QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƯỚI MỨC THẤP NHẤT CỦA
Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đƣợc áp dụng theo khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015
Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”
Điều kiện để người phạm tội được áp dụng quy định tại khoản 2 Điều
Khoản 2 Điều 54 BLHS quy định người phạm tội có thể được quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau:
1) Khoản 2 Điều 54 BLHS được áp dụng đối với trường hợp điều luật có từ hai khung hình phạt trở lên và khung hình phạt được áp dụng không phải là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật
2) Người phạm tội phải là phạm tội lần đầu Theo giải thích tại Mục 4 Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC của TAND tối cao ngày 7/4/2017 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ thì: “Phạm tội lần đầu được hiểu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS nay bị truy cứu TNHS trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu”
3) Người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm Theo khoản 3 Điều 17 BLHS thì có bốn loại người đồng phạm, gồm: Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm Trong đó, giúp sức về vật chất là hành vi cung cấp công cụ, phương tiện, kĩ thuật, khắc phục những trở ngại để người thực hành thực hiện tội phạm được thuận lợi, dễ dàng hơn Còn giúp sức về tinh thần là tạo điều kiện về tinh thần cho việc thực hiện tội phạm như góp ý kiến, chỉ dẫn cách thức thực hiện tội phạm, cung cấp tình hình, hứa hẹn trước sẽ che giấu người phạm tội, tang vật, dấu vết tội phạm… 1
4) Người phạm tội có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm So với hành vi của người tổ chức, người thực hành và người xúi giục thì hành vi của người giúp sức có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội hạn chế hơn vì hành vi giúp sức không đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện tội phạm mà chỉ đóng vai trò tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng hơn cho việc thực hiện tội phạm Người phạm tội phải là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng “có vai trò không đáng kể” Tuy nhiên, thế nào là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể thì hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên việc xác định điều kiện “có vai trò không đáng kể” này chỉ mang tính đánh giá tương đối của Hội đồng xét xử
Theo khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự, để người phạm tội được áp dụng quy định này, cần có hai điều kiện chính: thứ nhất, người đó phải là người phạm tội lần đầu; thứ hai, họ phải đóng vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm.
Giới hạn quyết định hình phạt theo quy định tại khoản 2 Điều 54
Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật…” Khoản 2 Điều 54
BLHS quy định mức hình phạt tối đa và tối thiểu được áp dụng đối với người phạm tội như sau:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự (BLHS), Tòa án có thể áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức tối thiểu của khung hình phạt Cụ thể, nếu A phạm tội theo khoản 4 Điều 168 BLHS năm 2015, khung hình phạt sẽ là từ 18 năm tù trở lên.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS, mức hình phạt tối đa mà Tòa án có thể áp dụng đối với A là dưới 18 năm tù, thấp hơn mức tối thiểu của khung hình phạt tại khoản 4 Điều 168, tức là “20 năm hoặc tù chung thân”.
- Về mức hình phạt tối thiểu, khoản 2 Điều 54 BLHS quy định: “không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật”
Trường Đại học Luật TP.HCM (2019) đã xuất bản Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần Chung, tái bản lần thứ nhất với những sửa đổi và bổ sung, do NXB Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam phát hành, trang 217.
Khung hình phạt nhẹ hơn được xác định dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt Nếu khung hình phạt có mức cao nhất thấp hơn, thì khung hình phạt đó sẽ được coi là nhẹ hơn Trong trường hợp hai khung hình phạt có mức cao nhất bằng nhau, khung hình phạt nào có mức thấp nhất thấp hơn sẽ là khung hình phạt nhẹ hơn.
Trong Bộ luật Hình sự (BLHS), các tội phạm từ Chương XIII đến Chương XVI thường có nhiều khung hình phạt, được sắp xếp theo hai cách chính Thứ nhất, các khung hình phạt có thể được bố trí theo thứ tự tăng dần từ nhẹ đến nặng, với ví dụ là điều luật có 4 khung hình phạt tương ứng với các khoản 1, 2, 3, 4, trong đó khung nhẹ hơn của khoản 4 là khoản 3, và tiếp tục như vậy Thứ hai, một số điều luật lại sắp xếp khung hình phạt theo thứ tự giảm dần từ nặng đến nhẹ Việc phân loại này giúp xác định mức độ nghiêm trọng của tội phạm và hình phạt tương ứng một cách rõ ràng.
