1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Thực hiện dự án phát triển sạch trong lĩnh vực quản lý chất thải tại việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

86 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Hiện Dự Án Phát Triển Sạch Trong Lĩnh Vực Quản Lý Chất Thải Tại Việt Nam
Tác giả Lê Thị Thanh Minh
Người hướng dẫn TS. Phạm Văn Võ
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sỹ Luật Học
Năm xuất bản 2011
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 86
Dung lượng 612,47 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH (15)
    • 1.1. Biến đổi khí hậu và sự ra đời Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu 1992, Nghị định thư Kyoto 1997 (15)
      • 1.1.1. Biến đổi khí hậu (15)
      • 1.1.2. Sự ra đời Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (16)
      • 1.1.3. Sự ra đời của Nghị định thư Kyoto 1997 (17)
    • 1.2. Cơ chế thực hiện việc cắt giảm khí nhà kính theo Nghị định thư Kyoto và dự án phát triển sạch (18)
      • 1.2.1. Cơ chế thực hiện việc cắt giảm khí nhà kính theo Nghị định thư Kyoto (18)
      • 1.2.2. Dự án phát triển sạch (22)
  • CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CỦA VIỆC THỰC HIỆN DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH THỰC HIỆN DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH TẠI VIỆT NAM (32)
    • 2.1. Những vấn đề pháp lý của việc thực hiện dự án phát triển sạch tại Việt Nam (32)
      • 2.1.1. Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật quốc gia trong việc thực hiện dự án phát triển sạch tại Việt Nam (32)
      • 2.1.2. Những quy định của pháp luật Việt Nam về phát triển sạch (34)
    • 2.2. Tổng quan tình hình thực hiện dự án phát triển sạch tại Việt Nam (43)
      • 2.2.1. Tình hình thực hiện dự án phát triển sạch tại Việt Nam (43)
      • 2.2.2. Doanh nghiệp tham gia dự án CDM (0)
      • 2.2.3. Hình thức thực hiện dự án CDM tại Việt Nam (0)
  • CHƯƠNG 3: THỰC HIỆN DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ CHẤT THẢI TẠI VIỆT NAM (48)
    • 3.1. Khái niệm quản lý chất thải và dự án phát triển sạch trong lĩnh vực quản lý chất thải (48)
      • 3.1.1. Khái niệm quản lý chất thải (48)
      • 3.1.2. Dự án phát triển sạch trong lĩnh vực quản lý chất thải (49)
      • 3.2.1. Thuận lợi (50)
      • 3.2.2. Khó khăn (54)
    • 3.3. Đánh giá kết quả thực hiện dự án CDM trong lĩnh vực quản lý chất thải tại Việt (68)
  • CHƯƠNG 4: NHỮNG KIẾN NGHỊ CHO VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ (72)
    • 4.1. Giải pháp về đánh giá nhu cầu thị trường (72)
    • 4.2. Giải pháp về nâng cao nhận thức (74)
    • 4.3. Giải pháp về hoàn thiện thủ tục (75)
      • 4.3.1. Cơ chế giám sát thực hiện và trách nhiệm của cơ quan liên quan (75)
      • 4.3.2. Quy định về danh mục các dự án ưu tiên xem xét và giải quyết (77)
      • 4.3.3. Hoàn thiện các quy định cụ thể và các chính sách có liên quan đến thực hiện dự án CDM trong lĩnh vực quản lý chất thải (0)
    • 4.4. Giải pháp về việc tiếp cận thông tin (79)
    • 4.5. Giải pháp về nguồn vốn (80)
    • 4.6. Giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (81)
    • 4.7. Các giải pháp khác (82)
      • 4.7.1. Phổ biến kiến thức về phát triển sạch đến các doanh nghiệp, toàn dân (82)
      • 4.7.2. Hoàn thiện, cập nhật cẩm nang về CDM (0)
  • KẾT LUẬN (31)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH

Biến đổi khí hậu và sự ra đời Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu 1992, Nghị định thư Kyoto 1997

Theo Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992, biến đổi khí hậu được định nghĩa là sự thay đổi khí hậu do hoạt động của con người, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thành phần khí quyển toàn cầu Sự thay đổi này cộng thêm vào khả năng biến động tự nhiên của khí hậu, được quan sát trong các thời kỳ có thể so sánh.

Thiên tai bất thường mang đến những hậu quả khó lường, nhưng hiệu ứng nhà kính và sự ấm lên toàn cầu lại là hệ quả rõ rệt của hoạt động can thiệp của con người vào môi trường Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, kỹ thuật và cuộc cách mạng công nghiệp đã thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, dẫn đến sự gia tăng đáng kể lượng khí nhà kính trong khí quyển, góp phần làm tăng nhiệt độ bề mặt trái đất.

