1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Trách nhiệm của người sử dụng lao động trong các trường hợp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo pháp luật lao động việt nam

59 39 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Trách Nhiệm Của Người Sử Dụng Lao Động Trong Trường Hợp Tai Nạn Lao Động Theo Pháp Luật Lao Động Việt Nam
Tác giả Nguyễn Đức Tài
Người hướng dẫn TS. Lê Thị Thúy Hương
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự Và Tố Tụng Dân Sự
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 59
Dung lượng 7,81 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VỀ CHI PHÍ Y TẾ VÀ TIỀN LƯƠNG KHI NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG (11)
    • 1.1. Về trách nhiệm chi trả chi phí sơ, cấp cứu và điều trị (12)
    • 1.2. Về trách nhiệm trả lương trong thời gian Người lao động điều trị (14)
  • CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG VIỆC BỒI THƯỜNG/TRỢ CẤP VÀ CÁC TRÁCH NHIỆM KHÁC TRONG TRƯỜNG HỢP TAI NẠN LAO ĐỘNG (18)
    • 2.1. Trách nhiệm bồi thường/trợ cấp tai nạn lao động (18)
      • 2.1.1. Xác định điều kiện bồi thường hoặc trợ cấp (18)
      • 2.1.2. Mức bồi thường/trợ cấp (21)
      • 2.1.3. Thực tiễn thực hiện trách nhiệm bồi thường/trợ cấp của Người sử dụng (22)
    • 2.2. Trách nhiệm sắp xếp công việc cho người lao động bị tai nạn lao động (30)
    • 2.3. Một số giải pháp đảm bảo trách nhiệm của người sử dụng lao động (32)
      • 2.3.1. Giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại (32)
      • 2.3.2. Về việc xây dựng quỹ bồi thường tai nạn lao động (34)
  • KẾT LUẬN (17)
  • PHỤ LỤC (46)

Nội dung

TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VỀ CHI PHÍ Y TẾ VÀ TIỀN LƯƠNG KHI NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG

Về trách nhiệm chi trả chi phí sơ, cấp cứu và điều trị

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 144 BLLĐ 2012, Khoản 1, Khoản 2 Điều

Theo Luật ATVSLĐ 2015, khi người lao động (NLĐ) gặp tai nạn lao động (TNLĐ), nhà sử dụng lao động (NSDLĐ) có trách nhiệm kịp thời sơ cứu và cấp cứu cho NLĐ Đồng thời, NSDLĐ cũng phải tạm ứng chi phí cho việc sơ cứu, cấp cứu và điều trị của NLĐ.

NSDLĐ có trách nhiệm chi trả chi phí y tế cho NLĐ, bao gồm: (i) thanh toán phần chi phí đồng chi trả và các chi phí không được BHYT chi trả; (ii) trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động cho những trường hợp có mức suy giảm dưới 5% do NSDLĐ giới thiệu; và (iii) thanh toán toàn bộ chi phí y tế cho NLĐ không tham gia BHYT.

Việc thanh toán chi phí y tế được phân thành hai trường hợp: Thứ nhất, nếu người lao động (NLĐ) không tham gia bảo hiểm y tế (BHYT), người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ sơ cứu đến khi NLĐ ổn định Thứ hai, nếu NLĐ có tham gia BHYT, NSDLĐ chỉ cần thanh toán phần chi phí đồng chi trả và các chi phí không nằm trong danh mục bảo hiểm.

4 Thông báo số 1152/TB-BLĐTBXH ngày 28/3/2017 của BLĐ, TB và XH, thông báo về tình hình tai nạn lao động năm 2016

BHYT là hình thức bảo hiểm y tế bắt buộc do Nhà nước tổ chức nhằm chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng theo quy định của Luật BHYT, không vì mục đích lợi nhuận Đối tượng tham gia bao gồm người lao động có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng từ 3 tháng trở lên, người quản lý doanh nghiệp hưởng lương, cán bộ, công chức, viên chức và các đối tượng khác Hiện nay, Nhà nước đã triển khai chế độ BHYT toàn dân.

Khi xảy ra tai nạn lao động (TNLĐ), chi phí y tế trở thành gánh nặng lớn đối với người lao động, đặc biệt là những người thuộc hộ nghèo, khiến họ gặp nhiều khó khăn Nhiều trường hợp, người lao động không đủ tiền để chữa trị và phải trốn viện về nhà Vì vậy, quy định tại Khoản 1 Điều 144 Bộ luật Lao động 2012 và Điều 38 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 rất quan trọng, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động khi gặp phải tai nạn lao động.