2 khung hình phạt tương ứng với 2 khoản (khoản 1 và khoản 2) thì khung hình phạt
“liền kề nhẹ hơn” của khoản 1 là khoản 2 của điều luật đó
Theo Điều 54 BLHS năm 2015, mức hình phạt tối thiểu không yêu cầu phải nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, tuy nhiên hiện chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nào về vấn đề này.
Thực trạng áp dụng quy định quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015
1.2.1 Điều kiện để người phạm tội được áp dụng quy định tại khoản 2 Điều
Theo khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự, để áp dụng quy định này cho người phạm tội, cần xem xét đặc điểm về nhân thân của họ.
Khái niệm "phạm tội lần đầu" và vai trò "là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể" hiện vẫn chưa được quy định cụ thể trong văn bản hướng dẫn Do đó, việc xác định điều kiện này trên thực tế chưa có sự thống nhất, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.
Thứ nhất, khi xác định điều kiện để áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 54
Tòa án đã mắc sai lầm khi chỉ chú trọng vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 51 Bộ luật Hình sự (BLHS), mà không xem xét các yếu tố quan trọng như việc người phạm tội là “phạm tội lần đầu” và “giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể” Điều này dẫn đến những thiếu sót trong quá trình xét xử, ảnh hưởng đến tính công bằng của bản án.
Bản án thứ 1 (Phụ lục số 01) và nhận xét, đánh giá:
Ngày 23/12/2018, Th sử dụng điện thoại gọi cho F, Đ, E và AB; S gọi điện cho A rủ các đối tượng này đánh bạc Khi các đối tượng đồng ý tham gia đánh bạc,
C đã gọi điện thoại để thảo luận về việc tổ chức đánh bạc và nhờ mượn nhà của L Sau khi L đồng ý cho mượn, C thông báo cho Th rằng có thể đến địa điểm đã thỏa thuận.
Th và S đã tập trung tại quán cà phê cùng với AC, trong đó Th nhờ T chở các đối tượng vào nhà L để đánh bạc và hứa trả T 300.000 đồng sau khi kết thúc T đã mượn xe máy của người quen để chở các đối tượng đến nhà L, nơi Th và S cho họ vay tiền và thu tiền hồ Trong khi các đối tượng đang đánh bạc, AC ngồi canh gác ở cửa Tuy nhiên, vào lúc 15 giờ 30 phút, cả nhóm đã bị phát hiện và bắt quả tang Tang vật thu giữ gồm 36 cây bài tú lơ khơ, 12.900.000 đồng và 1 vỏ hộp bánh chứa 6.000.000 đồng tiền hồ.
(Đoàn Đình C có 1 tiền án: Ngày 22/02/2011, C bị Tòa án nhân dân (TAND)
TP Thanh Hóa xử phạt 7 năm tù về "Tội cố ý gây thương tích", ra trại ngày 1/9/2016; nhân thân: Ngày 21/5/2009 bị TAND huyện Y xử phạt 9 tháng tù về tội:
"Trộm cắp tài sản" ra trại ngày 04/11/2009)
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HS-ST ngày 27/9/2019, TAND huyện Y đã xử phạt C 12 tháng tù vì tội “Tổ chức đánh bạc”, căn cứ vào các điều luật như điểm d khoản 1 Điều 322, điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, cùng với Điều 17, Điều 58, và Điều 38 BLHS năm 2015.
Ngày 8/10/2019, C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Cùng với đơn kháng cáo, bị cáo nộp theo bản xác nhận của CQĐT việc C giúp phát hiện tội phạm
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân nhận định rằng C chỉ là người giúp sức trong vụ án đồng phạm Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, đã có nhiều tình tiết giảm nhẹ, và ở giai đoạn phúc thẩm, C còn có thêm tình tiết giảm nhẹ mới là tích cực hợp tác với cơ quan chức năng trong việc phát hiện tội phạm lần thứ hai Do đó, kháng cáo của C được cho là có cơ sở và đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS, chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, sửa án sơ thẩm.
Bản án số 320/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 của TAND tỉnh Thanh Hóa đã quyết định giảm hình phạt cho Đoàn Đình C xuống mức thấp nhất của khung hình phạt, từ 3 tháng đến 4 tháng tù.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 320/2019/HS-PT ngày 31/12/2019, TAND tỉnh Thanh Hóa đã áp dụng các quy định pháp luật liên quan, cụ thể là điểm d khoản 1 Điều 322; điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54; cùng với Điều 17, Điều 58.