Nhiệt độ bề mặt trái đất phụ thuộc vào sự cân bằng giữa năng lượng mặt trời và năng lượng bức xạ của trái đất Năng lượng mặt trời, chủ yếu là các tia sóng ngắn, dễ dàng xuyên qua khí quyển, trong khi bức xạ của trái đất với nhiệt độ trung bình +16°C là sóng dài có năng lượng thấp và dễ bị khí quyển giữ lại Sự trao đổi không cân bằng năng lượng này dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển, tương tự như cơ chế hoạt động của nhà kính, và hiện tượng này được gọi là hiệu ứng nhà kính.

Biến đổi khí hậu không chỉ đơn thuần là hiện tượng hiệu ứng nhà kính làm trái đất ấm lên, mà còn dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng Những thay đổi trong thành phần và chất lượng khí quyển đang gây hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật Bên cạnh đó, sự dâng cao mực nước biển cũng là một trong những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.

Khoản 2, Điều 1 của Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992, được dịch sang tiếng Việt bởi Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường, nêu rõ các khái niệm và nguyên tắc cơ bản liên quan đến biến đổi khí hậu, nhằm thúc đẩy sự hợp tác toàn cầu trong việc ứng phó với thách thức này.

Sự tan băng đang gây ra ngập úng tại các vùng đất thấp và đảo nhỏ, đồng thời làm thay đổi các đới khí hậu đã tồn tại hàng nghìn năm, đe dọa sự sống của nhiều loài sinh vật và hệ sinh thái Những biến đổi này cũng ảnh hưởng đến hoạt động của con người và làm thay đổi năng suất sinh học, chất lượng cũng như thành phần của thủy quyển, sinh quyển và địa quyển.

Xu hướng khí hậu biến đổi theo chiều xấu đang trở thành một mối quan tâm toàn cầu, là thách thức không chỉ đối với từng cá nhân hay quốc gia mà là vấn đề chung của nhân loại.

1.1.2 Sự ra đời Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn nhân loại do những tác động nguy hại mà nó gây ra Để giảm nhẹ tình trạng này, cộng đồng quốc tế đã thực hiện nhiều nỗ lực, đặc biệt là thông qua việc ký kết Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) tại hội nghị thượng đỉnh ở Rio de Janeiro, Brazil vào tháng 6 năm 1992, có hiệu lực từ tháng 3/1994.

Mục tiêu của UNFCCC là ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển để ngăn chặn sự can thiệp nguy hiểm vào hệ thống khí hậu Để đạt được điều này, các quốc gia tham gia cần có cam kết chung trong việc chống lại biến đổi khí hậu, điều chỉnh theo điều kiện cụ thể của từng nước Công ước phân chia các quốc gia thành hai nhóm: các bên phụ lục I, bao gồm các nước công nghiệp có trách nhiệm lớn trong việc gây ra biến đổi khí hậu, và các bên ngoài phụ lục I, chủ yếu là các nước đang phát triển Nguyên tắc "trách nhiệm chung nhưng khác nhau" yêu cầu các bên phụ lục I giảm phát thải khí nhà kính xuống mức của năm 1990 trước năm 2000, đồng thời phải báo cáo định kỳ và công bố các chương trình chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu.

Mặc dù UNFCCC đã đặt ra những quy định nguyên tắc cho việc giảm khí nhà kính, nhưng không xác định rõ ràng lộ trình thực hiện, mức độ cắt giảm cụ thể và trách nhiệm của từng quốc gia Việc dung hòa lợi ích giữa các quốc gia trong một Công ước là thách thức lớn, khi mỗi quốc gia đều ưu tiên bảo vệ quyền lợi riêng Để đạt được sự thống nhất trong hoạt động cắt giảm khí thải và đảm bảo sự bền vững toàn cầu, cần thiết phải có những thỏa thuận và khung pháp lý quốc tế mới, chi tiết hơn.

1.1.3 Sự ra đời của Nghị định thư Kyoto 1997

Từ khi UNFCCC ra đời, lượng khí thải vẫn tiếp tục gia tăng, những bằng chứng về trái đất nóng dần lên ngày càng rõ ràng hơn

Biến đổi khí hậu xuất phát từ việc phát thải khí nhà kính quá mức do hoạt động kinh tế xã hội của con người Mặc dù không ai có thể dự đoán chính xác mức độ tăng nhiệt độ của trái đất, nhưng những hậu quả nghiêm trọng như mực nước biển dâng, thay đổi hệ thống thời tiết và gia tăng cường độ bão đã thúc đẩy các chính trị gia hành động Chính vì vậy, các cuộc đàm phán về Nghị định thư Kyoto đã được khởi động.