Mặc dù quy định hiện tại đã được đưa ra, nhưng vẫn còn quá chung chung và thiếu hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc áp dụng trong thực tiễn gặp nhiều vướng mắc.

Thứ nhất, mức “đồng chi trả” như thế nào vẫn chưa được quy định cụ thể

Luật quy định không có giới hạn chi phí cho việc chi trả của NSDLĐ khi BHXH không thanh toán, dẫn đến sự không rõ ràng về cách thức chi trả và hạn mức chi phí Câu hỏi đặt ra là NSDLĐ sẽ chi trả những khoản nào và không chi trả những khoản nào Ví dụ, nếu NLĐ tham gia BHYT nhưng khám chữa bệnh trái tuyến, vượt tuyến hoặc đi chữa bệnh ở nước ngoài, liệu NSDLĐ có trách nhiệm chi trả không?

Pháp luật hiện hành quy định rằng NSDLĐ phải thanh toán toàn bộ chi phí y tế cho NLĐ, nhưng không chỉ rõ thời gian và cách thức thanh toán, dẫn đến sự không đồng nhất trong thực hiện Việc thanh toán có thể được thực hiện trực tiếp với cơ sở y tế hoặc với NLĐ, và có thể diễn ra một lần hoặc nhiều lần, tùy thuộc vào quyết định của NSDLĐ Điều này gây khó khăn cho NLĐ và các cơ quan có thẩm quyền, khi mà nhiều NSDLĐ yêu cầu NLĐ phải chi trả trước rồi mới hoàn trả sau, trong khi NLĐ thường gặp khó khăn tài chính Họ phải vay mượn hoặc bán tài sản để trang trải chi phí y tế, nhưng lại nhận được khoản thanh toán không kịp thời hoặc không đầy đủ từ NSDLĐ, khiến họ rơi vào tình trạng khốn cùng.

Trên cơ sở các phân tích ở trên, tác giả đề xuất một số kiến nghị sau:

Cần quy định rõ thời gian thanh toán chi phí y tế, theo đó, trong vòng 15 ngày kể từ ngày người lao động (NLĐ) xuất trình chứng từ yêu cầu thanh toán hoặc từ ngày bổ sung đầy đủ chứng từ, nhà sử dụng lao động (NSDLĐ) phải hoàn tất việc thanh toán Nếu quá thời gian này mà NSDLĐ vẫn chưa thanh toán, thì phải chịu trách nhiệm trả lãi suất cho phần chậm thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Hai là , đối với chi phí “đồng chi trả”, cần bổ sung Điểm a Khoản 2 Điều 38

Luật ATVSLĐ 2015 như sau:“Chi phí đồng chi trả được thực hiện theo luật

BHYT và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định rằng khi người bệnh tự chọn thầy thuốc và bệnh viện, quỹ BHYT sẽ chi trả trong phạm vi và mức hưởng đã quy định Nếu có phần chênh lệch, người bệnh sẽ tự thanh toán với cơ sở y tế.

Theo quy định về cách thức thanh toán, NSDLĐ cần tạm ứng cho NLĐ một khoản tiền để chi trả chi phí điều trị ban đầu, với mức tạm ứng tối thiểu là 06 tháng lương Sau khi NLĐ xuất viện, nếu chi phí điều trị vượt quá số tiền đã tạm ứng, NSDLĐ phải thanh toán toàn bộ phần chi phí còn lại Điều này nhằm giúp NLĐ nhanh chóng vượt qua khó khăn khi gặp phải thiệt hại về tính mạng và sức khỏe do tai nạn lao động.

Về trách nhiệm trả lương trong thời gian Người lao động điều trị

Theo Khoản 2 Điều 144 BLLĐ 2012 và Khoản 3 Điều 38 Luật ATVSLĐ 2015, người sử dụng lao động phải trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động trong thời gian nghỉ việc để điều trị và phục hồi chức năng Mức lương được tính bao gồm lương cơ bản, phụ cấp và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.

Quy định này đặt ra hai vấn đề quan trọng cần làm rõ: (i) Thời gian mà người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải thanh toán đầy đủ tiền lương cho người lao động (NLĐ) là bao lâu; và (ii) Tiền lương nào sẽ được sử dụng làm căn cứ để trả cho NLĐ trong khoảng thời gian đó.

Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động (NSDLĐ) trả cho người lao động (NLĐ) để thực hiện công việc theo thỏa thuận Trong bối cảnh này, tiền lương không phải là mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định, mà là số tiền được ghi trong hợp đồng lao động giữa NLĐ và NSDLĐ, bao gồm mức lương cơ bản, phụ cấp và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.

8 Khoản 10 Điều 38 Luật ATVSLĐ 2015 và Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH ngày 16/11/2015

Quy định này phản ánh thực tế hiện tại, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động, đảm bảo họ có nguồn thu nhập ổn định ngay cả khi gặp phải thiệt hại.

Tuy nhiên, hiện nay có một số vướng mắc xoay quanh quy định NSDLĐ trả đủ tiền lương cho NLĐ trong thời gian điều trị như sau:

Thứ nhất, BLLĐ chưa có hướng dẫn rõ “thời gian điều trị” là bao lâu và

BLLĐ có quy định về việc giới hạn thời gian trả lương cho NLĐ trong thời gian điều trị hay không Nhiều NLĐ gặp tai nạn lao động (TNLĐ) phải điều trị kéo dài, có thể lên đến hàng tháng hoặc năm Nếu không có giới hạn, NSDLĐ sẽ phải trả lương cho NLĐ trong thời gian họ không thể làm việc, gây thiệt thòi cho NSDLĐ Ví dụ, tại Công ty cổ phần nhiệt điện H.P, một công nhân tên Nguyễn Quang D đã bị bỏng nặng do tai nạn trong khi làm việc, và theo bác sĩ, anh D cần điều trị từ 1 đến 2 năm, để lại nhiều di chứng nghiêm trọng.

Câu hỏi đặt ra là có nên bỏ quy định buộc NSDLĐ trả lương trong thời gian điều trị hay không Trong trường hợp của anh D, việc điều trị kéo dài đã khiến Công ty cổ phần nhiệt điện H.P phải gánh chịu chi phí y tế lớn Nếu công ty nhỏ này còn bị buộc phải trả lương trong thời gian dài, sẽ gây khó khăn tài chính nghiêm trọng Tuy nhiên, việc bãi bỏ quy định này cũng đặt NLĐ vào tình thế khó khăn, khi họ vừa phải đối mặt với TNLĐ lại vừa mất đi nguồn thu nhập.

Theo quy định pháp luật, NSDLĐ có trách nhiệm trả đủ lương cho NLĐ trong thời gian điều trị, nhưng chưa có hướng dẫn rõ ràng về phương thức trả lương trong trường hợp này Câu hỏi đặt ra là liệu NSDLĐ sẽ trả lương hàng tháng theo hợp đồng hay một lần khi NLĐ đã ổn định Thực tế cho thấy, một số nơi vẫn duy trì việc trả lương định kỳ hàng tháng cho NLĐ, tương tự như khi chưa xảy ra tai nạn lao động, thường được thực hiện bằng hình thức trả tiền mặt.

Bài viết trên trang tin điện tử Báo Lao Động đề cập đến việc một số doanh nghiệp không chú trọng đến mạng sống của người lao động, đặc biệt trong trường hợp tai nạn lao động Một số nơi đã ngừng trả lương hàng tháng cho NLĐ mà chỉ chi trả một lần khi họ hồi phục và trở lại làm việc, kèm theo tiền bồi thường Điều này dẫn đến sự cần thiết phải có hướng dẫn cụ thể trong luật pháp để đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong các tình huống như vậy.

Theo quy định, người lao động (NLĐ) có quyền nhận lương đầy đủ, trực tiếp và đúng hạn Tuy nhiên, nhiều nhà sử dụng lao động (NSDLĐ) đã vi phạm quy định này bằng cách không trả lương, trả chậm hoặc trì hoãn thanh toán với lý do chờ kết luận từ Đoàn điều tra tai nạn lao động Hành động này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của NLĐ, khi họ không chỉ phải đối mặt với những tổn thất về sức khỏe và tính mạng mà còn mất đi nguồn thu nhập hàng tháng, tạo ra khó khăn lớn cho họ.