38 BLHS tuyên phạt C 8 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”
Trong vụ án của C, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS để quyết định hình phạt, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại đã áp dụng điều này Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND tỉnh Thanh Hóa đề nghị chấp nhận kháng cáo của C, giảm hình phạt xuống từ 3 đến 4 tháng tù Tuy nhiên, bản án HSPT số: 320/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 của TAND tỉnh Thanh Hóa cũng đã áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS, điều này không phù hợp với quy định của pháp luật vì những lý do cụ thể sau đây.
Theo mục 1.1 của Luận văn, để áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS, điều kiện tiên quyết là điều luật phải có từ hai khung hình phạt trở lên và khung hình phạt được áp dụng không phải là khung hình phạt nhẹ nhất Trong trường hợp này, C phạm tội theo khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015, đây là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật.
322 nên không thể áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS đối với C được
Trong lập luận của VKSND tỉnh Thanh Hóa, cơ quan này cho rằng C chỉ là người giúp sức trong vụ án đồng phạm và đã có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 BLHS Họ đề nghị Tòa án phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS, nhấn mạnh rằng C đã tích cực hợp tác với cơ quan chức năng trong việc phát hiện tội phạm lần thứ hai Tương tự, TAND tỉnh Thanh Hóa cũng cho rằng mức hình phạt mà Tòa án sơ thẩm đưa ra là hợp lý, nhưng cần xem xét vai trò của C, chỉ là người giúp sức và có thêm tình tiết giảm nhẹ mới, từ đó đề xuất giảm án cho bị cáo.
Kháng cáo của C đã được chấp nhận do có cơ sở hợp lý, vì vậy cần áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
VKSND và TAND tỉnh Thanh Hóa áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS đối với C dựa trên nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS theo Điều 51 BLHS, nhưng điều này không đúng quy định Để áp dụng khoản 2 Điều 54, cần chứng minh C là người phạm tội lần đầu và có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm Tuy nhiên, C đã có hai lần phạm tội, một lần đã xóa án tích và một lần chưa xóa, do đó không đáp ứng điều kiện phạm tội lần đầu Hơn nữa, VKSND và TAND chỉ chứng minh các tình tiết giảm nhẹ mà không xác định rõ vai trò của C trong vụ án.
Thứ hai, về việc áp dụng điều kiện “phạm tội lần đầu” Hiện nay, mặc dù
Mục 4 Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 7/4/2017 đã hướng dẫn rõ thế nào là phạm tội lần đầu, tuy nhiên khi xác định điều kiện này để áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS vẫn còn có hạn chế sau:
Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015
Trong phần 1.2 của Luận văn, đã chỉ ra rằng việc áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất theo khoản 2 Điều 54 BLHS Việt Nam còn nhiều hạn chế, bao gồm: (1) Tòa án chưa xác định đúng và đầy đủ các điều kiện áp dụng; (2) Sự không thống nhất trong việc áp dụng điều kiện “phạm tội lần đầu” giữa các Tòa án; (3) Đánh giá chủ quan trong việc xác định “vai trò không đáng kể” của người phạm tội; (4) Sai sót trong việc xác định mức hình phạt tối đa; và (5) Nhiều cách hiểu khác nhau về mức hình phạt tối thiểu Những vấn đề này chủ yếu do quy định chưa rõ ràng và thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể Để khắc phục tình trạng này, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị.
Để ngăn chặn việc các Tòa án hiểu và áp dụng không đúng về điều kiện tại khoản 2 Điều 54 BLHS, tác giả kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về các điều kiện áp dụng quy định này cho người phạm tội.
“Người phạm tội có thể được Tòa án áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 khi có đủ các điều kiện sau đây:
1) Điều luật được áp dụng đối với người phạm tội có từ hai khung hình phạt trở lên và khung hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội không phải là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật
2) Người phạm tội phải thuộc trường hợp phạm tội lần đầu Phạm tội lần đầu được xác định theo giải thích tại Mục 4 Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC của TAND tối cao ngày 7/4/2017 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ: “Phạm tội lần đầu được hiểu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS nay bị truy cứu TNHS trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu”
Khi áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 cho người phạm tội, Tòa án cần xác định rõ ràng trường hợp phạm tội lần đầu trong phần “Nhận định của Tòa án” Việc này không thể chỉ dựa vào các thuật ngữ như “người phạm tội không có tiền án” hay “người phạm tội không có tiền án, tiền sự”, vì khái niệm “phạm tội lần đầu” và “không có tiền án” không hoàn toàn đồng nhất.
