Mục tiêu và đối tƣợng nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ lý luận và bản chất của biện pháp "trả đũa thương mại" trong WTO, thông qua việc phân tích các quy định, thủ tục và điều kiện áp dụng trong cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các thành viên Nghiên cứu cũng tìm hiểu các vụ tranh chấp cụ thể liên quan đến biện pháp này, bao gồm lập luận của các bên và cách thức phân tích của Trọng tài viên trong việc ra quyết định Đối tượng nghiên cứu tập trung vào "biện pháp trả đũa thương mại" theo quy định tại Điều 22 DSU, cũng như các văn bản liên quan trên website của WTO, bao gồm quyết định của Trọng tài viên và lập luận của các bên tranh chấp.
Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đã có nhiều nghiên cứu và tài liệu báo cáo hội thảo từ các tác giả trong nước về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, đóng góp quan trọng cho việc tìm hiểu về tổ chức này Một trong những tác phẩm tiêu biểu là sách tham khảo "Luật Tổ chức Thương mại thế giới, Tóm tắt và bình luận án" của PGS.TS Mai Hồng Quỳ và TS Lê Thị Ánh Nguyệt, xuất bản năm 2012 bởi NXB Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam.
Hà – Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO – NXB Lao động
Năm 2006, xã hội chứng kiến sự phát triển của Luật thương mại quốc tế, được trình bày qua tác phẩm của Mai Hồng Quỳ và Trần Việt Dũng, xuất bản bởi NXB Đại học Quốc gia TP.HCM vào năm 2005 Bên cạnh đó, Hoàng Ngọc Thiết cũng đã nghiên cứu về các phương pháp giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, góp phần quan trọng vào việc hiểu biết và áp dụng luật thương mại quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Bài viết đề cập đến các tài liệu quan trọng liên quan đến Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bao gồm "3 thành viên của WTO" do NXB Chính trị Quốc gia phát hành năm 2004, và "WTO những nguyên tắc cơ bản" từ NXB Khoa học xã hội năm 2003 Ngoài ra, sách "Hệ thống thương mại thế giới – Luật và chính sách về các quan hệ kinh tế quốc tế" của John H Jackson, được dịch bởi Phạm Viêm Phương và Huỳnh Văn Thanh, cũng được xuất bản bởi Nhà xuất bản Thanh niên năm 2001 Bên cạnh đó, tài liệu "Tổ chức thương mại thế giới (WTO)" của Bộ Ngoại giao, NXB Chính trị Quốc gia (2000) và bài viết "Tăng cường thủ tục của GATT để giải quyết tranh chấp thương mại" của Ernst-Ulrich Petersmann trên Tạp chí Kinh tế thế giới cũng góp phần làm rõ hơn về vai trò và chức năng của WTO trong hệ thống thương mại toàn cầu.
Ngoài ra, nhiều luận văn và luận án đã nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Điển hình là luận văn thạc sĩ của Mai Thế Đức Anh với đề tài "Giải quyết tranh chấp trong Thương mại quốc tế với việc thực hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ và gia nhập WTO" năm 2004, cùng với khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của Trần Thị Diễm Huyền mang tên "Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO – Cơ chế nhằm đưa ra giải pháp tích cực" năm 2007.
Mặc dù các công trình hiện có chỉ đề cập sơ lược đến biện pháp trả đũa thương mại như một phương thức thực thi quyết định giải quyết tranh chấp, vẫn chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào tìm hiểu về các quy định của biện pháp này theo Điều 22 DSU, đặc biệt là từ góc độ nghiên cứu điển hình (case-study).
Phương pháp nghiên cứu
Trong Khóa luận này, tác giả không sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc biệt mà thay vào đó áp dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến Cụ thể, tác giả vận dụng lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, phù hợp với đường lối và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực chính sách đối ngoại.
Nội dung bài viết đề cập đến quan điểm hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế, nhấn mạnh quá trình nghiên cứu được thực hiện thông qua các phương pháp hệ thống hóa, phân tích, so sánh, tổng hợp và qui nạp Những phương pháp này giúp làm rõ các khía cạnh quan trọng của sự hợp tác kinh tế, đồng thời cung cấp cái nhìn sâu sắc về tầm quan trọng của hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Ý nghĩa khoa học và phạm vi ứng dụng của đề tài
Tác giả không coi mình là người tiên phong trong nghiên cứu về đề tài này, nhưng với đam mê nghiên cứu khoa học và sự quan tâm đặc biệt, hy vọng Khóa luận sẽ mang lại giá trị tham khảo cho sinh viên chuyên ngành pháp lý Nghiên cứu trong Khóa luận sẽ giúp những ai quan tâm đến biện pháp "trả đũa thương mại" theo quy định của WTO hiểu rõ hơn về lý luận và thực tiễn áp dụng một cách hệ thống.