Nghị định thư Kyoto, được thông qua vào tháng 12 năm 1997 tại Kyoto, Nhật Bản, là một phần quan trọng của Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu Nghị định thư này xác định các thể thức và cơ chế hỗ trợ các bên đạt được mục tiêu cam kết, mặc dù chưa đi sâu vào chi tiết Sau khi ký kết, các cuộc đàm phán tiếp tục diễn ra để xây dựng chi tiết thực hiện và đảm bảo các quy định của Nghị định thư được thi hành Đến năm 2001, các chính phủ đã đạt được thỏa thuận Marrakech, cung cấp nguyên tắc chung cho việc thực hiện Nghị định thư Kyoto và thông tin cần thiết cho các quốc gia khi xem xét phê chuẩn.

Nghị định thư Kyoto có hiệu lực từ ngày 16/2/2005 sau khi Cộng hòa Liên bang Nga phê chuẩn, đáp ứng yêu cầu có ít nhất 55 bên tham gia, bao gồm các bên thuộc phụ lục I, với tổng lượng phát thải chiếm ít nhất 55% tổng lượng phát thải CO2 hàng năm.

1990 của các bên thuộc phụ lục I nộp lưu chiếu các văn bản phê chuẩn, phê duyệt, chấp thuận hoặc gia nhập của mình” 3

Hiện tại, có 193 bên tham gia NĐT, bao gồm 192 quốc gia và 1 tổ chức liên kết kinh tế khu vực Tổng lượng phát thải CO2 của các bên thuộc phụ lục I chiếm 63,7% tổng lượng phát thải toàn cầu.

3 Khoản 1, Điều 25 NĐT Kyoto 1997, bản dịch tiếng Việt của Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường

Mỹ là nước duy nhất nằm trong phụ lục I không phê chuẩn NĐT dù đã tham gia kí kết 4

NĐT Kyoto yêu cầu các bên tham gia phụ lục I trong giai đoạn cam kết 2008-2012 phải đảm bảo rằng tổng lượng phát thải khí nhà kính tương đương CO2 do con người gây ra, được liệt kê trong phụ lục A, không vượt quá mức giới hạn đã được quy định trong phụ lục.

B, với mục đích giảm tổng lượng phát thải của các khí đó ít nhất 5% so với mức năm

Cơ chế thực hiện việc cắt giảm khí nhà kính theo Nghị định thư Kyoto và dự án phát triển sạch

1.2.1 Cơ chế thực hiện việc cắt giảm khí nhà kính theo Nghị định thư Kyoto

Nghị định thư Kyoto thiết lập ba cơ chế hỗ trợ các quốc gia công nghiệp (các bên phụ lục I) giảm phát thải khí nhà kính với chi phí tối ưu, bao gồm: mua bán phát thải quốc tế (IET), đồng thực hiện (JI) và cơ chế phát triển sạch (CDM).

1.2.1.1 Cơ chế mua bán phát thải quốc tế

Cơ chế này qui định tại Điều 17 NĐT Kyoto

Theo cơ chế quy định trong Phụ lục B NĐT, các bên có thể tham gia vào hoạt động mua bán phát thải để hoàn thành các cam kết giảm phát thải của mình Mọi giao dịch phát thải sẽ được thực hiện song song với các hành động trong nước nhằm đáp ứng các mục tiêu giảm và hạn chế phát thải định lượng Cơ chế này cho phép các quốc gia phát thải một lượng khí nhất định vào bầu khí quyển theo giới hạn cho phép.

4 http://unfccc.int/kyoto_protocol/status_of_ratification/items/2613.php

5 Khoản 1, Điều 3 NĐT Kyoto, bản dịch tiếng Việt của Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường

6 Điều 2 Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu 1992, bản dịch tiếng Việt của Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường

Theo Điều 17 Nghị định thư Kyoto, các quốc gia có chỉ tiêu phát thải khí nhà kính nhưng không sử dụng hết có quyền bán lượng khí phát thải này cho các quốc gia khác có nhu cầu Khi một quốc gia bán chỉ tiêu phát thải, lượng phát thải đó sẽ được trừ vào chỉ tiêu của quốc gia bán Ngược lại, các quốc gia mua chỉ tiêu phát thải sẽ được cộng phần chỉ tiêu đã mua vào chỉ tiêu phát thải của mình.

