1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu hàng hóa của các chủ thể nƣớc ngoài tại việt nam

63 19 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 63
Dung lượng 1,39 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI KHI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VỀ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA CỦA CHỦ THỂ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT (10)
    • 1.1 Khái quát về nhãn hiệu hàng hóa (10)
      • 1.1.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của nhãn hiệu hàng hóa (10)
      • 1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và chức năng của nhãn hiệu hàng hóa (12)
    • 1.2 Khái luận về vấn đề BTTH khi xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể nước ngoài tại Việt Nam (15)
      • 1.2.1 Khái niệm về trách nhiệm BTTH khi xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa (15)
      • 1.2.2 Tính tất yếu khách quan của việc áp dụng chế tài BTTH khi xâm hại tới QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa (17)
      • 1.2.3 Trách nhiệm BTTH khi xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể nước ngoài tại Việt Nam (21)
      • 1.2.4 Các điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH (25)
      • 1.2.5 Nguyên tắc và căn cứ xác định thiệt hại theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (28)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TRÁCH NHIỆM BTTH KHI XÂM PHẠM QSHCN VỀ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA CỦA CHỦ THỂ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN (33)
    • 2.1 Thực trạng xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam (33)
      • 2.1.1 Số vụ việc xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa ngày càng nhiều và phức tạp (33)
      • 2.1.2 Một số vụ việc cụ thể về việc xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể nước ngoài tại Việt Nam (37)
      • 2.1.3 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể nước ngoài bị xâm phạm tại Việt Nam (44)
    • 2.2 Những khó khăn trong quá trình giải quyết vấn đề liên quan đến trách nhiệm BTTH khi xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể nước ngoài tại Việt Nam (46)
    • 2.3 Giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng xâm phạm và nâng cao hiệu quả bảo hộ QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể nước ngoài tại Việt Nam (49)
      • 2.3.1 Những vấn đề cần giải quyết nhằm khắc phục tình trạng xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể nước ngoài tại Việt Nam (49)
      • 2.3.2 Giải pháp hoàn thiện (51)
  • KẾT LUẬN (32)

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI KHI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VỀ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA CỦA CHỦ THỂ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT

Khái quát về nhãn hiệu hàng hóa

1.1.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của nhãn hiệu hàng hóa

1.1.1.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của nhãn hiệu hàng hóa trên thế giới

Nhãn hiệu hàng hóa đã tồn tại từ thời cổ đại, khi con người bắt đầu sản xuất của cải để đáp ứng nhu cầu của bản thân Lịch sử cho thấy rằng từ giữa thiên niên kỷ thứ III trước công nguyên, tại Lưỡng Hà, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ nhờ vào việc trao đổi và mua bán hàng hóa Các nhà sản xuất và thương nhân đã sử dụng dấu hiệu và màu sắc để phân biệt sản phẩm của mình với của người khác, tạo nên hình thức sơ khai của nhãn hiệu hàng hóa.

Cách đây hàng ngàn năm, các thợ thủ công Ấn Độ đã khắc chữ ký trên tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi tới Iran, và những người xây dựng Vạn lý trường thành ở Trung Quốc cũng để lại dấu hiệu trên gạch để đảm bảo chất lượng Những dấu hiệu này giúp các hoàng đế thời đó yên tâm về mặt chất lượng và quy trách nhiệm khi cần thiết Đặc biệt vào thời Trung Cổ, khi buôn bán và trao đổi hàng hóa trở nên phổ biến, việc ghi dấu trên sản phẩm càng trở nên quan trọng.

1 ĐH Luật HN: Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, NXB Công an nhân dân, HN, 1997, tr 64

6 gia, nhà sản xuất sử dụng dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, sản phẩm của mình với người khác càng trở nên phổ biến 2

Khi nền kinh tế phát triển, vai trò của nhãn hiệu hàng hóa ngày càng trở nên quan trọng Trong nền kinh tế thị trường, sự đa dạng của hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu cao của người tiêu dùng ngày càng tăng Mỗi sản phẩm có nhiều công ty sản xuất với các nhãn hiệu khác nhau, tạo ra sự cạnh tranh Người tiêu dùng có quyền tự do lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình Tuy nhiên, họ thường gặp khó khăn trong việc phân biệt sản phẩm dựa trên chất lượng, giá cả hay các đặc tính khác Do đó, nhãn hiệu hàng hóa trở thành yếu tố quyết định giúp người tiêu dùng đưa ra lựa chọn đúng đắn.