Việc áp dụng các biện pháp "trả đũa thương mại" trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại WTO còn mới mẻ đối với Việt Nam Mặc dù chưa có tính cấp thiết trong các vụ tranh chấp mà Việt Nam tham gia, nhưng không thể loại trừ khả năng trong tương lai, Việt Nam sẽ cần áp dụng những biện pháp này Do đó, nghiên cứu này không chỉ có giá trị khoa học mà còn mang ý nghĩa thực tiễn quan trọng cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.
Do tài liệu tham khảo chủ yếu bằng tiếng Anh, nên không thể tránh khỏi những thiếu sót về văn phong và từ ngữ Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ quý Thầy Cô và các bạn.
Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Khóa luận được chia làm hai (02) chương:
Chương 1: Khái quát về trả đũa thương mại trong WTO
5 Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trả đũa thương mại trong vụ kiện Chuối (DS27) và Thịt bò (DS48)
KHÁI QUÁT VỀ TRẢ ĐŨA THƯƠNG MẠI TRONG WTO
Khái quát chung về trả đũa thương mại
1.1 Sơ lược về ―trả đũa thương mại‖ 2
"Trả đũa" là hành động áp dụng biện pháp nhằm đáp trả hoặc đối lại những gì mà bên kia đã gây ra, thường mang tính tiêu cực Hành động này thể hiện sự phản kháng và mong muốn mang lại những hậu quả tương tự cho bên kia.
Tác giả không sử dụng thuật ngữ "trả đũa thương mại" do chưa trình bày đầy đủ các định nghĩa từ các học giả trong và ngoài nước Thay vào đó, tác giả chỉ khái quát cách hiểu thông thường của cụm từ này, trong khi thuật ngữ chính thức trong WTO là "tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác" Luận văn cũng sử dụng các thuật ngữ thay thế như tạm hoãn, đình chỉ, và trả đũa Tác giả quyết định không đi sâu vào phân tích ngôn ngữ Tiếng Việt, mà chủ yếu tập trung vào các quy định nguyên văn của WTO và DSU.
Trả đũa thường xảy ra khi một bên phải chịu tổn thất từ bên kia, xuất phát từ sự không hài lòng và thiếu thống nhất trong việc tìm kiếm giải pháp hòa giải Hành động này nhằm bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại bằng cách gây ra thiệt hại cho bên gây ra tổn thất Mức độ trả đũa có thể dao động từ thấp đến cao, tùy thuộc vào ý chí của bên muốn trả đũa Tuy nhiên, tác giả cho rằng việc trả đũa ở mức độ cân bằng là hợp lý hơn, vì nếu thiệt hại gây ra lớn hơn, có thể dẫn đến phản ứng ngược và làm phức tạp thêm mâu thuẫn, khiến cho việc giải quyết trở nên khó khăn hơn.
Theo Ủy ban của Liên Hiệp Quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), "thương mại" được hiểu rộng rãi là tất cả các vấn đề phát sinh từ quan hệ thương mại, bao gồm cả giao dịch xuyên biên giới, không phụ thuộc vào việc có hợp đồng hay không Thương mại chủ yếu liên quan đến giao thương, trao đổi và buôn bán giữa các bên Trả đũa thương mại là một biện pháp mà một bên áp dụng để đáp trả lại thiệt hại do bên kia gây ra Trong bối cảnh thương mại quốc tế, trả đũa thương mại có thể được coi là hành động tạm hoãn hoặc đình chỉ các nhượng bộ thương mại đã được thỏa thuận trước đó giữa các bên.
1.2 Trả đũa thương mại theo pháp luật của Hoa Kỳ
Tác giả muốn nghiên cứu và phân tích các quy định về biện pháp trả đũa thương mại của một số Thành viên WTO Trong khuôn khổ Khóa luận này, tác giả sẽ giới thiệu sơ lược về quy định tại Điều 301 của Đạo Luật Thương mại Hoa Kỳ.
