1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tội gián điệp theo luật hình sự việt nam

95 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tội Gián Điệp Theo Luật Hình Sự Việt Nam
Tác giả Phan Văn Chánh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thu Hương
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố TP. HỒ CHÍ MINH
Định dạng
Số trang 95
Dung lượng 2,83 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIÁN ĐIỆP THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (14)
    • 1.1. Một số vấn đề chung về tội gián điệp (14)
      • 1.1.1. Khái niệm tội gián điệp (14)
      • 1.1.2. Vài nét về lịch sử tội gián điệp theo pháp luật hình sự Việt Nam (17)
      • 1.1.3. Các dấu hiệu pháp lý của tội gián điệp (23)
      • 1.1.4. Chính sách xử lý đối với tội gián điệp (30)
    • 1.2. Phân biệt tội gián điệp với một số tội phạm khác theo Luật Hình sự Việt Nam (31)
      • 1.2.1. Phân biệt tội gián điệp với một số tội xâm phạm an ninh quốc gia (31)
      • 1.2.2. Phân biệt tội gián điệp với một số tội phạm khác liên quan (36)
    • 1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội gián điệp (37)
      • 1.3.1. Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (37)
      • 1.3.2. Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga (39)
      • 1.3.3. Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự Cộng hòa liên bang Đức (40)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN (44)
    • 2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về tội gián điệp theo luật hình sự Việt Nam (44)
      • 2.1.1. Thực tiễn xử lý tội phạm gián điệp (44)
      • 2.1.2. Một số thuận lợi, khó khăn từ thực tiễn xử lý tội phạm gián điệp (50)
    • 2.2. Một số bất cập trong quy định và áp dụng tội gián điệp theo luật hình sự Việt Nam (56)
      • 2.2.1. Bất cập trong quy định và áp dụng dấu hiệu định tội của tội gián điệp .. 50 2.2.2. Bất cập trong quy định và áp dụng tình tiết định khung về tội gián điệp 54 (56)
    • 2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt (62)
      • 2.3.1. Sự cần thiết, yêu cầu của hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt (62)
      • 2.3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội gián điệp (67)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIÁN ĐIỆP THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Một số vấn đề chung về tội gián điệp

1.1.1 Khái niệm tội gián điệp Đối với nhà nước CHXHCNVN, giữ vững ANQG, đảm bảo sự ổn định chính trị của đất nước, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới là một nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Trong những năm qua, tình hình tội phạm xâm phạm ANQG ở Việt Nam diễn biến rất phức tạp ANQG là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước CHXHCNVN, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc 10 Các tội xâm phạm ANQG là những hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc phòng, xâm phạm chế độ XHCN; đe dọa sự tồn tại và vững mạnh của chính quyền nhân dân Các tội xâm phạm ANQG có tính nguy hiểm rất cao, được đặt lên hàng đầu trong phần các tội phạm cụ thể của luật hình sự, với nhiều chế tài nghiêm khắc Trấn áp mọi hoạt động xâm phạm, uy hiếp sự tồn tại và vững mạnh của chính quyền nhân dân là một trong những biện pháp tích cực tăng cường sự vững mạnh của Nhà nước Sự xâm phạm, uy hiếp đó có thể thực hiện từ phía bên trong đất nước của lực lượng phản động nội địa, xâm phạm an ninh đối nội, từ phía bên ngoài của lực lượng phản động quốc tế hoặc các thế lực thù địch khác, xâm phạm an ninh đối ngoại hoặc từ cả hai phía câu kết với nhau, xâm phạm cả an ninh đối nội lẫn an ninh đối ngoại, điển hình là tội phạm gián điệp Tội gián điệp là một trong các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm ANQG Việt Nam

Hiện nay, thuật ngữ “gián điệp” được hiểu theo nhiều cách khác nhau Gián điệp là người hợp tác với cơ quan tình báo của một quốc gia, thực hiện các hoạt động như thu thập thông tin tình báo, thiết lập cơ sở, liên lạc bí mật và tiến hành các hành vi phá hoại nhằm chống lại quốc gia khác Những người này có thể bị lôi kéo, tuyển dụng hoặc tự nguyện tham gia Gián điệp có thể là công dân trong nước hoặc người nước ngoài, và họ thực hiện các hành vi như thu thập tin tức tình báo, hoạt động phá hoại, hoặc chỉ điểm cho cơ quan tình báo nước ngoài.