Với vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quản lý sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu hàng hóa đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia Sau khi "Công ước thành lập tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới" được ký kết tại Stockholm vào năm 1967 và chính thức có hiệu lực từ năm 1970, các quốc gia đã chú trọng hơn đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến sở hữu trí tuệ.

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) được thành lập với nhiệm vụ quản lý các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ WIPO thực hiện và thi hành các Công ước về sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền sở hữu công nghiệp và quyền liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, như Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (1883), Thỏa ước Madrid về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa (1891), và Hiệp ước luật nhãn hiệu hàng hóa (1994).

1.1.1.2 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam

Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ (QSHTT), đặc biệt là quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN) liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa Để bảo vệ các đối tượng của QSHTT, Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế và xây dựng hệ thống pháp luật trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế và thu hẹp khoảng cách với các quốc gia trên thế giới.

Sau Cách mạng tháng 8, Việt Nam đã tham gia Công ước Paris và Thỏa ước Madrid vào ngày 8/3/1949, đánh dấu cột mốc đầu tiên của chế độ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN) và nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam, mặc dù phải trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất (1946-1954) Năm 1957, tại miền Bắc, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tiếp tục được củng cố và phát triển.

2 Cẩm nang Sở hữu trí tuệ của tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới “WIPO” Bản dịch của Cục Sở hữu trí tuệ năm 2005., tr 65

Năm nay, chính quyền Sài Gòn đã ban hành Luật thương hiệu, quy định rằng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa sẽ được thực hiện tại Tòa án, còn được gọi là “nhãn trình Tòa” Hồ sơ đăng ký sẽ được Tòa án xem xét về hình thức, sau đó tiến hành ghi đăng bạ và công bố chính thức Tất cả các tranh chấp và vi phạm liên quan sẽ được Tòa án giải quyết.

Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam gia nhập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) vào ngày 2 tháng 7 năm 1976 Ngày 14/12/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành nghị định số 197/HĐBT về “Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa”, thiết lập chế độ pháp lý đầu tiên về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam, mặc dù giá trị pháp lý của Điều lệ này còn hạn chế Vào ngày 11/2/1989, Hội đồng Nhà nước đã ban hành pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao giá trị pháp lý cho các quy định liên quan Trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra các chính sách mới cho phát triển kinh tế, được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, yêu cầu điều chỉnh các quy định không còn phù hợp của pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (QSHTT) và quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN) về nhãn hiệu hàng hóa là một bước tiến quan trọng trong bối cảnh chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Sự gia tăng các đối tượng thuộc QSHTT không chỉ phản ánh sự phát triển kinh tế mà còn góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong xã hội.

1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và chức năng của nhãn hiệu hàng hóa

1.1.2.1 Khái niệm và đặc điểm

Nhãn hiệu đã tồn tại từ lâu trong xã hội, nhưng khái niệm chính thức về nó chưa được xác định rõ ràng Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về nhãn hiệu hàng hóa, mà chỉ quy định rằng việc đăng ký nhãn hiệu có thể bị từ chối nếu có sự xâm phạm.

3 Trần Thi Nguyên Thao: Thực trạng và biện pháp tăng cường hiệu lực bảo hộ QSHTT về nhãn hiệu hàng hóa & KDCN tại Việt Nam,Đại học Luật TPHCM, 1998

Phạm Đình Chướng nhấn mạnh vai trò quan trọng của sở hữu trí tuệ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế tại Việt Nam Tại hội thảo về vai trò của sở hữu công nghiệp diễn ra ở TPHCM vào ngày 19/11/1999, ông đã trình bày các khía cạnh liên quan đến sự ảnh hưởng của sở hữu trí tuệ đối với sự đổi mới và cạnh tranh trong nền kinh tế Việc bảo vệ và phát triển sở hữu trí tuệ không chỉ giúp các doanh nghiệp gia tăng giá trị sản phẩm mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia.

Theo Điều 6 quinpuies điểm B của công ước, có 8 quyền đã đăng ký của người thứ ba liên quan đến nhãn hiệu, bao gồm nhãn hiệu không có khả năng phân biệt, nhãn hiệu trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng, và nhãn hiệu có khả năng lừa dối công chúng Từ những quy định này, ta có thể hiểu rằng nhãn hiệu là tất cả các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp cạnh tranh.

Theo Hiệp định TRIPs ký ngày 15/4/1994 và có hiệu lực từ 1/1/1995, bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp đều có thể được đăng ký làm nhãn hiệu hàng hóa Các dấu hiệu này bao gồm từ ngữ, chữ cái, chữ số, hình họa và tổ hợp màu sắc Nếu các dấu hiệu không tự phân biệt được, các nước thành viên có thể yêu cầu tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng Điều kiện đăng ký cũng yêu cầu dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được.

Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), nhãn hiệu hàng hóa được định nghĩa là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt sản phẩm của một doanh nghiệp với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh.

Không hề đi lệch khuynh hướng chung, pháp luật Việt Nam cũng quy định

Khái luận về vấn đề BTTH khi xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể nước ngoài tại Việt Nam

1.2.1 Khái niệm về trách nhiệm BTTH khi xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 tại Điều 307 và Chương XXI về trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng Tuy nhiên, cả hai phần này không cung cấp khái niệm rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mà chỉ đề cập đến các căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm và thời hạn hưởng bồi thường.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) bao gồm trách nhiệm BTTH trong hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng phát sinh khi có sự không chấp hành hoặc chấp hành không đúng nghĩa vụ theo hợp đồng, với điều kiện giữa hai bên có quan hệ hợp đồng có hiệu lực và thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra Ngược lại, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng không liên quan đến vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, có thể xảy ra khi giữa các bên không tồn tại hợp đồng hoặc hành vi gây thiệt hại không thuộc nghĩa vụ đã ký kết Đặc biệt, trách nhiệm BTTH khi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu hàng hóa yêu cầu bồi thường cho chủ sở hữu nếu có hành vi xâm phạm gây thiệt hại.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) khi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN) về nhãn hiệu hàng hóa được xác định là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng Trách nhiệm này phát sinh giữa các chủ thể không có mối quan hệ hợp đồng hoặc trong trường hợp có hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không nằm trong nghĩa vụ hợp đồng đã ký kết.

11 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tr435

BTTH khi xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa, giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không tồn tại quan hệ hợp đồng

Nguyên tắc trong bồi thường thiệt hại là những tư tưởng chỉ đạo cho quá trình thực hiện công việc Để xác định mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, pháp luật dân sự và pháp luật sở hữu công nghiệp đã công nhận một số nguyên tắc cơ bản, trong đó hai nguyên tắc quan trọng nhất là nguyên tắc thỏa thuận bồi thường thiệt hại và nguyên tắc bồi thường toàn bộ Nguyên tắc thỏa thuận bồi thường thiệt hại đóng vai trò quan trọng trong việc xác định trách nhiệm và mức bồi thường giữa các bên liên quan.

Nguyên tắc ghi nhận tại khoản 1 Điều 605 BLDS Việt Nam năm 2005 là một trong những nguyên tắc cơ bản của quan hệ dân sự, thương mại Khi thiệt hại xảy ra, các bên có quyền thỏa thuận để khắc phục thiệt hại, thể hiện mong muốn và ý chí của họ Sự thỏa thuận này không chỉ là phương thức hiệu quả để giải quyết vấn đề mà còn phù hợp với quyền lợi của các bên Do đó, pháp luật, Tòa án và Trọng tài cần tôn trọng và ghi nhận sự thỏa thuận này.

Việc thỏa thuận bao gồm:

Các bên có quyền tự do thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại (BTTH) mà không cần phụ thuộc vào căn cứ pháp lý hay thiệt hại thực tế Mức bồi thường có thể cao hơn, thấp hơn hoặc bằng với thiệt hại thực tế phát sinh từ hành vi vi phạm.

(ii) Thỏa thuận về hình thức bồi thường: bằng tiền, bằng hiện vật hay thông qua thực hiện một công việc nhất định

(iii) Thỏa thuận về phương thức bồi thường: một lần hay nhiều lần

Theo nguyên tắc này, các bên có quyền thỏa thuận về mọi vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) trong suốt quá trình tranh chấp, bao gồm cả giai đoạn đã khởi kiện và đang được Tòa án giải quyết.

Nguyên tắc này thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối quyền tự do ý chí và sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ dân sự, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định bản chất của mối quan hệ này.

Theo TS Đinh Thị Mai Phương (2009), việc bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được quy định rõ ràng trong pháp luật Việt Nam Nghiên cứu này nêu bật tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các biện pháp bồi thường thích hợp nhằm khôi phục quyền lợi cho các chủ sở hữu.

Mười hai phương thức nhanh chóng và hiệu quả để giải quyết tranh chấp giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên liên quan, đặc biệt trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu hàng hóa Nguyên tắc thỏa thuận bồi thường toàn bộ càng trở nên quan trọng, giúp doanh nghiệp bảo vệ uy tín trước người tiêu dùng Thời gian tranh chấp kéo dài và mức độ gay gắt của nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của doanh nghiệp Nhiều sản phẩm được ưa chuộng nhờ vào uy tín này; khi uy tín giảm sút, niềm tin của người tiêu dùng cũng suy giảm, dẫn đến việc sản phẩm không tiêu thụ được, gây tổn thất nặng nề cho doanh nghiệp.