Quy định giới hạn thời hạn trả lương cho người lao động (NLĐ) trong quá trình điều trị là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người sử dụng lao động (NSDLĐ) và ngăn chặn hành vi trục lợi Nếu không có giới hạn, NSDLĐ có thể phải chịu thiệt hại tài chính do phải trả lương không xác định trong khi một số doanh nghiệp có khả năng tài chính hạn chế Để tránh tình trạng NLĐ lợi dụng việc điều trị để nhận lương mà không làm việc, cần áp dụng quy định theo Điều 38 BLLĐ 2012 Cụ thể, thời hạn trả lương đối với NLĐ làm theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) không xác định thời hạn không quá 12 tháng; đối với HĐLĐ xác định thời hạn không quá 6 tháng; và với NLĐ làm theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc công việc nhất định dưới 12 tháng, thời hạn trả lương không quá nửa thời hạn HĐLĐ.

Cần quy định rõ ràng về cách thức trả lương cho người lao động, ưu tiên việc trả lương định kỳ hàng tháng hoặc theo hình thức giống như trước khi họ gặp phải thiệt hại về tính mạng và sức khỏe Điều này đặc biệt quan trọng vì phần lớn người lao động đang phải đối mặt với hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.

10 Điều 96 BLLĐ năm 2012 quy định: “Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn;

Trong trường hợp đặc biệt không thể trả lương đúng hạn, người sử dụng lao động không được chậm quá 01 tháng Ngoài ra, họ phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền tối thiểu bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 BLLĐ 2012, người lao động bị ốm đau hoặc tai nạn sẽ được hưởng quyền lợi nếu đã điều trị liên tục trong 12 tháng đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn Đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn, thời gian điều trị tối thiểu là 6 tháng Đối với lao động theo hợp đồng mùa vụ hoặc công việc nhất định, thời gian điều trị phải vượt quá nửa thời hạn hợp đồng.

Trong vòng 12 tháng, khả năng lao động của người lao động chưa hồi phục hoàn toàn Nếu người sử dụng lao động thay đổi phương thức chi trả lương hoặc áp dụng hình thức trả một lần sau khi điều trị ổn định, sẽ gây ra nhiều khó khăn cho họ, khi mà họ chỉ trông chờ vào khoản lương hàng tháng.

Cần có hướng dẫn cụ thể về việc không trả lương, chậm trả hoặc trả không đầy đủ cho người lao động bị tai nạn lao động Tác giả đề xuất quy định tương tự như Điều 96 Bộ Luật Lao Động 2012, nhấn mạnh rằng trong trường hợp chậm trả, trả không đầy đủ hoặc chưa trả lương theo quy định, cần có biện pháp xử lý rõ ràng để bảo vệ quyền lợi của người lao động.

TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG VIỆC BỒI THƯỜNG/TRỢ CẤP VÀ CÁC TRÁCH NHIỆM KHÁC TRONG TRƯỜNG HỢP TAI NẠN LAO ĐỘNG

Trách nhiệm bồi thường/trợ cấp tai nạn lao động

2.1.1 Xác định điều kiện bồi thường hoặc trợ cấp

Khi người lao động (NLĐ) bị tai nạn lao động (TNLĐ), họ không chỉ được thanh toán chi phí điều trị và tiền lương trong thời gian nghỉ dưỡng, mà còn được nhận bồi thường hoặc trợ cấp từ nhà sử dụng lao động (NSDLĐ) Mức bồi thường hay trợ cấp phụ thuộc vào lỗi dẫn đến TNLĐ; nếu NLĐ không hoàn toàn có lỗi, họ sẽ được bồi thường thiệt hại, còn nếu lỗi do NLĐ, mức trợ cấp chỉ bằng 40% so với bồi thường Do đó, việc xác định lỗi trong TNLĐ là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ.

Theo Khoản 3 và Khoản 4 Điều 145 BLLĐ 2012, Khoản 4 và Khoản 5 Điều

38 và Điều 39 Luật ATVSLĐ 2015, để được NSDLĐ bồi thường hoặc trợ cấp, NLĐ bị TNLĐ phải thỏa mãn các điều kiện sau:

Trường hợp bồi thường tai nạn lao động (TNLĐ) xảy ra khi có những điều kiện sau: (i) TNLĐ xảy ra mà không phải do lỗi hoặc không hoàn toàn do lỗi của người lao động (NLĐ); và (ii) NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.