10 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2004), Luật An ninh quốc gia (Điều 3)

Gián điệp, theo định nghĩa trong từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, được hiểu là người do địch cài cắm để do thám tình hình quân sự, chính trị, kinh tế và thực hiện các hành vi phá hoại Cụ thể, gián điệp có thể là tên của những tình báo chuyên nghiệp hoặc cơ sở gián điệp, và hành vi gián điệp bao gồm các hoạt động tình báo, phá hoại nhằm chống lại lợi ích của Nhà nước CHXHCNVN Điều này bao gồm việc cung cấp hoặc thu thập bí mật quốc gia cho nước ngoài, cũng như việc thực hiện các hành vi giúp đỡ người nước ngoài trong các hoạt động tình báo và phá hoại Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, gián điệp là hành vi thu thập và cung cấp bí mật Nhà nước, cũng như thông tin khác nhằm phục vụ cho mục đích chống lại Nhà nước CHXHCNVN, và được xem là hành vi đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia.

Tội gián điệp được hiểu là hành vi cụ thể của con người và đã được quy định rõ ràng trong Luật Hình sự Việt Nam Kể từ khi Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967 có hiệu lực, tội gián điệp đã được định danh và được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1985, 1999 và 2015, thuộc Chương “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”.

Thuật ngữ “gián điệp” có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, phản ánh cả tên gián điệp và hành vi liên quan đến tội gián điệp Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa tên gián điệp và hành vi phạm tội, nhưng cần phân biệt rõ ràng giữa chúng Tên gián điệp thực hiện nhiều hoạt động phá hoại như thu thập tình báo, kích động bạo loạn, gây rối an ninh, tuyên truyền chống Nhà nước và khủng bố nhằm chống lại chính quyền nhân dân Trong số đó, tên gián điệp có thể là nhân viên tình báo.

12 Bộ Công an Viện chiến lược và khoa học Công an (2005), Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.207

13 Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.730

14 Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Thế giới, tr.11

Tội gián điệp, theo quy định của Bộ Tư pháp Việt Nam, bao gồm hành vi của công dân, người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch thực hiện hoạt động tình báo, phá hoại nhằm chống lại Nhà nước CHXHCNVN Để trở thành chủ thể của tội gián điệp, cá nhân phải đủ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi theo quy định của Bộ luật Hình sự Hiện nay, khái niệm về tội gián điệp chưa được văn bản pháp luật nào chính thức xác định, nhưng đã có nhiều nghiên cứu pháp lý làm rõ nội hàm của nó Các tác giả trong Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam đã định nghĩa tội gián điệp là hành vi gây cơ sở cho hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài, bao gồm các hành vi như chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường, hoặc cung cấp thông tin, tài liệu bí mật cho nước ngoài nhằm chống lại Nhà nước Việt Nam Tội gián điệp được xem là một trong những tội xâm phạm an ninh quốc gia, đe dọa sự ổn định của chính quyền nhân dân.

16 Nguyễn Duy Thuân (2003), tlđd (7), tr16

17 Trường Đại học luật Hà Nội (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

18 Tổng cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân – Bộ Công an (2011), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam –

Nhiều tác giả đã đưa ra các khái niệm khác nhau về tội gián điệp, tuy nhiên, các khái niệm này chủ yếu dựa trên quy định của tội gián điệp trong luật hình sự Qua khảo sát và đánh giá các công trình nghiên cứu, có thể thấy rằng nội dung về an ninh đối nội và an toàn đối ngoại được phản ánh rõ ràng trong các khái niệm này.