Chủ thể tham gia theo cơ chế quy định tại NĐT có vai trò pháp lý quan trọng trong việc hỗ trợ các nước công nghiệp thực hiện các cam kết giảm khí phát thải Các nước này phải nằm trong phụ lục B của NĐT Đối tượng giao dịch phát thải bao gồm CERs, lượng phát thải được chỉ định (AAU) và đơn vị giảm thải theo cơ chế JI (ERU).

Cách thức thực hiện: Để mua bán quyền xả thải các nước công nghiệp phát triển có hai cách thực hiện:

- Các quốc gia phát triển sẽ nhân danh chính mình tham gia vào các giao dịch mua bán quyền xả thải

Các quốc gia phát triển sẽ chia nhỏ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho các doanh nghiệp trong nước Các doanh nghiệp này sẽ tự tìm kiếm đối tác để thực hiện giao dịch và trao đổi quyền phát thải khí nhà kính.

1.2.1.2 Cơ chế đồng thực hiện

Cơ chế đồng thực hiện được qui định tại Điều 6 NĐT Kyoto

Theo cơ chế hợp tác quốc tế, các nước công nghiệp có thể cùng nhau triển khai các phương án bảo vệ khí hậu Khi một dự án bảo vệ môi trường diễn ra tại nước A, nước B có thể tham gia thông qua việc chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tài chính hoặc các biện pháp phù hợp khác để nâng cao hiệu quả của dự án Nếu dự án thành công và nước A giảm được lượng khí nhà kính nhất định, theo Điều 6 Nghị định thư Kyoto, nước B sẽ nhận được đơn vị giảm phát thải tương ứng với lượng khí nhà kính đã được cắt giảm.

Dự án chung giữa hai nước A và B sẽ góp phần vào việc giảm phát thải, đồng thời những hoạt động này sẽ được tính vào các cam kết thực hiện trong Nghị định thư của nước B.

Cơ chế đồng thực hiện mang lại cho một bên sự linh hoạt và tiết kiệm chi phí trong việc thực hiện các cam kết với nhà đầu tư Đồng thời, bên còn lại cũng thu được lợi ích từ đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ.

Theo Điều 6, khoản 1 của Nghị định thư Kyoto, các bên tham gia cơ chế này bao gồm những quốc gia đã phê chuẩn Nghị định thư và tất cả đều thuộc phụ lục I của Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC).

Cơ chế JI chỉ công nhận các dự án thỏa mãn đầy đủ các điều kiện:

- Việc thực hiện dự án phải có sự tán thành của các bên tham gia;

- Mục tiêu thực hiện dự án là nhằm giảm các phát thải khí nhà kính, tăng cường sự trừ khử của các bể hấp thụ

Đơn vị tiếp nhận giảm phát thải chỉ có thể thực hiện việc này sau khi hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ quy định tại Điều 5 và Điều 7 của Nghị định thư Kyoto, nhằm đảm bảo việc kiểm tra và giám sát kết quả từ dự án JI theo Khoản 1, Điều 6 của Nghị định thư Kyoto.

1.2.1.3 Cơ chế phát triển sạch

CDM được qui định tại Điều 12 NĐT Kyoto

Cơ chế này được đặt ra với mục đích nhằm giúp các bên không thuộc phụ lục

I đạt được sự phát triển bền vững và đóng góp vào mục tiêu cuối cùng của UNFCCC và hạn chế phát thải định lượng theo Điều 3 NĐT 9

Nội dung của cơ chế:

CDM (Cơ chế Phát triển Sạch) là một cơ chế hợp tác đầu tư giữa các nước phát triển và đang phát triển, cho phép các tổ chức và doanh nghiệp từ nước phát triển thực hiện các dự án giảm phát thải khí nhà kính tại nước đang phát triển Qua đó, họ nhận được Giảm phát thải được chứng nhận (CERs), giúp các nước phát triển đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo cam kết CERs được tính vào chỉ tiêu giảm phát thải của các nước phát triển, hỗ trợ họ trong việc thực hiện các cam kết giảm phát thải định lượng khí nhà kính.

1 CER = 1 tấn CO 2 tương đương

1 tấn CH 4 = 21 tấn CO 2 tương đương

1 tấn N 2 O = 310 tấn CO 2 tương đương

8 http://unfccc.int/kyoto_protocol/mechanisms/joint_implementation/items/1674.php

9 Xem khoản 2, Điều 12 NĐT Kyoto, bản dịch tiếng Việt của Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường

Chủ thể tham gia vào cơ chế CDM là các quốc gia phát triển và đang phát triển, với mục tiêu cắt giảm khí nhà kính thực tế CDM hoạt động như một cơ chế đầu tư, cho phép các quốc gia thuộc Phụ lục I đầu tư vào các dự án cắt giảm khí thải tại các quốc gia đang phát triển.