8 năm 1974 3 , và từ đó làm nổi bật lên những đặc trưng của các quy định về trả đũa thương mại trong Luật WTO
Giữa những năm 1970 và 1980, Hoa Kỳ đã chuyển sang áp dụng luật quốc gia để giải quyết các tranh chấp thương mại nhằm đối phó với thâm hụt thương mại và các thực tiễn thương mại không công bằng Điều 301 của Đạo Luật Thương mại năm 1974 cho phép Tổng thống áp đặt các biện pháp trừng phạt thương mại đối với các quốc gia có hành vi không công bằng, dẫn đến việc Hoa Kỳ thường đe dọa trả đũa thương mại "đơn phương" khi các chính phủ nước ngoài ngăn chặn quy trình giải quyết tranh chấp của GATT Luật pháp Hoa Kỳ coi trọng pháp luật quốc gia hơn các thỏa thuận quốc tế, điều này khiến quan điểm giải quyết tranh chấp của Hoa Kỳ không được tất cả các nước ủng hộ Do đó, việc ngăn chặn chủ nghĩa đơn phương của Hoa Kỳ trở thành một yếu tố quan trọng đối với lợi ích của Nhật Bản và EC trong các cuộc đàm phán cải cách cơ chế giải quyết tranh chấp.
Kết quả của vòng đàm phán là có một DSU vận hành gần như giống với Điều luật
301 5 của Hoa Kỳ để tạo ra sự khuyến khích các nước tuân thủ nghĩa vụ WTO của mình,
3 Nguồn : Trang Web ĐSQ Hoa Kỳ tại Hà Nội http://vietnam.usembassy.gov/
4 John H Barton, Judith L.Gooldstein, Timothy E Josling và Richard H Steinberg, tlđd, trang 158 và 159
Điều 301 của Đạo Luật Thương mại 1974 là một quy định quan trọng của Mỹ nhằm bảo vệ quyền lợi của các công ty Mỹ trong các hiệp định thương mại hiện tại Luật này không chỉ thúc đẩy việc tiếp cận thị trường nước ngoài cho hàng hóa và dịch vụ của Mỹ, mà còn ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ từ các nước khác.
Luật này quy định quy trình để Văn phòng Đại diện thương mại Mỹ điều tra hành vi của nước ngoài và thảo luận với chính phủ nước ngoài nhằm giải quyết tranh chấp, có thể thông qua thoả thuận cấp chính phủ để ngăn chặn xâm phạm hoặc bồi thường lợi ích cho Mỹ Nếu không đạt được thoả thuận, luật yêu cầu sử dụng thủ tục giải quyết tranh chấp theo hiệp định thương mại hiện hành Chẳng hạn, năm 1996, có 9 vụ vi phạm điều 301 đã được chuyển sang thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO Nếu vẫn không tìm được giải pháp thỏa đáng, Đại diện thương mại Mỹ có thể tiến hành các bước tiếp theo.
Điều 301 của Đạo luật Thương mại 1974 cho phép Đại diện thương mại Hoa Kỳ thực hiện các biện pháp trả đũa nhằm kiềm chế chủ nghĩa đơn phương của Hoa Kỳ, đặc biệt khi các nước khác đã tuân thủ quy định Nếu cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) xác định rằng hành động của chính phủ nước ngoài không phù hợp với Luật WTO, Đại diện thương mại Hoa Kỳ sẽ không tiến hành trả đũa đơn phương Tuy nhiên, nếu DSB kết luận rằng hành động đó vi phạm WTO và chính phủ đó không tuân thủ, thì Đại diện thương mại Hoa Kỳ sẽ thực hiện các biện pháp trả đũa Quy trình giải quyết tranh chấp của DSU gần giống với kế hoạch điều tra và trả đũa theo Điều 301, do ảnh hưởng và đề xuất của Hoa Kỳ trong các cuộc đàm phán cải cách.
―tương đương theo giá trị đối với cản trở hay hạn chế áp dụng đặt lên thương mại của Hoa
Kỳ‖ 8 có điểm gần với qui định của WTO
Cách thức đe dọa trả đũa thường tạo áp lực lên bên bị đe dọa, khuyến khích họ tuân thủ các quy định của WTO Theo Điều 301, Hoa Kỳ sẽ công bố danh sách các trường hợp dự kiến bị trả đũa trong Công bố Liên bang 30 ngày trước khi biện pháp trả đũa có hiệu lực Danh sách này thường khiến các nhà sản xuất có thế lực chính trị trong nước phải đối mặt với áp lực từ các ngành khác Các biện pháp trả đũa có thể bao gồm việc tạm hoãn các thỏa thuận thương mại, áp đặt thuế hoặc hạn chế nhập khẩu, cũng như thu phí hoặc áp dụng các hạn chế đối với dịch vụ.