Việc xác định rõ ràng khái niệm tội gián điệp là rất quan trọng để thống nhất nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự Theo nghiên cứu lý luận và quy định pháp luật hình sự Việt Nam, tội gián điệp được định nghĩa là hành vi hoạt động tình báo, phá hoại nhằm chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoặc theo sự chỉ đạo của nước ngoài Điều này bao gồm các hoạt động như thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, và hỗ trợ cho người nước ngoài trong các hoạt động tình báo, cũng như việc cung cấp hoặc thu thập bí mật nhà nước cho nước ngoài Những hành vi này nhằm mục đích xâm phạm độc lập, chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, với ý đồ chống lại chính quyền nhân dân.

1.1.2 Vài nét về lịch sử tội gián điệp theo pháp luật hình sự Việt Nam

Tình báo và gián điệp là công cụ thiết yếu trong lãnh đạo quốc gia, cả trong thời chiến và thời bình Qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực lập pháp hình sự Nghiên cứu tội gián điệp trong Luật Hình sự Việt Nam cần xem xét lịch sử lập pháp hình sự và sự phát triển của tội gián điệp Việc tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển tội gián điệp giúp nhận thức rõ giá trị lịch sử của lập pháp hình sự, từ đó kế thừa và phát huy kinh nghiệm quý báu, đồng thời tìm ra giải pháp cải cách và hoàn thiện quy định pháp luật hình sự trong bối cảnh mới Nghiên cứu này có thể chia thành nhiều giai đoạn khác nhau.

Trong tác phẩm của Lê Cảm (2007), "Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền", tác giả nhấn mạnh vai trò của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ an ninh quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm quyền con người Cuốn sách, được xuất bản bởi Nxb Tư pháp tại Hà Nội, cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối liên hệ giữa an ninh và quyền con người trong bối cảnh phát triển nhà nước pháp quyền.

Trong thời kỳ nhà Ngô, nhà Đinh và nhà Tiền Lê, pháp luật chủ yếu dựa vào tục lệ, với việc xác định tội phạm và hình phạt phụ thuộc vào ý chí của vua và các quan chức Nghiên cứu pháp luật thời Lý – Trần – Hồ cho thấy mặc dù còn nhiều hạn chế, hoạt động lập pháp đã bắt đầu phát triển, chủ yếu nhằm bảo vệ quyền lợi của tầng lớp thượng lưu trong xã hội Các tội thập ác như phản quốc, giết vua, và nổi loạn được quy định nghiêm khắc, phản ánh ý chí của Nhà nước Đến thời Lê, Luật Hồng Đức lần đầu tiên đề cập đến tội gián điệp, quy định hình phạt tử hình cho hành vi này, thể hiện sự tiến bộ trong pháp luật Trong thời kỳ nhà Nguyễn, Bộ luật Hoàng Việt cũng không có quy định cụ thể về tội gián điệp nhưng liệt kê nhiều tội chống chính quyền như mưu phản và đại nghịch, với hình phạt nghiêm khắc cho những hành vi này.

20 Lê Quốc Thắng (1997), Lê triều Hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội, tr 145-146

21 Nguyễn Văn Thành (1994), Hoàng việt luật lệ (Luật hình triều Nguyễn), Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội, tr 183-184

Nội dung nghiên cứu cho thấy quy định về tội gián điệp ở giai đoạn này còn sơ khai, thiếu văn bản chuyên biệt và điều luật cụ thể Tuy nhiên, đây là cơ sở quan trọng cho các giai đoạn lập pháp sau này kế thừa và phát triển.

Từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa trong Bộ luật hình sự năm 1985, sau Cách mạng Tháng 8, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời và phải đối mặt với nhiều thách thức từ các hoạt động tình báo và phá hoại của kẻ thù cả bên trong lẫn bên ngoài Để đấu tranh hiệu quả với tội phạm, đặc biệt là gián điệp, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự, trong đó có quy định về tội gián điệp Ngày 14/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 21-SL, trao quyền cho tòa án quân sự xử lý những người có hành vi phương hại đến nền độc lập của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bất kể thời gian xảy ra.