(2) Trường hợp trợ cấp TNLĐ: (i) TNLĐ xảy ra mà do lỗi của chính

Người lao động (NLĐ) sẽ được bồi thường trong trường hợp bị tai nạn khi di chuyển từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc ngược lại, nếu tai nạn xảy ra theo tuyến đường và thời gian hợp lý, và nguyên nhân do lỗi của người khác hoặc không xác định được Điều kiện để được bồi thường là NLĐ phải bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.

Quy định nêu rõ rằng yếu tố lỗi là căn cứ để phân biệt trách nhiệm của NSDLĐ trong các trường hợp bồi thường và trợ cấp cho NLĐ Điều này hợp lý, vì nó thể hiện tinh thần bảo vệ và nâng cao vị thế bình đẳng của NLĐ trong mối quan hệ với NSDLĐ.

Theo Khoản 3 Điều 145 BLLĐ 2012, người lao động (NLĐ) bị tai nạn lao động (TNLĐ) hoặc bệnh nghề nghiệp không do lỗi của mình và có khả năng lao động suy giảm từ 5% trở lên sẽ được người sử dụng lao động (NSDLĐ) bồi thường Điều này nhấn mạnh trách nhiệm của NSDLĐ trong việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ khi gặp rủi ro trong quá trình làm việc.

Luật ATVSLĐ 2015 quy định về việc xác định trách nhiệm trong tai nạn lao động (TNLĐ) nhưng chưa đưa ra hướng dẫn cụ thể về khái niệm “không do lỗi” và “không hoàn toàn do lỗi” của người bị TNLĐ Tình trạng này gây khó khăn trong việc áp dụng luật và tạo điều kiện cho người sử dụng lao động lợi dụng, xâm phạm quyền lợi của người lao động Việc xác định lỗi trong TNLĐ cũng gặp khó khăn do đây là trạng thái tâm lý phức tạp, dẫn đến tình trạng các bên thường đổ lỗi cho nhau để tránh trách nhiệm.

Kể từ khi Luật ATVSLĐ 2015 có hiệu lực vào ngày 01/07/2016, Bộ LĐ, TB và XH chưa ban hành thêm hướng dẫn nào về trợ cấp ngoài Điều 38 và Điều 39 Tuy nhiên, có thể tham khảo Thông tư 04/2015/TT-BLĐXH về các trường hợp NSDLĐ phải bồi thường hoặc trợ cấp Mặc dù Thông tư này được ban hành trước Luật ATVSLĐ 2015, nhưng các quy định về trợ cấp cho NLĐ vẫn tương đồng với Khoản 5 Điều 38 và Khoản 2 Điều 39 của Luật.

Từ thực trạng trên, tác giả đề xuất như sau:

Cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn rõ ràng về việc xác định lỗi dẫn đến tai nạn lao động (TNLĐ), đặc biệt trong những trường hợp người lao động (NLĐ) gặp tai nạn khi làm việc vi phạm pháp luật do yêu cầu của người sử dụng lao động (NSDLĐ) hoặc khi NLĐ có hành vi vi phạm quy định an toàn lao động nhưng tai nạn xảy ra một cách khách quan Việc này rất cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ.

Thực tiễn cho thấy tai nạn lao động (TNLĐ) xảy ra ở độ tuổi trẻ thường để lại hậu quả nghiêm trọng hơn Vì vậy, việc xem xét yếu tố tuổi là cần thiết để đánh giá và phòng ngừa TNLĐ hiệu quả.

Thông tư 04/2015/TT-BLĐTBXH ban hành ngày 02/02/2015 hướng dẫn chi tiết về chế độ bồi thường, trợ cấp và chi phí y tế mà người sử dụng lao động phải thực hiện đối với người lao động bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Thông tư này quy định rõ các quyền lợi của người lao động, nhằm đảm bảo sự công bằng và hỗ trợ kịp thời cho những người gặp rủi ro trong quá trình làm việc.

Theo Điều 4 Thông tư 04/2015/TT-BLĐTBXH, các trường hợp được trợ cấp tai nạn lao động bao gồm: (i) Tai nạn xảy ra do lỗi hoàn toàn của người lao động và (ii) Tai nạn xảy ra khi người lao động di chuyển từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc ngược lại, tại địa điểm và thời gian hợp lý Để xác định mức bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động, có thể tham khảo kinh nghiệm từ Singapore, nơi mà số tiền bồi thường được tính theo công thức: Tổng số tiền bồi thường = [Thu nhập trung bình hàng tháng] x [Tỷ lệ thương tật vĩnh viễn] x [Hệ số nhân theo độ tuổi của người bị tai nạn lao động].