3) Người phạm tội phải là người giúp sức trong vụ án đồng phạm Người giúp sức được hiểu theo quy định tại khoản 3 Điều 17 BLHS năm 2015: “Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”
4) Người phạm tội có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm Xuất phát từ lý do nhà làm luật quy định khoản 2 Điều 54 trong BLHS là nhằm hướng tới việc đảm bảo hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với người phạm tội phải tương xứng và phù hợp với các đặc điểm nhân thân, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện trong mối quan hệ với những người đồng phạm khác cho nên để xác định thế nào là người “có vai trò không đáng kể” trong vụ án đồng phạm, Tòa án phải dựa vào nội dung của từng vụ án vụ thể và có thể dựa trên một số tiêu chí để xác định điều kiện này đối với người phạm tội như sau: (1) Hành vi của người phạm tội trong vụ án đồng phạm như thế nào, ví dụ như người phạm tội có hành vi rất đơn giản; 18 (2) Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thấp; (3) Mức độ và vai trò tham gia vào vụ án đồng phạm của người phạm tội là hạn chế nhất, thấp nhất so với những người đồng phạm khác; vai trò “mắt xích” của người giúp sức đó không quan trọng lắm trong vụ án đồng phạm; hành vi mà họ thực hiện không quyết liệt, không tích cực, không cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; thông thường người phạm tội không trực tiếp gây ra thiệt hại vật chất, thể chất…"
Để đảm bảo áp dụng thống nhất về giới hạn quyết định hình phạt theo khoản 2 Điều 54 BLHS, tác giả đề xuất rằng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể, kèm theo các ví dụ minh họa rõ ràng.
Khi quyết định hình phạt cho người phạm tội theo khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015, Tòa án có quyền áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất trong khung hình phạt nhưng không bắt buộc phải chọn khung hình phạt liền kề nhẹ hơn Điều này có nghĩa là Tòa án có thể quyết định hình phạt thấp hơn mức tối thiểu của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt đó, cụ thể là hình phạt tiền tối thiểu 1 triệu đồng, cải tạo không giam giữ tối thiểu 6 tháng và hình phạt tù tối thiểu 3 tháng.
A phạm tội theo khoản 2 Điều 168 BLHS năm 2015 và đủ điều kiện áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS Tòa án quyết định áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS, có thể đưa ra hình phạt từ 3 tháng tù (mức tối thiểu) đến dưới 7 năm tù, trong khi khung hình phạt theo khoản 2 Điều 168 BLHS quy định từ 7 năm đến 15 năm tù.
Tài liệu "VKSND Tối cao – Vụ thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử hình sự (2020)" do các đơn vị V7, V14 thực hiện, cung cấp giải đáp về những khó khăn và vướng mắc trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự Tài liệu này được trình bày tại Hội nghị Tập huấn công tác thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử hình sự, cụ thể ở Mục 21, trang 14.
Trong Chương 1, tác giả phân tích quy định của pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất theo khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 Tác giả cũng xem xét thực trạng áp dụng quy định này, chỉ ra những vướng mắc và bất cập trong thực tiễn Dựa trên những phân tích đó, tác giả đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề này.
Tác giả kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về các điều kiện và giới hạn liên quan đến quyết định hình phạt theo quy định tại khoản.
2 Điều 54 BLHS năm 2015 với các nội dung:
- Người phạm tội có thể được Tòa án áp dụng quy định tại Khoản 2 Điều 54
BLHS năm 2015 khi có đủ các điều kiện sau đây:
Điều luật áp dụng cho người phạm tội có từ hai khung hình phạt trở lên, trong đó khung hình phạt được áp dụng không phải là khung hình phạt nhẹ nhất.
+ Người phạm tội phải thuộc trường hợp phạm tội lần đầu
+ Người phạm tội phải là người giúp sức trong vụ án đồng phạm
+ Người phạm tội có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm
Tòa án có quyền áp dụng hình phạt dưới mức tối thiểu của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu quy định cho từng loại hình phạt Cụ thể, hình phạt tiền có mức tối thiểu là 1 triệu đồng, cải tạo không giam giữ (CTKGG) tối thiểu là 6 tháng, và hình phạt tù có thời hạn tối thiểu là 3 tháng.
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƯỚI MỨC THẤP NHẤT CỦA
Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đƣợc áp dụng theo khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015
Khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”
Điều kiện để người phạm tội được áp dụng quy định tại khoản 3 Điều
Khoản 3 Điều 54 BLHS quy định người phạm tội có thể được quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo khoản 3 Điều
54 BLHS khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây:
1) Người phạm tội có đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 54 BLHS – tức là người phạm tội phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS Tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS, trong đó, các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS là những tình tiết giảm nhẹ có tính phổ biến, được tổng kết từ thực tiễn xét xử và được chính thức quy định trong BLHS nên có giá trị giảm nhẹ cao hơn so với các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS Hoặc người phạm tội có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 – tức là “người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể” 19
2) Khoản 3 Điều 54 BLHS được áp dụng đối với trường hợp điều luật được áp dụng chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt được áp dụng là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật
Giới hạn quyết định hình phạt theo quy định tại khoản 3 Điều 54 BLHS
19 Xem phân tích tại mục 1.1 Chương 1 của Luận văn
Khi người phạm tội đủ điều kiện áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự, Tòa án có thể lựa chọn một trong hai phương án để quyết định hình phạt cho người phạm tội.