Khi các bên không đạt được thỏa thuận về bồi thường, nguyên tắc chung trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là "thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ" Bồi thường toàn bộ có nghĩa là mức bồi thường phải tương đương với thiệt hại thực tế đã xảy ra, bao gồm cả những thiệt hại chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm khắc phục hậu quả tài sản do vi phạm pháp luật gây ra Bồi thường toàn bộ là cần thiết để khôi phục tình trạng ban đầu của tài sản và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu Đặc biệt, đối với tài sản trí tuệ và nhãn hiệu hàng hóa, thiệt hại có thể rất lớn, vì vậy việc bồi thường toàn bộ không chỉ giúp chủ sở hữu bù đắp tổn thất mà còn khuyến khích họ đầu tư và sáng tạo thêm nhiều sản phẩm trí tuệ.

1.2.2 Tính tất yếu khách quan của việc áp dụng chế tài BTTH khi xâm hại tới QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa

1.2.2.1 Cơ sở lý luận của tính tất yếu khách quan của việc áp dụng chế tài

BTTH khi xâm phạm tới QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa

Các Mác và Ăgghen nhấn mạnh rằng sở hữu không chỉ là một khái niệm đơn giản mà còn là một mối quan hệ phức tạp, phản ánh sự tổng hòa của nhiều yếu tố.

14 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng , tr 466

Trong các luận giải của mình, Các Mác và Angghen nhấn mạnh rằng sở hữu không chỉ là một hình thức quan hệ xã hội, mà còn là một yếu tố quan trọng trong đời sống xã hội Mỗi cá nhân cần sở hữu tài sản nhất định, như tiền bạc, công cụ sản xuất hoặc tài sản vật chất khác, để có thể tồn tại Do đó, việc trao đổi tài sản giữa con người, thông qua các hình thức như vay mượn, tặng cho, cho thuê hay chuyển nhượng, luôn được chú trọng Chế định về sở hữu đóng vai trò then chốt trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.

Quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu hàng hóa, được coi là một loại tài sản đặc biệt với thuộc tính vô hình Mặc dù nhãn hiệu hàng hóa không có hình thức cụ thể, nhưng chủ sở hữu vẫn nắm giữ đầy đủ ba quyền cơ bản: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa, và mọi cá nhân, tổ chức đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền này Hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu nhãn hiệu gây thiệt hại cho chủ sở hữu sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự, bao gồm việc bồi thường thiệt hại để khôi phục tổn thất về vật chất và tinh thần Đây là cơ sở lý luận cho trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam.

1.2.2.2 Cơ sở thực tiễn của tính tất yếu khách quan của việc áp dụng chế tài BTTH khi xâm phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa

THỰC TRẠNG VỀ TRÁCH NHIỆM BTTH KHI XÂM PHẠM QSHCN VỀ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA CỦA CHỦ THỂ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
16. Phan Thị Liễu (2006), Giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự, Luận văn Thạc sĩ, Trường DDại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự
Tác giả: Phan Thị Liễu
Nhà XB: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2006
17. Nguyễn Xuân Quang (2001), Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Dân sự Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Xuân Quang
Nhà XB: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2001
18. Phan Minh Nhựt (2000), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam
Tác giả: Phan Minh Nhựt
Nhà XB: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2000
19. Th.S Phạm Tuấn Anh, Th.S Vũ Trọng Hách, Th.S Phùng Văn Hiền (2011), Quản lý Nhà nước về Sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Khoa học & kĩ thuật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý Nhà nước về Sở hữu trí tuệ
Tác giả: Th.S Phạm Tuấn Anh, Th.S Vũ Trọng Hách, Th.S Phùng Văn Hiền
Nhà XB: Nhà xuất bản Khoa học & kĩ thuật
Năm: 2011
20. Vụ công tác lập pháp, Những nội dung cơ bản của Luật Sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Tƣ pháp, 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những nội dung cơ bản của Luật Sở hữu trí tuệ
Tác giả: Vụ công tác lập pháp
Nhà XB: Nhà xuất bản Tƣ pháp
Năm: 2006
21. TS Đinh Văn Thanh. LG Đinh thị Hằng, Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật Dân sự, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2004.IV. Website Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật Dân sự
Tác giả: TS Đinh Văn Thanh, LG Đinh thị Hằng
Nhà XB: Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm: 2004

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w