hợp công chức không giữ chức vụ lãnh đạo bị phạt tù treo hoặc cải tạo không giam giữ Những bổ sung này phản ánh thực tế rằng hành vi vi phạm của công chức vẫn xảy ra khá phổ biến, từ đó tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc hơn để xử lý các trường hợp này.

Nghị định số 35/2005/NĐ-CP quy định về hình thức cảnh cáo áp dụng cho cán bộ, công chức đã bị khiển trách nhưng tái phạm hoặc vi phạm mức độ nhẹ với khuyết điểm thường xuyên Cảnh cáo cũng được áp dụng cho những vi phạm lần đầu có tính chất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tư cách và uy tín của cơ quan, tổ chức Ngoài ra, các hành vi như làm giả hồ sơ, sử dụng văn bằng không hợp pháp, mặc dù chưa gây hậu quả nghiêm trọng, cũng bị xử lý Những quy định này nhằm điều chỉnh kịp thời các vi phạm kỷ luật và nâng cao tính kỷ luật trong đội ngũ cán bộ, công chức.

Căn cứ xử lý kỷ luật hạ bậc lương theo Nghị định 34/2011/NĐ-CP có sự khác biệt so với Nghị định 35/2005/NĐ-CP Hình thức kỷ luật này được áp dụng đối với công chức khi có hành vi vi phạm pháp luật cụ thể.

Nguyên tắc xử lý kỉ luật

Nguyên tắc, theo nghĩa chung nhất, là những điều cơ bản cần tuân theo trong các hoạt động Mỗi lĩnh vực khoa học và hoạt động cụ thể có cách tiếp cận riêng về nguyên tắc Trong khoa học pháp lý, nguyên tắc quản lý nhà nước được xác định là những tư tưởng chủ đạo, dựa trên cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, được quy định trong pháp luật, và đóng vai trò nền tảng cho tổ chức cũng như hoạt động quản lý nhà nước.

Trong lĩnh vực luật hành chính, nguyên tắc quản lý nhà nước được hiểu là tập hợp các quy phạm pháp luật hành chính, phản ánh những tư tưởng chủ đạo nhằm tổ chức và thực hiện hoạt động quản lý nhà nước Do đó, nguyên tắc xử lý kỷ luật công chức đóng vai trò là những tư tưởng nền tảng cần tuân thủ trong quá trình thực hiện công tác này Các nguyên tắc này bao gồm những chỉ dẫn quan trọng cho việc xử lý kỷ luật công chức.

Nguyên tắc thứ nhất: Khách quan, công bằng; nghiêm minh, đúng pháp luật

Việc xử lý kỷ luật công chức được thực hiện theo thủ tục hành chính, cho thấy đây là một cơ chế nội bộ kín đáo trong các cơ quan, đơn vị và tổ chức Điều này dẫn đến khó khăn trong việc giám sát và tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tiêu cực.

24 Cao Vũ Minh - Nguyễn Thị Thiện Trí, Một số vấn đề về trách nhiệm kỉ luật của viên chức, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6, tháng 12, năm 2013

25 Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr

Quá trình xử lý kỷ luật cần được thực hiện một cách đồng bộ và nghiêm minh để nâng cao hiệu quả và hiệu suất răn đe đối với công chức, đặc biệt là những người vi phạm kỷ luật Việc thiếu nguyên tắc trong xử lý kỷ luật có thể dẫn đến giảm sút hiệu quả trong công tác quản lý.

Nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong xử lý kỉ luật công chức yêu cầu phải dựa trên những sai phạm thực tế, đảm bảo tính công tâm và chính xác trong đánh giá hành vi vi phạm cũng như áp dụng hình thức kỉ luật Cùng một hành vi vi phạm với tính chất và mức độ tương tự, cần áp dụng hình thức xử lý nhất quán để tránh sự thiên vị Việc xử phạt và khen thưởng phải đúng người, đúng tội, không bị ảnh hưởng bởi thân sơ hay gốc gác Toàn bộ quá trình xử lý kỉ luật phải tuân thủ pháp luật, từ thẩm quyền, hình thức, mức độ xử lý đến thủ tục áp dụng Từ khi phát hiện hành vi vi phạm cho đến khi xử lý, cần thực hiện nghiêm túc theo quy định pháp luật hiện hành, không để xảy ra xử lý cảm tính hay duy ý chí Đây là nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt trong việc xem xét xử lý kỉ luật đối với công chức.