Tòa án có quyền áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất trong khung hình phạt, nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu quy định cho loại hình phạt đó Điều này có nghĩa là mức phạt tối thiểu phải tương ứng với quy định của pháp luật Ví dụ, trong trường hợp A phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự, tòa án sẽ xem xét các yếu tố để đưa ra mức phạt phù hợp.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS 2015, khung hình phạt nhẹ nhất cho tội danh này là từ 3 năm đến 10 năm tù Nếu A đủ điều kiện áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS và Tòa án chọn phương án 1 để quyết định hình phạt, thì mức án tối thiểu có thể là 3 tháng tù, với mức tối đa dưới 3 năm tù.
(dưới mức thấp nhất của hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS)
Phương án 2: Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn
Theo Điều 32 BLHS, có 7 loại hình phạt chính đối với người phạm tội: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình Các hình phạt này được sắp xếp theo mức độ nghiêm khắc từ nhẹ đến nặng, với cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất và tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất.
Theo khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự, nếu Tòa án chọn phương án 2 để quyết định hình phạt cho người phạm tội, thì trong 7 loại hình phạt chính được quy định tại khoản 1 Điều 32, Tòa án có quyền quyết định hình phạt phù hợp.
20 Mục 10b Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP của HĐTP TANDTC ngày 14/8/2000
21 Xem: Khoản 1 Điều 38 BLHS năm 2015
Theo các tác giả, các hình phạt chính đối với người phạm tội thường được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, tùy thuộc vào tính chất nghiêm khắc của từng hình phạt Tuy nhiên, thứ tự này có thể bị thay đổi do đặc thù hoặc mối quan hệ giữa một số hình phạt Chẳng hạn, hình phạt trục xuất được xếp sau hình phạt cấm tham gia hoạt động kinh doanh, nhưng điều này không có nghĩa là trục xuất nặng hơn Trục xuất là hình phạt độc lập chỉ áp dụng cho người nước ngoài và không thuộc nhóm hình phạt tước tự do, vì vậy nó được xếp ở vị trí cuối cùng trong nhóm hình phạt chính.
Trần Thị Quang Vinh, Vũ Thị Thúy (2011), Luật Hình sự Việt Nam (Tập bài giảng), NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, tr.185 chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn mà không bắt buộc phải chuyển sang hình phạt “liền kề nhẹ hơn”
Theo hướng dẫn của TANDTC, khi áp dụng Điều 54 BLHS (khoản 1, khoản
2 và khoản 3) đối với người phạm tội, Tòa án các cấp cần lưu ý một số vấn đề sau: 23
- Cần phải hạn chế và phải hết sức chặt chẽ khi áp dụng các quy định tại Điều
54 BLHS trong trường hợp nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều
51 BLHS, thì bị cáo phải bị xử phạt ở mức cao của khung hình phạt Thông thường trong trường hợp này khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị xét xử
- Việc quyết định hình phạt theo quy định tại Điều 54 BLHS chỉ áp dụng đối với hình phạt chính mà không áp dụng đối với hình phạt bổ sung
- Khi xét xử cùng một lần một người phạm nhiều tội, nếu tội nào mà người phạm tội thỏa mãn điều kiện để được áp dụng Điều 54 BLHS, thì có thể áp dụng Điều 54 BLHS để quyết định hình đối với tội đó, sau đó tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 BLHS
- Lý do của việc quyết định hình phạt theo quy định tại Điều 54 BLHS cần được ghi rõ trong bản án.
Thực trạng áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015
Thứ nhất, khi quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn thì Tòa án có cần phải tuân thủ điều kiện áp dụng của loại hình phạt nhẹ hơn đó hay không, hay chỉ cần chuyển sang bất kì hình phạt nào nhẹ hơn là được, đến nay vẫn chưa có cách hiểu thống nhất Về vấn đề này, vẫn còn có các quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm này cho rằng, đối với trường hợp buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị 40 triệu đồng, thuộc khoản 1 Điều 156 BLHS năm 1999, nếu người phạm tội có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 trở lên, thì chỉ có thể quyết định hình phạt tù từ 3 tháng đến dưới 6 tháng hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại hình phạt không phải là tù.