Các quốc gia công nghiệp áp dụng các biện pháp, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến nhằm giảm thiểu khí nhà kính phát thải vào bầu khí quyển Kết quả từ quá trình đầu tư này được tính vào chỉ tiêu giảm phát thải của các quốc gia công nghiệp.

Cách thứ hai để thực hiện theo cơ chế phát triển sạch (CDM) là thông qua việc mua bán chứng chỉ giảm phát thải (CERs) Các quốc gia đang phát triển tham gia vào quan hệ này với tư cách là bên bán, vì họ không bị giới hạn về phát thải khí nhà kính theo quy định của UNFCCC Điều này cho phép họ phát thải vào bầu khí quyển và bán quyền phát thải này cho các quốc gia phát triển thông qua các dự án CDM nhằm giảm lượng khí nhà kính Qua quá trình mua bán, các quốc gia đang phát triển nhận được tài chính để đầu tư vào công nghệ sạch và các dự án giảm phát thải Lượng phát thải từ các dự án này được tính vào nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính của quốc gia đã mua quyền phát thải.

Như vậy, NĐT Kyoto đã thiết lập cách tiếp cận linh hoạt cho các nước phụ lục

NĐT Kyoto cho phép các nước phát triển cắt giảm phát thải khí nhà kính bằng cách mua lượng khí cắt giảm từ các nước đang phát triển thông qua tài chính hoặc hỗ trợ công nghệ Mặc dù các nước đang phát triển không bị ràng buộc phải giới hạn khí thải, nhưng khi họ tham gia chương trình cắt giảm, họ có thể bán CERs cho các nước phụ lục I Quy định này giúp giảm chi phí cho các nước phát triển đã đầu tư hiệu quả vào bảo vệ môi trường, đồng thời khuyến khích các nước đang phát triển tham gia vào NĐT Kyoto để giảm khí gây hiệu ứng nhà kính, hướng tới phát triển bền vững và thu hút thêm đầu tư.

1.2.2 Dự án phát triển sạch

1.2.2.1 Lĩnh vực, điều kiện, tài chính dự án phát triển sạch a Lĩnh vực

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CỦA VIỆC THỰC HIỆN DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH THỰC HIỆN DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH TẠI VIỆT NAM

Những vấn đề pháp lý của việc thực hiện dự án phát triển sạch tại Việt Nam

2.1.1 Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật quốc gia trong việc thực hiện dự án phát triển sạch tại Việt Nam

Công ước khung 1992 và NĐT Kyoto 1997 đã thiết lập một khuôn khổ pháp lý toàn cầu nhằm kiểm soát phát thải khí nhà kính, và Việt Nam tham gia vào các hiệp định này thể hiện cam kết bảo vệ môi trường Thực hiện dự án CDM tại Việt Nam không chỉ giúp giảm thiểu vấn đề môi trường mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh cho thị trường nhờ vào chuyển giao công nghệ Hơn nữa, CDM còn mang lại lợi ích xã hội như tạo ra việc làm và cải thiện thu nhập cho người dân.

Các dự án CDM tại Việt Nam phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của luật quốc tế, đồng thời yêu cầu quốc gia thực hiện dự án cần có các chính sách và quy định phù hợp Do đó, Việt Nam cần ban hành các quy định về CDM để đáp ứng yêu cầu của luật quốc tế.

Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto và do đó có trách nhiệm tuân thủ các quy định của Nghị định thư này Để một dự án tại Việt Nam được công nhận là dự án cơ chế phát triển sạch (CDM), nó phải đáp ứng các điều kiện và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định quốc tế liên quan đến CDM Các quy định này không bao quát tất cả các điều khoản quốc tế cần thiết cho việc triển khai dự án, nhưng chúng đặt ra yêu cầu từ giai đoạn thiết kế, xây dựng đến vận hành, thẩm tra và cấp Giấy chứng nhận giảm phát thải (CERs) Điều kiện tiên quyết quan trọng nhất là các nước làm chủ dự án phải là thành viên của Nghị định thư Kyoto, điều này yêu cầu Việt Nam phải phê chuẩn Nghị định thư.