Từ năm 1948, thực dân Pháp gia tăng hoạt động do thám, gián điệp, gây thiệt hại lớn cho cách mạng Việt Nam Để đối phó, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 146 – SL ngày 02/03/1948, quy định về việc tịch thu tài sản của những người phạm tội gián điệp và một loạt Sắc lệnh nhằm bảo vệ bí mật Nhà nước Điển hình là Sắc lệnh số 69 – SL ngày 1/7/1949, quy định về việc trừng trị các hành vi tiết lộ bí mật quốc gia, trong đó nêu rõ rằng những hành vi vi phạm sẽ bị truy tố như tội phản quốc.

Cố ý tiết lộ hoặc bán bí mật quốc gia cho kẻ thù, lợi dụng bí mật quốc gia để thu lợi, và dò xét, mua hoặc lấy cắp tài liệu bí mật quốc gia là những hành vi vi phạm nghiêm trọng Theo Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/1/1953, các tội phạm liên quan đến an toàn Nhà nước và chính sách của Việt Nam được quy định rõ ràng, trong đó Điều 7 nêu rõ hành vi xâm phạm an toàn thông tin và tài liệu bí mật quốc gia Ngoài ra, Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như Sắc lệnh số 126 ngày 17/07/1950 và Luật cải cách ruộng đất năm 1953 để xử lý các hành vi gián điệp và bảo vệ an ninh quốc gia.

22 Sắc lệnh 133/SL/53 ngày 20/1/1953 về việc trừng trị các tội phạm về an toàn Nhà nước, đối nội và đối ngoại

Phân biệt tội gián điệp với một số tội phạm khác theo Luật Hình sự Việt Nam

1.2.1 Phân biệt tội gián điệp với một số tội xâm phạm an ninh quốc gia

Các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia (ANQG) bao gồm những hành vi vi phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cùng với việc ảnh hưởng đến chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Dựa trên tình hình lịch sử cụ thể và kinh nghiệm trong công tác phòng, chống tội phạm ANQG, Bộ luật Hình sự Việt Nam đã quy định từ Điều 108 đến Điều 121, bao gồm 14 tội danh khác nhau trong chương Các tội xâm phạm ANQG, trong đó có tội phản bội Tổ quốc.

Các tội xâm phạm an ninh quốc gia tại Việt Nam bao gồm: tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109), tội gián điệp (Điều 110), tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 111), tội bạo loạn (Điều 112), tội khủng bố chống chính quyền (Điều 113), tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật (Điều 114), tội phá hoại chính sách kinh tế - xã hội (Điều 115), tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 116), tội phát tán thông tin chống Nhà nước (Điều 117), tội phá rối an ninh (Điều 118), tội chống phá cơ sở giam giữ (Điều 119), tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn ra nước ngoài (Điều 120), và tội trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền (Điều 121) Việc phân biệt tội gián điệp với các tội xâm phạm an ninh quốc gia khác không chỉ quan trọng về lý thuyết mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật hình sự.

- Phân biệt tội gián điệp với tội phản bội Tổ quốc

Theo Bộ luật Hình sự năm 2015, công dân Việt Nam có hành vi câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc sẽ bị xử lý về tội phản bội Tổ quốc Tội gián điệp và tội phản bội Tổ quốc được quy định tại Điều 110 và Điều 108, đều xâm phạm an ninh quốc gia Hai tội này có nhiều điểm tương đồng, dẫn đến khó khăn trong nhận thức và áp dụng Bài viết sẽ phân tích cấu thành tội phạm của từng tội để so sánh và chỉ ra những điểm giống và khác nhau giữa chúng.

Hai tội phạm này đều nhằm mục tiêu chống lại sự an toàn và vững mạnh của chính quyền nhân dân, với dấu hiệu chủ quan là được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp Cả hai đều có yếu tố nước ngoài, thể hiện tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội.

Hai tội phạm này có sự khác biệt rõ rệt về chủ thể Tội phản bội Tổ quốc chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam, trong khi tội gián điệp có thể được thực hiện bởi bất kỳ ai đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực pháp lý.