Việc xúc tiến các vụ kiện theo điều 301 có thể trên cơ sở đơn kiện trong nước hoặc do Ðại diện Thương mại
Mỹ độc lập tiến hành đánh giá hàng rào thương mại nước ngoài hàng năm thông qua Báo cáo Đánh giá Thương mại Quốc gia về các Hàng rào Ngoại thương (NTE) Quốc hội quy định rằng Ðại diện Thương mại Mỹ phải xác định các quốc gia cần xem xét trong vòng 30 ngày sau khi công bố báo cáo Nếu một đối tác thương mại được liệt kê vào danh sách "các nước ưu tiên", Ðại diện Thương mại Mỹ sẽ quyết định có tiến hành điều tra các luật, chính sách, và thông lệ liên quan trong vòng 30 ngày Các quốc gia này có thể trở thành đối tượng của điều 301.
6 John H Barton, Judith L.Gooldstein, Timothy E Josling và Richard H Steinberg, tlđd, trang 168
Any measures implemented to address an act, policy, or practice must be designed to impact the goods or services from the foreign country in a manner that is equivalent in value to the burdens or restrictions that country imposes on U.S commerce.
8 Rajbhala – Luật thương mại quốc tế: Những vấn đề lý luận và thực tiễn – NXB Tư pháp, tr.202
Mười công nghiệp đã ủng hộ biện pháp của nước vi phạm, có khả năng huy động sức mạnh chính trị nội bộ để ảnh hưởng đến việc thực hiện các cải cách theo quy định của WTO Tuy nhiên, việc Hoa Kỳ đơn phương áp dụng biện pháp trả đũa sẽ khó đảm bảo tính khách quan và công bằng cho các quốc gia khác, có thể dẫn đến tình trạng "lạm dụng" và đi ngược lại các nguyên tắc của WTO, gây tổn hại đến thương mại của các nước bị ảnh hưởng.
1.3 Trả đũa thương mại trong WTO
Theo quy định của GATT, biện pháp "trả đũa" theo Điều XXIII.2 chỉ có thể được thực hiện khi có sự chấp thuận của Hội đồng GATT Tuy nhiên, trong suốt gần 50 năm tồn tại của GATT 1947, Hội đồng này chỉ mới một lần duy nhất cho phép biện pháp này.
Hà Lan đã từng áp dụng biện pháp trả đũa đối với Hoa Kỳ liên quan đến vụ kiện về các hạn chế nhập khẩu sản phẩm sữa vào năm 1952 Tuy nhiên, sau đó, quốc gia này đã quyết định không thực hiện các biện pháp trả đũa nữa.
Nguyên tắc áp dụng biện pháp trả đũa thương mại trong WTO
2.1 Nguyên tắc không áp dụng biện pháp trả đũa một cách đơn phương
WTO sẽ kế thừa các nguyên tắc giải quyết tranh chấp từ GATT 1947, bao gồm việc tái lập sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ, giải quyết tích cực các tranh chấp, và cấm đơn phương áp dụng biện pháp trả đũa khi chưa được sự cho phép của WTO Nguyên tắc này là rất quan trọng cho sự tồn tại của hệ thống thương mại toàn cầu Điều 23.2 DSU quy định rằng các Thành viên phải tuân thủ các quy định liên quan đến tạm hoãn thi hành các nhượng bộ và nghĩa vụ khác theo Điều 22 DSU.
Không được phép đưa ra quyết định dẫn đến vi phạm đã xảy ra, làm giảm lợi ích hoặc cản trở mục tiêu của các hiệp định liên quan, trừ khi thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy tắc và thủ tục của Thoả thuận Mọi quyết định phải dựa trên kết quả điều tra trong báo cáo của ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm được DSB thông qua, hoặc theo quyết định của trọng tài theo Thoả thuận này.
Thành viên có liên quan cần tuân thủ các thủ tục quy định tại Điều 21 để xác định khoảng thời gian hợp lý nhằm thực hiện các khuyến nghị và phán quyết.
Theo Điều 22, các thành viên phải tuân thủ thủ tục xác định mức độ tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác và xin phép của DSB trước khi thực hiện việc tạm hoãn Điều này nhằm đáp ứng việc thành viên liên quan không thực hiện các khuyến nghị và phán quyết trong thời hạn hợp lý theo các hiệp định liên quan.
Các quy định về biện pháp tạm hoãn thi hành nhượng bộ theo Điều 22 DSU và Điều 23 về "Tăng cường hệ thống đa biên" đã đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích và thúc đẩy các bên tranh chấp thực hiện phán quyết và kiến nghị của DSB.