23 Mục 10 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP của HĐTP TANDTC ngày 4/8/2000 loại nhẹ hơn (cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG)” 24 thì khi quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, Tòa án có thể chuyển sang bất kỳ hình phạt nào nhẹ hơn mà không cần phải tuân thủ điều kiện áp dụng của loại hình phạt nhẹ hơn đó Cụ thể, với ví dụ 1 này, khi quyết định hình phạt tù từ 3 tháng đến dưới 6 tháng tức là Tòa án đã áp dụng phương án “quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt”, còn phương án thứ hai là Tòa án quyết định chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn Trong ví dụ này, khoản 1 Điều 156 BLHS năm 1999 quy định hình phạt tù có thời hạn Do đó, nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG Trong ví dụ trên, Tòa án có thể chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG thì điều này có nghĩa là khi quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn theo khoản 3 Điều 54 BLHS, Tòa án có thể chuyển sang bất kỳ hình phạt nào nhẹ hơn mà không cần phải tuân thủ điều kiện áp dụng của loại hình phạt nhẹ hơn đó Bởi khoản 1 Điều 156 BLHS năm 1999 có mức cao nhất của khung hình phạt là đến năm năm tù, căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 thì đây là loại tội phạm nghiêm trọng Trong khi đó, để được áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền thì loại tội phạm mà người phạm tội thực hiện phải là loại tội phạm ít nghiêm trọng; 25 để được được áp dụng hình phạt CTKGG thì loại tội phạm mà người phạm tội thực hiện có thể là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng 26 Nếu việc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn bắt buộc phải tuân thủ điều kiện áp dụng của loại hình phạt đó thì trong ví dụ 1 trên, Tòa án chỉ có thể chuyển sang hình phạt CTKGG (vì khoản 1 Điều 156 BLHS năm 19999 là loại tội phạm nghiêm trọng) mà không thể chuyển sang hình phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền được
Quan điểm thứ hai cho rằng, khi Tòa án quyết định chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn theo khoản 3 Điều 54 BLHS thì phải tuân thủ điều kiện áp dụng chung của loại hình phạt tương ứng được quy định trong BLHS năm 2015 Quan điểm này được thể hiện thông qua ví dụ sau: A phạm tội cướp giật tài sản quy
24 Khoản 1 Điều 156 BLHS năm 1999 quy định: “…thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”
Khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS, nay là khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015
25 Điều 29 BLHS năm 1999 quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”
Khoản 1 Điều 30 BLHS năm 1999 quy định: “Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định”
Theo Khoản 1 Điều 31 BLHS năm 1999, CTKGG có thể được áp dụng từ 6 tháng đến 3 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng theo quy định tại Khoản 1 Điều 171 BLHS Nếu A đủ điều kiện theo Khoản 3 Điều 54 BLHS, Tòa án có thể lựa chọn một trong hai phương án: quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, tức là phạt tù từ 3 tháng đến dưới 1 năm.
(2) chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn (áp dụng hình phạt CTKGG từ 6 tháng đến 3 năm) 27
Theo quan điểm thứ hai, khi Tòa án muốn chuyển sang hình phạt nhẹ hơn, cần tuân thủ điều kiện áp dụng của hình phạt đó Khoản 1 Điều 171 BLHS quy định hình phạt tù có thời hạn từ 1 đến 5 năm, trong khi hình phạt nhẹ hơn bao gồm cảnh cáo, phạt tiền và cải tạo không giam giữ (CTKGG) Trong trường hợp A phạm tội theo khoản 1 Điều 171 BLHS và đủ điều kiện áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS, Tòa án chỉ có thể chuyển sang hình phạt CTKGG, không thể áp dụng cảnh cáo hoặc phạt tiền Lý do là cảnh cáo chỉ áp dụng cho tội ít nghiêm trọng, trong khi A phạm tội nghiêm trọng Phạt tiền chỉ được áp dụng khi có quy định cụ thể trong luật, và Điều 171 BLHS không quy định phạt tiền là hình phạt chính Do đó, Tòa án có thể chuyển sang hình phạt CTKGG, là hình phạt nhẹ hơn dành cho tội nghiêm trọng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, theo ví dụ 2 tại mục 10b Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP, nếu một người tổ chức kết hôn cho những người chưa đủ tuổi và đã bị xử phạt hành chính, đồng thời vi phạm Điều 148 BLHS năm 1999 với hai tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999, thì không được quyết định hình phạt tù dưới 3 tháng Trong trường hợp Tòa án quyết định chuyển sang hình phạt nhẹ hơn, vẫn phải tuân thủ điều kiện áp dụng.