Trong việc phân biệt giữa tội gián điệp và tội phản bội Tổ quốc, yếu tố nước ngoài đóng vai trò quan trọng Tội phản bội Tổ quốc thể hiện qua hành vi công dân Việt Nam "câu kết" với nước ngoài, bao gồm việc bàn bạc về mưu đồ chính trị, nhận sự giúp đỡ từ nước ngoài như tiền, vũ khí, và hoạt động dựa vào thế lực nước ngoài để xâm hại đến độc lập và chủ quyền của Việt Nam Ngược lại, tội gián điệp liên quan đến công dân Việt Nam thực hiện hoạt động tình báo theo chỉ đạo của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài Hình thức "câu kết" trong tội phản bội Tổ quốc là sự liên kết giữa thế lực chống đối trong nước và nước ngoài, nhằm gây ảnh hưởng tiêu cực đến đất nước.

Phạm vi hoạt động của gián điệp rất rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, nhân sự và khoa học công nghệ, với mức độ nguy hại phụ thuộc vào mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các quốc gia Hành vi gián điệp xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền nhân dân và ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh đối ngoại của Việt Nam Theo Hiến pháp, "Phản bội tổ quốc" là tội nặng nhất, do công dân Việt Nam thực hiện nhằm thay đổi chế độ và đe dọa sự tồn tại của chính quyền Nếu hành vi gián điệp của công dân Việt Nam có sự câu kết với nước ngoài nhằm lật đổ chính quyền, thì sẽ bị xử lý về tội phản bội tổ quốc.

- Phân biệt tội gián điệp với tội xâm phạm an ninh lãnh thổ

Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ được quy định một cách khái quát trong luật, với Điều 32 nêu rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng Hành vi khách quan của tội phạm này có thể được rút ra từ các quy định của điều luật, phản ánh tính chất nghiêm trọng và ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.

31 Nghị quyết 04/1986/NQ-HDTPTANDTC Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự ngày 29/11/1986

32 Điều 111 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Hành vi xâm nhập lãnh thổ gây phương hại đến an ninh quốc gia thường mang tính vũ trang, với các đối tượng từ bên ngoài xâm nhập trái phép vào Việt Nam Những hoạt động này bao gồm phá hoại cơ sở hạ tầng như cầu đường, kho tàng, bắt cóc cán bộ, thu thập thông tin tình báo chiến thuật và đánh cướp tù binh.

Hành vi làm sai lệch đường biên giới quốc gia, hay còn gọi là xâm nhập trái phép vào lãnh thổ Việt Nam, thường diễn ra khi người phạm tội dịch chuyển cột mốc biên giới Hành vi này có thể được thực hiện bằng các biện pháp vũ trang, bán vũ trang, hoặc lén lút mà không cần sử dụng vũ khí.

Ba là, các hành vi khác gây phương hại đến an ninh lãnh thổ bao gồm bất kỳ hoạt động nào không thuộc hai hành vi đã đề cập Những hành động này có thể diễn ra từ vùng biển, vùng trời hoặc đất liền bên ngoài biên giới, như việc pháo kích vào lãnh thổ Việt Nam Ngoài ra, hoạt động này cũng có thể liên quan đến hành vi của những đồng phạm.

Tội gián điệp và tội xâm phạm an ninh lãnh thổ có những điểm giống và khác nhau Cả hai đều có thể do nhân viên tình báo nước ngoài hoặc cá nhân, tổ chức từ nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, với thám báo là yếu tố định tội Tuy nhiên, tội xâm phạm an ninh lãnh thổ chủ yếu liên quan đến việc xâm nhập trái phép và có thể mang tính vũ trang, thường xảy ra trong thời chiến hoặc khi có tranh chấp biên giới Ngược lại, tội gián điệp có thể diễn ra trong mọi điều kiện, với hoạt động bí mật và không vũ trang Các hành vi của thám báo thường là thu thập thông tin tình báo và phá hoại cơ sở vật chất của đối phương, trong khi hành vi xâm phạm an ninh lãnh thổ có thể gây hại cho an ninh quốc gia.