17 Khoản 30, phần F phụ lục “Những nguyên tắc và quy trình của CDM”, Quyết định của Hội nghị các bên CP1

Theo quy định quốc tế, mỗi quốc gia thành viên tham gia CDM cần thành lập một cơ quan quốc gia về CDM để xác nhận và phê duyệt các dự án, đồng thời làm đầu mối phối hợp với quốc tế Do đó, nước chủ nhà không thể hoàn toàn dựa vào NĐT Kyoto; việc thành lập DNA là yêu cầu của quy định quốc tế, nhưng quyết định thực hiện lại thuộc về chính Việt Nam.

Để đảm bảo các dự án CDM đạt tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, các quốc gia cần tuân thủ quy trình thực hiện CDM theo luật quốc tế Mặc dù quy định quốc tế không chỉ rõ các quy trình xác nhận và phê duyệt dự án, nhưng yêu cầu nước chủ nhà tự quyết định Các yêu cầu về PDD, tính bền vững và tính bổ sung của dự án là cơ sở để thẩm tra và đăng ký Do đó, nước chủ nhà phải ban hành quy định chi tiết về thủ tục và yêu cầu cho bên xây dựng dự án, dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế về CDM, đảm bảo tính bền vững, phương pháp xây dựng hợp lý và chứng minh tính bổ sung của dự án.

Tính bền vững và bổ sung của dự án cần tuân thủ không chỉ các quy định quốc tế mà còn phải phù hợp với chính sách và quy định của nước chủ nhà Do đó, Việt Nam cần xem xét và phát triển các chiến lược quốc gia, chính sách về môi trường và năng lượng, cùng với các định hướng chiến lược phát triển bền vững để đảm bảo sự phát triển hài hòa và bền vững.

Pháp luật Việt Nam cần hoàn thiện các quy định để tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho việc xác nhận và phê duyệt nhanh chóng các dự án CDM Điều này là cần thiết để đảm bảo rằng các dự án này được EB chấp nhận đăng ký là dự án CDM.

Để thu hút nguồn vốn đầu tư từ các nước phát triển vào công nghệ sạch, Việt Nam cần tạo cơ sở thuận lợi cho các nhà đầu tư thông qua dự án CDM, giúp giảm nhẹ vấn đề môi trường và mang lại lợi ích kinh tế - xã hội Việc ban hành các quy định và chính sách hỗ trợ sẽ tạo điều kiện cho dự án triển khai hiệu quả, đồng thời cung cấp các ưu đãi hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện.

Để thúc đẩy và thực hiện hiệu quả các dự án CDM tại Việt Nam, cần thiết phải có những quy định cụ thể phù hợp với luật quốc tế, không chỉ dựa vào các quy định quốc tế hiện hành Việt Nam đã chủ động ban hành, sửa đổi và hoàn thiện các văn bản, chính sách nhằm khuyến khích phát triển các dự án phát triển sạch, từ đó góp phần vào mục tiêu chung của nhân loại và đáp ứng yêu cầu quốc tế về CDM.

2.1.2 Những quy định của pháp luật Việt Nam về phát triển sạch

2.1.2.1 Về hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto vào ngày 25 tháng 9 năm 2002 Để đáp ứng các yêu cầu quốc tế và khuyến khích đầu tư vào các dự án Cơ chế phát triển sạch (CDM), Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng trong thời gian qua.

Văn bản số 465/BTNMT-HTQT, ban hành ngày 02/03/2003, là văn bản đầu tiên của Việt Nam quy định về việc xác định, phát triển và đăng ký dự án theo cơ chế phát triển sạch (CDM).

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 35/2005/CT-TTg vào ngày 17/10/2005 nhằm triển khai Nghị định thư Kyoto thuộc UNFCCC, qua đó Việt Nam được hưởng quyền lợi từ các nước phát triển trong việc nhận hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ thông qua các dự án CDM Để thực hiện hiệu quả Nghị định thư Kyoto về biến đổi khí hậu, Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành phối hợp xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện, nghiên cứu thị trường CERs, và hướng dẫn xây dựng dự án CDM Đồng thời, cần lồng ghép các hoạt động CDM với các cam kết quốc tế khác và nâng cao nhận thức cộng đồng về biến đổi khí hậu Việt Nam cũng đã ban hành các quyết định quan trọng như Quyết định số 1016/QĐ-BTNMT và Quyết định số 47/2007/QĐ-TTg để thành lập Ủy ban chỉ đạo và phê duyệt kế hoạch thực hiện Nghị định thư Kyoto giai đoạn 2007-2010, tạo điều kiện cho các dự án CDM phát triển hiệu quả.