Hệ số nhân của độ tuổi trong bồi thường tai nạn lao động (TNLĐ) được xác định theo bảng phụ lục cuối luật, tính từ tuổi của người lao động (NLĐ) vào ngày sinh nhật sau khi xảy ra TNLĐ, với hệ số này giảm dần khi tuổi NLĐ tăng Mặc dù Việt Nam và Singapore có sự phát triển kinh tế-xã hội khác nhau, nhưng vẫn tồn tại những đặc điểm xã hội tương đồng, điều này mở ra cơ hội nghiên cứu và áp dụng mô hình bồi thường TNLĐ phù hợp với tình hình Việt Nam hiện nay, nhằm đảm bảo cuộc sống cho NLĐ, đặc biệt là những người trẻ tuổi.

Việc bổ sung một số trường hợp xác định là tai nạn lao động (TNLĐ) là cần thiết, vì quy định hiện hành chưa bao quát hết các tình huống thực tế Pháp luật Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu và sửa đổi để hướng dẫn cụ thể hơn về các trường hợp TNLĐ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện trách nhiệm bồi thường và trợ cấp Một số trường hợp cụ thể cần xem xét bổ sung bao gồm

Trong trường hợp người lao động (NLĐ) bị tai nạn lao động (TNLĐ) do sự tái phát bệnh lý sẵn có, việc xác định có được coi là TNLĐ để bồi thường hoặc trợ cấp từ người sử dụng lao động (NLSDLĐ) hay không vẫn chưa được quy định rõ ràng trong pháp luật Việt Nam Tuy nhiên, một số quốc gia, như các nước thuộc Liên minh Châu Âu, quy định rằng TNLĐ do bệnh lý cá nhân chỉ được công nhận nếu có mối liên quan đến công việc Ví dụ, một thợ nề bị mờ mắt do bệnh lý và rơi từ giàn giáo có thể vẫn được coi là TNLĐ, vì tai nạn xảy ra trong quá trình làm việc Tương tự, pháp luật Singapore cũng quy định rằng tai nạn xảy ra trong quá trình thực hiện công việc do nguyên nhân bệnh lý sẽ được xem xét trong việc bồi thường.

14 Work Injury Compensation Act (WICA) of The statutes of the Republic of Singapore (Chapter 354) informal Consolidation- version in force from 01/01/2016

The European Commission's 2013 edition of the European Statistics on Accidents at Work (ESAW) outlines a methodology for assessing workplace incidents It defines occupational diseases as work-related if they are triggered by the employee's job.

Trách nhiệm sắp xếp công việc cho người lao động bị tai nạn lao động

Điều 152 BLLĐ 2012 và Điều 38 Luật ATVSLĐ 2015 quy định rõ ràng rằng NSDLĐ có trách nhiệm sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe của người lao động bị tai nạn lao động (TNLĐ) sau khi họ đã điều trị ổn định Quy định này mang ý nghĩa quan trọng đối với người bị TNLĐ, nhưng thực tế lại gây khó khăn cho cả NSDLĐ và NLĐ Nghiên cứu pháp luật quốc tế cho thấy, như ở Thái Lan, bên cạnh chi phí y tế và tiền bồi thường, còn có khoản chi cho phục hồi chức năng nghề nghiệp của NLĐ theo quy định của chính phủ Tại Việt Nam, hỗ trợ đào tạo nghề cho người bị TNLĐ được quy định trong mục 3 chương III Luật ATVSLĐ.

Nghị định số 37/2016/NĐ-CP ngày 15/05/2016 quy định rõ ràng về chế độ hỗ trợ cho người lao động bị tai nạn lao động (TNLĐ), nhưng chỉ áp dụng cho những người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc Trong tổng số 18 triệu lao động có quan hệ lao động, chỉ khoảng 12 triệu người tham gia BHXH, trong khi có đến 35 triệu lao động trong khu vực không có quan hệ lao động chưa tham gia BHXH Điều này dẫn đến việc nhiều người lao động không nhận được hỗ trợ nào để học nghề mới sau khi bị TNLĐ, gây ra nguy cơ họ trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tế, quy định đã thể hiện một số mặt hạn chế sau:

TNLĐ, đặc biệt là những vụ nghiêm trọng, đã làm giảm nguồn nhân công, ảnh hưởng đến quy trình sản xuất liên tục và mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp NSDLĐ buộc phải tuyển dụng nhân sự mới để thay thế những vị trí thiếu hụt, đồng thời tìm kiếm công việc phù hợp với sức khỏe của NLĐ sau TNLĐ Tuy nhiên, doanh nghiệp không luôn có sẵn những công việc như vậy, dẫn đến việc NSDLĐ không thực hiện đúng trách nhiệm bố trí việc làm cho NLĐ sau khi điều trị.