- Phân biệt tội gián điệp với một số tội phạm xâm phạm An ninh quốc gia mà có sự giao thoa về hành vi phá hoại

Hành vi phá hoại đã được bổ sung vào mặt khách quan của tội gián điệp theo Bộ luật Hình sự năm 1985 Ngoài việc được xác định là hành vi khách quan của tội gián điệp, hành vi này cũng xuất hiện trong các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia khác như: Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật (Điều 114), Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội (Điều 115), và Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 116) Để phân biệt tội gián điệp với các tội phạm có sự giao thoa về hành vi phá hoại, cần nắm rõ quy định về hành vi phá hoại trong các điều luật liên quan.

Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật tại Việt Nam được quy định liên quan đến hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng các cơ sở trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học – kỹ thuật, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng Hành vi này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, sử dụng các phương tiện và công cụ đa dạng để tác động đến các cơ sở vật chất – kỹ thuật của Nhà nước.

Hành vi phá hoại việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội bao gồm các hành động cản trở như trì hoãn, thực hiện không đúng cách, không thực hiện hoặc lôi kéo, kích động người khác tham gia phá hoại chính sách Những hành vi này có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh và vị trí pháp lý của cá nhân đối với chính sách cần được thực hiện.

Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội gián điệp

1.3.1 Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Nghiên cứu văn hóa Trung Quốc cho thấy nhiều tác phẩm nổi bật về gián điệp, trong đó có "Tôn Tử binh pháp" của Tôn Vũ, tổng kết kinh nghiệm hoạt động gián điệp từ thời Hạ, Thương đến Xuân Thu chiến quốc Tác phẩm này được công nhận toàn cầu vì đã nêu bật vai trò quan trọng của gián điệp trong chiến tranh, nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin và tài liệu mà gián điệp cung cấp cho các quyết định chính trị và quân sự Tôn Tử phân loại gián điệp thành 5 loại: nhân gián, nội gián, phản gián, tử gián và sinh gián, từ đó tạo nền tảng lý luận cho các hoạt động gián điệp không chỉ của Trung Quốc mà còn cho nhiều quốc gia hiện nay.

BLHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định rõ ràng về tội gián điệp trong chương Các tội xâm phạm ANQG, thể hiện chính sách hình sự nghiêm khắc của Trung Quốc đối với loại tội phạm này Cụ thể, Điều 110 và 111 chỉ rõ hành vi gián điệp, bao gồm việc tham gia tổ chức gián điệp hoặc chỉ điểm cho kẻ thù, và tội gián điệp hoàn thành khi thực hiện một trong những hành vi này So sánh với BLHS Việt Nam, có nhiều điểm tương đồng như dấu hiệu hành vi, chủ thể tội phạm và yếu tố khách thể, nhưng khác biệt chính nằm ở quy định về giai đoạn hoàn thành tội phạm Trong khi BLHS Trung Hoa xác định rõ ràng hành vi tham gia tổ chức gián điệp là đủ để cấu thành tội phạm, thì quy định của Việt Nam có sự khác biệt trong cách tiếp cận.

Việt Nam chưa quy định hành vi nhận lời làm gián điệp hay tham gia tổ chức gián điệp là hành vi khách quan của tội phạm này Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu và tài liệu khoa học ghi nhận rằng việc nhận lời làm việc cho cơ quan tình báo nước ngoài được xem là đã phạm tội gián điệp ở giai đoạn hoàn thành Điều này dẫn đến sự không thống nhất giữa quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm gián điệp.

33 Trương Điện Thanh, nhóm dịch: Nguyễn Văn, Tiểu Như, Phan Thành (2004), Gián điệp và phản gián điệp, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

34 Đinh Bích Hà (2007), Bộ luật hình sự của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư Pháp, Hà Nội tr.82

35 Nguyễn Duy Thuân (2003), tlđd (7), tr.16-17

BLHS Trung Hoa đã quy định rõ ràng về hành vi đánh cắp, thu thập và mua chuộc thông tin nhằm cung cấp bí mật quốc gia hoặc tin tức tình báo cho cá nhân, tổ chức, cơ quan nước ngoài một cách bất hợp pháp tại Điều 111.