Thông tư số 10/2006/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ban hành ngày 12/12/2006, là văn bản đầu tiên hướng dẫn xây dựng dự án cơ chế phát triển sạch (CDM) tại Việt Nam trong khuôn khổ Nghị định thư Kyoto Thông tư này quy định chi tiết về khái niệm CDM, các đối tượng có quyền thực hiện dự án, lĩnh vực có thể áp dụng, yêu cầu đối với dự án, cũng như quy trình chuẩn bị, xây dựng, xác nhận và phê duyệt dự án CDM Tuy nhiên, Thông tư 10/2006/TT-BTNMT đã hết hiệu lực và được thay thế bởi Thông tư 12/2010/TT-BTNMT, có hiệu lực từ ngày 10/9/2010.

Việt Nam đã ban hành các văn bản quy định cụ thể hơn về thực hiện dự án CDM tại Việt Nam như:

Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 2/8/2007 quy định các cơ chế và chính sách tài chính cho dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch (CDM) Quyết định này bao gồm các điều khoản liên quan đến lĩnh vực, hình thức, và điều kiện xây dựng, đầu tư thực hiện dự án CDM, đồng thời nêu rõ quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong quá trình xây dựng và thực hiện dự án.

CDM (Cơ chế phát triển sạch) là một phương pháp quản lý và sử dụng hiệu quả các Giấy chứng nhận giảm phát thải (CERs) Việc hạch toán chi phí, thu nhập và khấu hao tài sản cố định trong các dự án CDM cần tuân thủ các quy định về thuế và trợ giá Những quy định này không chỉ dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế về CDM mà còn nhằm khuyến khích sự phát triển của các dự án CDM tại Việt Nam.

Tổng quan tình hình thực hiện dự án phát triển sạch tại Việt Nam

2.2.1 Tình hình thực hiện dự án phát triển sạch tại Việt Nam:

Tính đến ngày 01 tháng 2 năm 2011, trên toàn thế giới có khoảng 5.900 dự án CDM, trong đó Việt Nam có 154 dự án, chiếm 2,6% tổng số Tuy nhiên, chỉ có 48 dự án CDM được đăng ký, khiến Việt Nam trở thành một trong mười quốc gia hàng đầu về CDM, nhưng lại có tỷ lệ đăng ký thấp nhất trong 15 quốc gia dẫn đầu.

26 http://www.nea.gov.vn/VN/tintuc/tinnoibo/Documents/7%20PrR2_Vol%2008_%20CDM%20bottle%20neck.pdf

Số lượng dự án CDM đã đăng ký (a)

Số lượng dự án CDM đã đăng ký hoặc đang triển khai (b)

Bảng 1: Tỉ lệ đăng ký các dự án CDM

Theo bảng 1, tỷ lệ đăng ký dự án CDM tại Việt Nam chỉ đạt 31,2%, thấp nhất trong khu vực, mặc dù số lượng dự án triển khai đứng thứ 8 Điều này phản ánh những vướng mắc trong quy trình thực hiện dự án CDM, nơi mà các bước như chuẩn bị, xác nhận, phê duyệt và thẩm tra dự án phải tuân thủ quy định quốc tế Tỷ lệ đăng ký thấp cho thấy rằng cơ chế, thủ tục và chính sách khuyến khích triển khai dự án CDM tại Việt Nam vẫn chưa hiệu quả.

Theo Cục khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu, tính đến tháng 10 năm 2011, Việt Nam đã có 79 dự án CDM được đăng ký, với tổng lượng giảm phát thải đạt 34.909.595 tCO2 Hiện tại, có 214 dự án CDM đang thực hiện, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực năng lượng, xử lý chất thải và lâm nghiệp, như dự án gạch không nung, nồi hơi sinh khối, và thu hồi khí mêtan Đặc biệt, ngành thủy điện chiếm tỷ lệ lớn trong số các dự án này Việt Nam có khả năng mở rộng số lượng dự án CDM sang nhiều lĩnh vực khác theo quy định của Nghị định thư Kyoto và pháp luật Việt Nam.

Từ tháng 2 đến tháng 10 năm 2011, số lượng dự án CDM tại Việt Nam đã tăng từ 48 lên 79 dự án, cho thấy sự phát triển tích cực trong cơ chế và chính sách hỗ trợ của chính phủ Việt Nam đối với các dự án này.