Theo bài viết của Nhật Hồ- Lê Phương, có tới 40 triệu lao động tại Việt Nam chưa được tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, điều này đặt ra nhiều vấn đề đáng lo ngại cho sự an toàn và quyền lợi của người lao động Việc thiếu bảo hiểm không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống của họ mà còn tạo gánh nặng cho xã hội Cần có các biện pháp khẩn cấp để tăng cường bảo vệ quyền lợi lao động và đảm bảo an toàn lao động cho mọi người.

Đối với người lao động (NLĐ) có kinh nghiệm, việc được đào tạo cho công việc mới có thể khiến họ mất nhiều thời gian để thích nghi Nếu NLĐ thích nghi tốt và hoàn thành nhiệm vụ, mọi chuyện sẽ thuận lợi Tuy nhiên, nếu không thể thích nghi, họ có nguy cơ cao bị nhà sử dụng lao động (NSDLĐ) đơn phương chấm dứt hợp đồng theo đúng quy định pháp luật do không hoàn thành công việc.

Mặc dù Luật ATVSLĐ 2015 cho phép NLĐ làm việc không theo hợp đồng lao động tham gia bảo hiểm TNLĐ tự nguyện, nhưng hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về mức đóng và chế độ cho nhóm đối tượng này Thực trạng trốn đóng BHXH bắt buộc khiến quỹ bảo hiểm TNLĐ tự nguyện khó hiệu quả Do đó, cần bổ sung quy định bồi thường chi phí đào tạo nghề cho NLĐ bị TNLĐ không thuộc BHXH bắt buộc, nhằm giúp họ thích nghi với công việc mới Chi phí này sẽ do NSDLĐ chi trả, hỗ trợ NLĐ cải thiện chất lượng cuộc sống và giúp NSDLĐ sắp xếp công việc phù hợp cho NLĐ sau khi điều trị.

Khắc phục những bất cập trên, thiết nghĩ cần bổ sung thêm một số quy định sau:

Theo Khoản 8 Điều 38 Luật ATVSLĐ 2015, nếu người lao động (NLĐ) đã hoàn tất điều trị tai nạn lao động (TNLĐ) nhưng không được người sử dụng lao động (NSDLĐ) sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe hiện tại, thì NSDLĐ có trách nhiệm giới thiệu NLĐ đến các đơn vị đào tạo nghề Điều này nhằm tạo cơ hội cho NLĐ học nghề mới phù hợp với tình trạng sức khỏe của họ.

Bổ sung khoản bồi thường chi phí đào tạo thích ứng nghề nghiệp 32 cho người lao động không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là một chính sách quan trọng nhằm hỗ trợ NLĐ trong việc nâng cao kỹ năng và thích ứng với thị trường lao động.

Bài luận của Phạm Thị Diệp Hạnh (2008) tại Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đề cập đến thực trạng áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động Tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm cải thiện hiệu quả của các biện pháp này.

Theo Điều 145 BLLĐ 2012, người lao động (NLĐ) bị tai nạn lao động sau khi điều trị và phục hồi chức năng, nếu tiếp tục làm việc, sẽ được người sử dụng lao động (NSDLĐ) sắp xếp công việc phù hợp theo kết luận của hội đồng giám định y khoa Trong trường hợp NLĐ không tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc, NSDLĐ có trách nhiệm sắp xếp công việc mới và phải chi trả thêm chi phí đào tạo để NLĐ chuyển đổi nghề nghiệp, tương đương với mức hỗ trợ dành cho NLĐ tham gia BHXH bắt buộc.

Theo Điều 39 Luật ATVSLĐ 2015, nếu người lao động bị tai nạn lao động mà không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, người sử dụng lao động có trách nhiệm sắp xếp công việc mới cho họ Trong trường hợp này, nếu cần thiết phải đào tạo để chuyển đổi nghề nghiệp, người sử dụng lao động phải chi trả thêm chi phí đào tạo phù hợp với chế độ hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp dành cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại Điều 55 của luật này.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:38

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w