Theo Bộ luật Hình sự năm 2015 của Việt Nam, hành vi cung cấp hoặc thu thập thông tin nhằm mục đích cung cấp bí mật nhà nước cho nước ngoài được coi là tội gián điệp (Điểm c Khoản 1 Điều 110) Một số ý kiến cho rằng nên tách hành vi thu thập, cung cấp thông tin khác ra khỏi tội gián điệp để xây dựng thành một tội danh độc lập, do thực tiễn điều tra gặp khó khăn trong việc chứng minh hành vi này Hiện tại, yếu tố nước ngoài trong luật vẫn chưa được áp dụng thống nhất do thiếu sự giải thích rõ ràng từ cơ quan có thẩm quyền Trong khi đó, Bộ luật Hình sự Trung Hoa quy định hình phạt cho tội gián điệp rất nghiêm khắc, với mức án cao nhất là tù chung thân Ngược lại, Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định mức hình phạt cao nhất cho tội gián điệp là tử hình, tuy nhiên từ năm 2000 đến nay chưa có vụ án nào bị xử án tử hình về tội này, cho thấy tính chất phòng ngừa của quy định.

1.3.2 Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga

Theo Điều 276 chương 29 của Bộ luật Hình sự Liên Bang Nga, tội gián điệp được quy định với các hành vi như chuyển giao, thu thập, đánh cắp hoặc tàng trữ thông tin bí mật Nhà nước nhằm mục đích cung cấp cho nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài Tội gián điệp cũng bao gồm việc thu thập thông tin theo yêu cầu của tình báo nước ngoài để gây thiệt hại đến an ninh đối ngoại của Liên Bang Nga Hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm, và chủ thể của tội gián điệp có thể là người có quốc tịch nước ngoài hoặc người không có quốc tịch Công dân Liên Bang Nga cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thực hiện các hành vi nêu trên.

36 Hồ Thế Hòe, Lê Nguyễn Thị Ngọc Lan (2013), tlđd (9)

Theo Bộ luật hình sự Liên Bang Nga, tội gián điệp không được coi là hành vi của một chủ thể phạm tội cụ thể Hình phạt cho tội danh này là từ mười đến hai mươi năm tù giam.

Tội gián điệp trong pháp luật Việt Nam và Liên Bang Nga đều được coi là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia Cả hai hệ thống pháp luật đều yêu cầu cấu thành hình thức, với dấu hiệu bắt buộc chỉ bao gồm hành vi phạm tội mà không cần hậu quả Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và nhằm mục đích xâm phạm an ninh quốc gia Ngoài ra, cả hai quốc gia đều áp dụng các chế tài nghiêm khắc đối với tội gián điệp.

Quy định về tội gián điệp của Việt Nam và Liên Bang Nga có nhiều điểm khác biệt, mặc dù cũng tồn tại một số điểm tương đồng Nội dung quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) Liên Bang Nga ngắn gọn hơn so với BLHS Việt Nam, không đề cập đến các hành vi như "phá hoại" hay "chỉ điểm" như trong Điều 110 của BLHS Việt Nam Về chủ thể của tội phạm, BLHS Liên Bang Nga chỉ quy định người nước ngoài và người không có quốc tịch là đối tượng phạm tội, trong khi công dân Nga thực hiện hành vi gián điệp sẽ bị xử lý theo Điều 275 về tội phản bội tổ quốc Về hình phạt, BLHS Việt Nam phân chia thành ba khung hình phạt cụ thể cho tội gián điệp, trong khi Liên Bang Nga chỉ quy định một khung hình phạt duy nhất từ mười đến hai mươi năm tù giam.