Nguyên tắc thứ hai quy định rằng mỗi hành vi vi phạm pháp luật chỉ bị xử lý bằng một hình thức kỷ luật Trong trường hợp công chức có nhiều hành vi vi phạm, họ sẽ bị xử lý kỷ luật cho từng hành vi và chịu hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức áp dụng cho hành vi vi phạm nặng nhất, trừ khi có hành vi vi phạm yêu cầu xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc.

Luật Cán bộ, công chức năm 2008 không quy định nguyên tắc xử lý kỷ luật, do đó nguyên tắc này được kế thừa từ Nghị định số 35/2005/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 17/3/2005 về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức.

Nghị định số 35/2005/NĐ-CP quy định rằng mỗi hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một hình thức kỷ luật, nhưng nếu cán bộ, công chức có nhiều hành vi vi phạm, họ sẽ bị xử lý kỷ luật cho từng hành vi và chịu hình thức kỷ luật cao hơn một mức Tuy nhiên, một câu hỏi nảy sinh là nếu công chức có nhiều hành vi vi phạm, trong đó có hành vi nặng nhất là buộc thôi việc, liệu họ có phải chịu hình thức kỷ luật cao hơn nữa hay không Rõ ràng, nhà làm luật chưa dự liệu được tình huống này Để khắc phục, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP đã được ban hành.

Tô Tử Hạ (2001) trong tác phẩm "Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay" đã nhấn mạnh rằng, mặc dù kế thừa nguyên tắc cũ, nhưng việc bổ sung quy định ngoại lệ về xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc là rất quan trọng Sự bổ sung này không chỉ nâng cao tính chính xác trong quy trình lập pháp mà còn đảm bảo tính toàn diện cho pháp luật xử lý kỷ luật.

Nguyên tắc xác định hình thức kỷ luật đối với công chức vi phạm quy định rằng mỗi hành vi vi phạm chỉ bị xử lý bằng một hình thức kỷ luật duy nhất Điều này đảm bảo tính công bằng trong xử lý kỷ luật, ngăn chặn sự tùy tiện và quan liêu từ người có thẩm quyền Khi công chức vi phạm, hành vi cụ thể sẽ tương ứng với mức độ kỷ luật nhất định, tránh tình trạng áp dụng nhiều hình thức kỷ luật cho cùng một hành vi hoặc xử lý khác nhau cho các cá nhân khác nhau.

So với quy định về xử lý kỷ luật trong Luật Lao động hiện hành đối với người lao động nhận lương, nguyên tắc này có nhiều điểm tương đồng Cụ thể, theo Khoản 2, Điều

Theo Bộ luật Lao động năm 2012, không được áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật lao động cho một hành vi vi phạm Tuy nhiên, trong lĩnh vực kỷ luật công chức, nếu có nhiều hành vi vi phạm, công chức sẽ bị xử lý kỷ luật cho từng hành vi và chịu hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hành vi vi phạm nặng nhất, trừ trường hợp bị buộc thôi việc Điều này khác với quy định tại Khoản 3 Điều 123 Bộ luật Lao động, nơi chỉ áp dụng hình thức kỷ luật cao nhất cho hành vi vi phạm nặng nhất Sự khác biệt này xuất phát từ vai trò của công chức như "đầy tớ" của nhân dân, chịu trách nhiệm không chỉ với cơ quan mà còn với nhà nước và nhân dân Trong khi hành vi vi phạm của người lao động chủ yếu ảnh hưởng đến doanh nghiệp, hành vi của công chức có tác động lớn hơn đến xã hội Nguyên tắc này tạo ra tính nghiêm khắc trong xử lý kỷ luật và khẳng định trách nhiệm của công chức trong thực thi công vụ.

Nguyên tắc thứ 3 quy định rằng nếu công chức tiếp tục vi phạm pháp luật trong thời gian thi hành quyết định kỷ luật, sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật tương ứng.

Nếu một cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật và đang bị xử lý kỷ luật với hình thức nhẹ hơn hoặc tương đương, thì sẽ áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật hiện tại.

Nếu một cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật và đang chịu hình thức kỷ luật, nhưng sau đó bị xử lý kỷ luật với hình thức nặng hơn, thì sẽ áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật hiện tại cho hành vi vi phạm pháp luật mới.