27 Trường Đại học Luật TP.HCM (2019), tlđd (1), tr.337
29 Xem: Khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015
30 Xem: Khoản 1 Điều 36 BLHS năm 2015 của loại hình phạt nhẹ hơn đó Bởi với ví dụ 2 này thì mặc dù Điều 148 BLHS năm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 1999, hình phạt tiền chỉ được áp dụng cho tội phạm ít nghiêm trọng trong những trường hợp cụ thể Tuy nhiên, Điều 148 của Bộ luật này không có quy định cho phép chuyển đổi sang hình phạt tiền, do đó, Tòa án không thể áp dụng hình phạt tiền cho loại tội phạm này.
Mục 10b Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP đưa ra hai ví dụ để hướng dẫn áp dụng Điều 47 BLHS năm 1999 (nay là khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015), tuy nhiên, hai ví dụ này không nhất quán và không rõ ràng trong việc thể hiện tinh thần hướng dẫn của Nghị quyết.
Việc chuyển sang hình phạt nhẹ hơn theo khoản 3 Điều 54 BLHS cần tuân thủ các điều kiện áp dụng của hình phạt đó Tuy nhiên, có một số trường hợp cụ thể gây vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định này.
Một là, đối với trường hợp quyết định chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là hình phạt cảnh cáo, CTKGG
Bản án thứ 1 (Phụ lục số 06) và nhận xét, đánh giá:
Mai Vinh Q đã vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng, gây thiệt hại cho Nhà nước với số tiền 111.152.465 đồng Theo Bản án HSST số 22/2019/HS-ST ngày 31/5/2019 của TAND tỉnh Đăk Nông, Q bị xử phạt cảnh cáo theo Điều 224, Điều 51 và Điều 54 của BLHS năm 2015 vì tội "Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng".
Mai Vinh Q phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều
Theo Điều 224 BLHS năm 2015, hình phạt nhẹ nhất cho tội phạm này là "cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm", xác định đây là loại tội phạm nghiêm trọng Trong trường hợp của Q, do đủ điều kiện áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS, Tòa án đã quyết định chuyển sang hình phạt nhẹ hơn là cảnh cáo Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với Q vẫn gây ra hai quan điểm khác nhau trong dư luận.
31 Điều 148 BLHS năm 1999 quy định: “…thì bị phạt cảnh cáo, CTKGG đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”
32 Xem: Khoản 1 Điều 30 BLHS năm 1999
33 Bản án số: 22/2019/HS-ST ngày 31/5/2019 của TAND tỉnh Đăk Nông
Quan điểm thứ nhất cho rằng, theo tinh thần của ví dụ 1 được nêu ra tại mục
Theo Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP, Tòa án có quyền chuyển sang hình phạt nhẹ hơn mà không cần tuân thủ điều kiện áp dụng của hình phạt đó Do đó, việc Tòa án tuyên phạt cảnh cáo là hoàn toàn đúng, vì theo khoản 1 Điều 224 BLHS, khung hình phạt bao gồm cả cải tạo không giam giữ (CTKGG) từ 1 đến 3 năm hoặc phạt tù từ 1 đến 5 năm Hình phạt cảnh cáo và phạt tiền được xem là nhẹ hơn so với CTKGG và tù có thời hạn, vì vậy quyết định của Tòa án là hợp lý.
Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015
Mặc dù hiện nay đã có mục 10b Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP của HĐTP TAND tối cao ngày 4/8/2000 hướng dẫn áp dụng quy định tại khoản 3 Điều
Theo phân tích tại mục 2.2 của Luận văn, quy định tại khoản 3 Điều 54 BLHS 2015 và mục 10b Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP chưa hướng dẫn đầy đủ về việc chuyển sang hình phạt nhẹ hơn, dẫn đến nhiều hạn chế trong thực tiễn áp dụng Cụ thể, các vấn đề như việc Tòa án có cần tuân thủ điều kiện áp dụng hình phạt nhẹ hơn hay không, khả năng chuyển sang hình phạt tiền, và việc áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS trong trường hợp khung hình phạt duy nhất hoặc nhẹ nhất vẫn chưa được làm rõ Những bất cập này chủ yếu xuất phát từ sự không rõ ràng của quy định và mâu thuẫn trong hướng dẫn, do đó, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để khắc phục tình trạng này.