1.3.3 Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự Cộng hòa liên bang Đức Để đấu tranh, xử lý tội phạm gián điệp, Cộng hòa Liên bang Đức đã hình sự hóa tội phạm này trong BLHS nước này tại Chương thứ hai - Phản quốc và nguy hại cho an ninh đối ngoại 38 BLHS hiện hành của Cộng hòa liên bang Đức quy định tội gián điệp ở nhiều điều luật tại Chương thứ hai - Phản quốc và nguy hại cho an ninh đối ngoại, bao gồm: Điều 94, Điều 95, Điều 96, Điều 98, Điều 99 Tội phạm gián điệp quy định trong BLHS hiện hành của Cộng hòa liên bang Đức cũng có một số điểm chung như quy định về tội phạm này trong BLHS Việt Nam và một số quốc gia như: Người phạm tội đã gây nguy cơ bất lợi nghiêm trọng cho ANQG và đặc

Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức quy định rõ về tội gián điệp, nhấn mạnh rằng chủ thể tội phạm phải là người đủ điều kiện và thực hiện hành vi theo luật định Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, nhằm gây bất lợi cho an ninh đối ngoại của Cộng hòa Liên bang Đức hoặc tạo điều kiện cho các thế lực bên ngoài, từ đó gây ra nguy cơ nghiêm trọng cho an ninh quốc gia Trong khi đó, Bộ luật hình sự Việt Nam đã quy định thống nhất các hành vi khách quan liên quan đến tội gián điệp tại Điều 110.

Bộ luật hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức quy định các hành vi hoạt động gián điệp thành nhiều tội phạm cụ thể gồm:

Người thực hiện hành vi chuyển bí mật Nhà nước cho thế lực bên ngoài hoặc cho người không có thẩm quyền biết bí mật Nhà nước, gây bất lợi cho Cộng hòa Liên bang Đức, sẽ bị xử lý về tội phản quốc theo Điều 94 Bộ luật Hình sự Đức Tội phạm này áp dụng cho công dân Đức và tương tự như quy định của Bộ luật Hình sự Liên bang Nga, nơi công dân nếu làm gián điệp hoặc chuyển giao bí mật Nhà nước cho nước ngoài cũng sẽ bị xử lý về tội phản bội tổ quốc Trong khi đó, theo Bộ luật Hình sự Việt Nam, hành vi tương tự sẽ bị xử lý về tội gián điệp.

Người tiết lộ bí mật Nhà nước cho người không có thẩm quyền hoặc làm cho bí mật này được biết đến rộng rãi, gây nguy cơ nghiêm trọng cho an ninh đối ngoại của Cộng hòa Liên bang Đức, sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo Điều 95 BLHS Liên bang Đức Chủ thể vi phạm là những người có chức vụ, quyền hạn trong việc bảo vệ bí mật Nhà nước Tương tự, theo quy định của BLHS Việt Nam, hành vi tình báo của người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam cung cấp thông tin, tài liệu thuộc bí mật Nhà nước cho nước ngoài nhằm mục đích chống lại Việt Nam cũng bị coi là vi phạm pháp luật.

Người tự tìm kiếm bí mật Nhà nước để tiết lộ cho các thế lực nước ngoài, hoặc tìm kiếm bí mật Nhà nước được bảo mật bởi cơ quan có thẩm quyền nhằm làm lộ thông tin, sẽ bị coi là phạm tội Do thám phản quốc và Dò la bí mật Nhà nước theo Điều 96 của Bộ luật Hình sự Việt Nam Những hành vi này được quy định rõ ràng trong tội gián điệp.

Theo Điều 98 BLHS Liên bang Đức, người nào tham gia vào hoạt động thu thập hoặc chuyển giao bí mật Nhà nước cho thế lực bên ngoài sẽ bị coi là phạm tội hoạt động tình báo phản quốc Quy định này tương tự như Điều 110 BLHS Việt Nam, nơi cấm các hành vi gây cơ sở cho hoạt động tình báo và phá hoại theo chỉ đạo của nước ngoài Đặc biệt, BLHS Liên bang Đức còn quy định tại khoản 2 của Điều 98 về việc tòa án có thể giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn xử phạt cho những người tự nguyện dừng hành vi phạm tội và khai báo thông tin cho cơ quan chức năng Nếu người phạm tội bị ép buộc bởi thế lực bên ngoài nhưng sau đó tự nguyện ngừng hành vi và thông báo cho cơ quan thì cũng sẽ không bị xử phạt theo quy định này.

Nam quy định tương tự tại Khoản 4 về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội gián điệp

THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:36

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w