Thẩm quyền xử lý kỉ luật

Nghị định số 34/2011/NĐ-CP đã quy định chi tiết về thẩm quyền xử lý kỉ luật đối với công chức Cụ thể, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý sẽ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bổ nhiệm thực hiện xử lý kỉ luật Đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, người đứng đầu cơ quan quản lý sẽ tiến hành xử lý kỉ luật Đối với công chức biệt phái, người đứng đầu cơ quan tiếp nhận sẽ xử lý kỉ luật và gửi hồ sơ về cơ quan quản lý công chức biệt phái Nếu công chức đã chuyển công tác và phát hiện vi phạm trong thời hiệu quy định, người đứng đầu cơ quan quản lý trước đây sẽ xử lý kỉ luật và gửi hồ sơ đến cơ quan hiện tại Trong trường hợp cơ quan trước đây đã giải thể hoặc sáp nhập, các cá nhân liên quan phải bàn giao hồ sơ để cơ quan mới thực hiện xử lý kỉ luật.

So với Nghị định số 35/2005/NĐ-CP, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP đã có bước tiến quan trọng trong quy định về thẩm quyền xử lý kỉ luật Trong khi Nghị định trước phân định thẩm quyền dựa trên nơi làm việc của công chức, Nghị định mới đã không còn dựa vào tiêu chí này, giúp rút ngắn nội dung điều luật Điều này không chỉ làm cho quy định trở nên khoa học và ngắn gọn hơn mà còn đảm bảo tính cụ thể và toàn diện.

Thời hiệu xử lý kỉ luật

Thời hiệu là một cơ chế giúp giải phóng cá nhân khỏi nghĩa vụ sau một khoảng thời gian nhất định Theo Điều 80, Khoản 1 của luật Cán bộ, công chức năm 2008, "thời hiệu xử lý kỉ luật" là thời hạn mà sau khi hết, cá nhân vi phạm không còn bị xem xét kỷ luật Trước đây, vấn đề này chưa được quy định trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 Tuy nhiên, Nghị định số 35/2005/NĐ-CP đã điều chỉnh vấn đề này, quy định rõ thời hiệu xử lý kỷ luật bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi vi phạm cho đến khi Hội đồng kỷ luật họp Việc ghi nhận thời hiệu trong Nghị định này là một bước tiến quan trọng về mặt lập pháp, giúp tăng cường trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền và đảm bảo xử lý kỷ luật kịp thời Tuy nhiên, quy định này vẫn còn thiếu sót khi nhầm lẫn giữa thời hiệu và thời hạn trong quá trình xử lý kỷ luật công chức.

Thời gian xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức được xác định từ khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thụ lý vụ việc Theo Nghị định số 35/2005/NĐ-CP, thời hiệu xử lý kỷ luật thực chất là thời hạn xem xét kỷ luật, bắt đầu từ khi có hành vi vi phạm Tuy nhiên, sự không rõ ràng giữa thời hiệu và thời hạn xử lý kỷ luật đã gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật Luật Cán bộ, công chức 2008 đã khắc phục phần nào vấn đề này bằng cách quy định thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng kể từ khi xảy ra hành vi vi phạm Tuy nhiên, quy định này vẫn còn thiếu sót, vì có thể dẫn đến việc các cơ quan có thẩm quyền cố tình trì hoãn xử lý cho đến khi hết thời hiệu Để giải quyết vấn đề này, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP đã được ban hành nhằm hướng dẫn cụ thể hơn.

Thời hiệu xử lý kỷ luật đối với công chức là 24 tháng, bắt đầu từ thời điểm xảy ra hành vi vi phạm pháp luật cho đến khi người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ban hành thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật.

Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của công chức, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền phải ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỉ luật theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP Thông báo cần nêu rõ thời điểm vi phạm, thời điểm phát hiện vi phạm và thời hạn xử lý kỉ luật Quy định này nhằm tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo trong việc xử lý vi phạm pháp luật.

Theo Điều 56 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm Đồng thời, Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005 quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý vụ việc.

Bài viết của Bùi Thị Đào trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9 năm 2007 đã đề cập đến thời hiệu xử lý kỷ luật cán bộ, công chức Nội dung này giúp khắc phục những thiếu sót của các văn bản pháp luật trước đây liên quan đến việc xử lý kỷ luật công chức, từ đó nâng cao tính hiệu quả và minh bạch trong công tác kỷ luật.

Thời hạn xử lý kỉ luật

Theo Nghị định số 35/2011/NĐ-CP, sau khi kết thúc cuộc họp, Hội đồng kỷ luật phải gửi văn bản kèm theo biên bản và tài liệu liên quan đến người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền trong vòng 5 ngày làm việc Sau khi nhận được văn bản, người đứng đầu phải ra quyết định kỷ luật bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày làm việc Nếu vi phạm kỷ luật thuộc thẩm quyền của cấp cao hơn, thời hạn ra quyết định kỷ luật sẽ được điều chỉnh tương ứng.