Giáo trình "Tổ chức Thương mại thế giới (WTO – OMC)" do PGS TS Nguyễn Anh Tuấn biên soạn, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị quốc gia vào năm 2008, cung cấp những kiến thức quan trọng về hoạt động và vai trò của WTO trong thương mại quốc tế Tài liệu này, thuộc Bộ Ngoại giao – Học viện quan hệ quốc tế, là nguồn tham khảo quý giá cho những ai quan tâm đến lĩnh vực thương mại toàn cầu.
Biện pháp 24 trong thời hạn hợp lý nhằm đối phó với hành động trả đũa đơn phương trong các tranh chấp đã góp phần tăng cường tính hệ thống cho cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Nó không chỉ bảo đảm thực thi các phán quyết và kiến nghị của DSB mà còn cho phép Thành viên có quyền yêu cầu tạm hoãn thi hành các nhượng bộ để bảo vệ quyền lợi của mình Đồng thời, biện pháp này cũng ngăn chặn việc áp dụng trả đũa đơn phương dựa trên sức mạnh kinh tế và chính trị mà không tuân thủ quy định của DSB.
WTO cấm mọi biện pháp đơn phương trả đũa chưa được DSB cho phép, nhằm khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp một cách tích cực Quy định này không chỉ mang lại sự yên tâm cho các thành viên, mà còn ngăn chặn các hành động trả đũa trái phép, góp phần xây dựng trật tự ổn định cho thương mại toàn cầu và bảo vệ các nguyên tắc, mục tiêu của tổ chức WTO.
2.2 Nguyên tắc thứ tự ƣu tiên của các biện pháp trả đũa theo Điều 22.3 DSU Điều 22.3 DSU qui định rằng các nhượng bộ và nghĩa vụ nên bị đình chỉ trước tiên trong cùng (các) lĩnh vực tương tự như đã xác định trong thủ tục Ban hội thẩm (khoản 3.a) Nếu Thành viên đó cho rằng việc thực hiện điều đó là không thực tế hoặc không mang lại hiệu quả, thì đình chỉ có thể được thực hiện trong một lĩnh vực khác của cùng một hiệp định (khoản 3.b) Và nếu bên đó lại cho rằng việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác là không hiệu quả hoặc không thực tế và nếu như trong trường hợp đủ nghiêm trọng, thì bên đó có thể tìm kiếm việc đình chỉ nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác theo một hiệp định có liên quan khác (khoản 3.c) Như vậy, ba loại biện pháp trả đũa phải được áp dụng theo thứ tự như sau 37 :
Theo Điều 22.3 của DSU, khi xem xét việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác, bên nguyên đơn cần tuân thủ các nguyên tắc và thủ tục đã được quy định.
Nguyên tắc chung yêu cầu bên nguyên đơn tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc nghĩa vụ liên quan đến lĩnh vực mà ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm đã xác định có vi phạm, gây triệt tiêu hoặc phương hại.
Tạm hoãn việc thực hiện các nhượng bộ hoặc nghĩa vụ liên quan đến lĩnh vực đã được Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm xác định là vi phạm, làm vô hiệu hoặc gây phương hại.
(2) Tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác trong những lĩnh vực khác của cùng hiệp định
(3) Tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác trong một hiệp định có liên quan khác
Theo quy định của Hiệp định GATT, nếu một bên không thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết của DSB trong thời gian hợp lý, bên có quyền có thể yêu cầu DSB áp dụng biện pháp trả đũa Đầu tiên, bên có quyền phải tạm hoãn thi hành các cam kết xuất khẩu hàng hóa máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp Nếu việc tạm hoãn này không khả thi hoặc không hiệu quả, bên có quyền có thể tạm hoãn các cam kết trong lĩnh vực thương mại hàng hóa khác như giày dép hoặc thực phẩm, đặc biệt khi kim ngạch thương mại giữa hai bên thấp Cuối cùng, nếu việc tạm hoãn trong các lĩnh vực khác vẫn không mang lại kết quả, bên có quyền có thể yêu cầu các biện pháp trả đũa bổ sung.
Nếu một bên cho rằng việc tạm hoãn thực hiện các nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác là không thực tế hoặc không hiệu quả trong các lĩnh vực liên quan, bên đó có quyền tạm hoãn việc thực hiện những nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác trong cùng một hiệp định.
Nếu một bên cho rằng việc tạm hoãn các nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác là không thực tế hoặc không hiệu quả trong các lĩnh vực khác của hiệp định, và nếu tình huống đủ nghiêm trọng, bên đó có quyền yêu cầu tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc nghĩa vụ theo một hiệp định liên quan khác.