3 Điều 54 BLHS năm 2015 (trong một số trường hợp có kèm theo ví dụ cụ thể) với những nội dung như sau:
Khi Tòa án quyết định chuyển sang hình phạt nhẹ hơn theo khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015 đối với người phạm tội, cần chú ý đến các yếu tố quan trọng sau đây.
- Tòa án có thể chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn mà không cần phải là “liền kề nhẹ hơn”
Khi Tòa án quyết định chuyển sang hình phạt nhẹ hơn, cần đảm bảo rằng các điều kiện áp dụng cho từng loại hình phạt nhẹ đó được đáp ứng đầy đủ.
+ Tòa án có thể chuyển sang hình phạt cảnh cáo đối với người phạm tội ít nghiêm trọng 39
Tòa án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ (CTKGG) đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, bao gồm cả người từ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý, hoặc người từ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng, nếu họ có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng.
Tòa án có quyền áp dụng hình phạt tiền cho những người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng trong các trường hợp xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng và an toàn công cộng, mà không cần phải tuân theo các điều kiện quy định trong Bộ luật Hình sự.
A phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 193 BLHS, với khung hình phạt từ 2 đến 5 năm tù Nếu A đủ điều kiện áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS, Tòa án có thể quyết định chuyển sang hình phạt nhẹ hơn Trong trường hợp này, Tòa án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tiền, vì cảnh cáo không phù hợp với tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà A đã thực hiện.
40 Xem: Khoản 1 Điều 36 và khoản 1 Điều 100 BLHS năm 2015
Khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015 quy định rằng có thể chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ (CTKGG) nếu A có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng Đồng thời, theo Khoản 1 Điều 193 BLHS, tội phạm này được coi là nghiêm trọng và thuộc chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, do đó Tòa án có quyền áp dụng hình phạt tiền đối với A.
Trong trường hợp áp dụng khung hình phạt duy nhất hoặc khung hình phạt nhẹ nhất, có thể chuyển sang hình phạt nhẹ hơn nếu quy định chế tài lựa chọn cho phép Các hình phạt có thể bao gồm cảnh cáo, phạt tiền hoặc công việc công ích.
Điều 54 trong Bộ luật Hình sự (BLHS) được quy định nhằm đảm bảo rằng hình phạt của Tòa án đối với người phạm tội phải tương xứng với các đặc điểm nhân thân, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội Mỗi khoản trong Điều 54 đều sử dụng cụm từ “có thể”, cho thấy rằng quyết định áp dụng hay không áp dụng điều này sẽ phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xem xét.
Nếu Tòa án xác định rằng bị cáo không có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 BLHS hoặc không phải là người phạm tội lần đầu với vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm, bị cáo sẽ bị xử phạt ở mức cao nhất của khung hình phạt Ngược lại, nếu bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc là người phạm tội lần đầu với vai trò không đáng kể, Tòa án có thể quyết định hình phạt ở mức thấp hơn trong khung hình phạt mà không áp dụng Điều 54 BLHS.
Nếu Tòa án xác định rằng người phạm tội không có nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc không phải là người phạm tội lần đầu với vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm, bị cáo có thể bị xử phạt ở mức thấp hoặc mức thấp nhất của khung hình phạt Ngược lại, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc là người phạm tội lần đầu với vai trò không đáng kể, Tòa án sẽ áp dụng Điều 54 BLHS để đảm bảo hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi.
Chuyển sang hình phạt nhẹ hơn trong trường hợp khung hình phạt duy nhất hoặc khung hình phạt nhẹ nhất có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc công trình cải tạo giam giữ được thực hiện theo quy định cụ thể.
Nếu trong khung hình phạt đã quy định hình phạt cảnh cáo, Tòa án không thể chuyển sang hình phạt nhẹ hơn theo khoản 3 Điều 54 BLHS Nếu người phạm tội không đủ điều kiện để được miễn hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo theo quy định trong khung hình phạt.
Nếu trong khung hình phạt có quy định hình phạt cảnh cáo và hình phạt CTKGG, Tòa án không thể áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS để chuyển sang hình phạt nhẹ hơn cho người phạm tội Nếu người phạm tội không đủ điều kiện để được miễn hình phạt hoặc miễn TNHS, Tòa án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo theo quy định trong khung hình phạt.
Nếu trong khung hình phạt có quy định hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù có thời hạn, Tòa án có thể áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS để chuyển sang hình phạt nhẹ hơn là cảnh cáo đối với người phạm tội nếu hành vi phạm tội thuộc loại ít nghiêm trọng.