Trong thời hạn 30 ngày, nếu Hội đồng kỷ luật có ý kiến khác với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền và không đạt được sự thống nhất sau thảo luận, người đứng đầu sẽ tự quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình Điều 7 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP quy định thời hạn xử lý kỷ luật tối đa là 02 tháng kể từ khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của công chức đến khi có quyết định xử lý Đối với vụ việc có liên quan đến nhiều người, cần giám định tang vật hoặc có tình tiết phức tạp, người đứng đầu có quyền kéo dài thời hạn xử lý theo Khoản 2 Điều 80 Luật Cán bộ, công chức Nếu cá nhân đã bị khởi tố, truy tố nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra, hành vi vi phạm vẫn sẽ bị xử lý kỷ luật, và trong vòng 03 ngày kể từ khi đình chỉ, quyết định cùng hồ sơ vụ việc phải được gửi đến cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật.

Các quy định pháp luật về thời hạn xử lý kỷ luật đã được hoàn thiện, với thời gian xử lý được tính toán kỹ lưỡng, phù hợp với đặc thù vi phạm Hành vi vi phạm kỷ luật của công chức bao gồm vi phạm hành chính, hình sự và các vi phạm pháp luật khác, do đó mức độ và tính chất nguy hiểm của các hành vi này là khác nhau Vì vậy, khi quy định thời hạn xử lý kỷ luật, cần phân hóa thành các khoảng thời gian khác nhau, phù hợp với tính chất nghiêm trọng của từng hành vi và mối tương quan với thời hạn xử phạt vi phạm hành chính cũng như thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự.

Các trường hợp được miễn trách nhiệm kỉ luật

Căn cứ vào Luật Cán bộ, công chức năm 2008, các trường hợp miễn trách nhiệm kỷ luật cho công chức được quy định tại Điều 77, bao gồm hai trường hợp: chấp hành quyết định trái pháp luật của cấp trên với điều kiện báo cáo trước và bất khả kháng theo quy định pháp luật Đặc biệt, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP đã bổ sung một trường hợp mới, đó là miễn trách nhiệm kỷ luật do mất năng lực hành vi dân sự khi vi phạm pháp luật, tạo ra sự thay đổi quan trọng so với quy định ban đầu.

Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Nghị định do Chính phủ ban hành được chia thành ba loại: loại thứ nhất hướng dẫn thi hành luật và pháp lệnh của Quốc hội; loại thứ hai quy định biện pháp cụ thể cho chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh; loại thứ ba điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh mà chưa có luật hay pháp lệnh Nghị định số 34/2011/NĐ-CP được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành Luật Cán bộ, công chức năm 2008, với mục đích bổ sung một số quy định mới, như quy định tại Điều 77 về miễn trách nhiệm kỷ luật đối với công chức trong các trường hợp cụ thể.

31 Xem thêm Điều 14 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008

1 Phải chấp hành quyết định trái pháp luật của cấp trên nhưng đã báo cáo người ra quyết định trước khi chấp hành;

2 Do bất khả kháng theo quy định của pháp luật

Trong khi đó, Điều 5 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP quy định đến 03 trường hợp công chức được miễn trách nhiệm kỉ luật:

1 Được cơ quan có thẩm quyền xác nhận tình trạng mất năng lực hành vi dân sự khi vi phạm pháp luật

2 Phải chấp hành quyết định của cấp trên theo quy định tại Khoản 5 Điều 9 Luật Cán bộ, công chức

3 Được cấp có thẩm quyền xác nhận vi phạm pháp luật trong tình thế bất khả kháng khi thi hành công vụ

Khoản 2, Điều 5 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP cụ thể hóa Khoản 1, Điều 77 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, trong khi Khoản 3 của cùng Nghị định hướng dẫn thi hành Khoản 2, Điều 77 Tuy nhiên, Khoản 1, Điều 5 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP cần làm rõ là hướng dẫn thi hành điều khoản nào của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, hay chỉ là sự “bổ sung” Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định rõ trong Chương IX về những điều luật mà Chính phủ phải hướng dẫn thi hành, trong đó chỉ giao Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều 76 và Điều 79, còn Điều 77 không thuộc phạm vi này Điều này cho thấy Điều 77 đã rõ ràng và đầy đủ, không cần thêm giải thích hay bổ sung Do đó, việc Chính phủ tự ý quy định thêm trường hợp miễn trách nhiệm kỷ luật cho công chức có phần trái với quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008.

THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ KỈ LUẬT CÔNG CHỨC

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:39

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w