Trước khi thông tư số 12/2010/TT-BTNMT có hiệu lực, việc chuẩn bị hồ sơ dự án CDM là một thách thức lớn đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư Tuy nhiên, thông tư này đã giải quyết nhiều vướng mắc, giúp quy trình phê duyệt trở nên rõ ràng và hiệu quả hơn Đến tháng 4/2011, thông tư 15/2011/TT-BTNMT đã sửa đổi, rút ngắn quy trình và thời gian phê duyệt, đồng thời đơn giản hóa hồ sơ đề nghị Những cải cách này đã góp phần giảm thiểu thủ tục rườm rà, từ đó thúc đẩy triển khai các dự án CDM tại Việt Nam Việc ban hành hai thông tư này là điều kiện quan trọng để khuyến khích sự phát triển của các dự án CDM trong nước.

Dự án “Thu hồi và sử dụng khí đồng hành mỏ Rạng Đông” của Tổng công ty dầu khí Việt Nam cùng các đối tác quốc tế là dự án CDM đầu tiên và lớn nhất tại Việt Nam thu được tiền bán CER Thành công của dự án nhờ vào sự đầu tư từ doanh nghiệp lớn có hoạt động tài chính mạnh và quan hệ quốc tế tốt Hiện tại, 4 công ty đã đăng ký CERs tại quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam cho dự án này Đến nay, quỹ đã thẩm định lệ phí chuyển CERs cho 2 công ty dầu khí Việt Nhật và ConocoPhillips Gama Ltd, thu được tổng cộng 927.366 Euro cho 2.357.768 CERs Các dự án CDM còn lại chủ yếu là thủy điện và năng lượng tái tạo.

Các lĩnh vực như điện, trồng rừng, tái chế năng lượng tại bãi chôn lấp rác thải và xử lý nước thải tại nhà máy chế biến tinh bột sắn có tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính nhanh chóng Việc thu hồi khí mêtan từ hệ thống xử lý nước thải cũng là một giải pháp hiệu quả Những hoạt động này thường dễ dàng được Ủy ban Châu Âu chấp nhận.

2.2.2 Doanh nghiệp tham gia dự án phát triển sạch

Hiện nay, tại Việt Nam có hai loại doanh nghiệp tham gia dự án CDM: doanh nghiệp đầu tư dự án và doanh nghiệp tư vấn xây dựng dự án Cả hai loại hình doanh nghiệp này đều tuân thủ quy định tại điều 4 của Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg về hình thức đầu tư cho dự án CDM.

Doanh nghiệp đầu tư vào dự án CDM có thể là nhà đầu tư trong nước hoặc nước ngoài Tuy nhiên, các nhà đầu tư trong nước tại Việt Nam hiện nay vẫn gặp khó khăn về tài chính, không đủ khả năng để triển khai các dự án CDM quy mô lớn.

Doanh nghiệp tư vấn xây dựng dự án CDM tại Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nhà đầu tư lập hồ sơ, thực hiện thủ tục và đàm phán giá CERs Mặc dù việc thuê công ty tư vấn sẽ phát sinh chi phí, nhưng nó giúp đảm bảo quy trình và triển khai dự án tuân thủ đúng yêu cầu của nước chủ nhà, đồng thời có thể mang lại giá bán tốt hơn Hiện nay, nhu cầu về các công ty tư vấn dự án CDM tại Việt Nam đang gia tăng, tuy nhiên, số lượng công ty có năng lực chuyên môn và pháp lý thực sự còn hạn chế.

2.2.3 Hình thức thực hiện dự án phát triển sạch tại Việt Nam:

Theo các chuyên gia từ Trung tâm sản xuất sạch Việt Nam, các dự án CDM tại Việt Nam và nhiều nước khác chủ yếu do các tổ chức từ các nước phát triển thực hiện, thông qua các công ty cung cấp công nghệ Họ tìm kiếm các quốc gia đang phát triển có tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính để triển khai dự án Điều này cho thấy thị trường buôn bán phát thải hiện nay chủ yếu mang tính một chiều, với người mua chủ động tìm kiếm nguồn cung cấp sản phẩm Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm kiếm và kêu gọi các nhà đầu tư cũng như người tiêu dùng có nhu cầu mua CERs để thu hút vốn nước ngoài cho các dự án CDM tiềm năng của mình.

Dự án phát triển sạch (CDM) là kênh hiệu quả để thu hút vốn nước ngoài nhằm chống biến đổi khí hậu Việt Nam đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn quốc gia chủ nhà cho các dự án CDM, phù hợp với yêu cầu quốc tế và là thành viên của UNFCCC và Nghị định thư Kyoto Quốc gia này đã quy định rõ các lĩnh vực, điều kiện thực hiện dự án, cùng với quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, cũng như quy trình thực hiện CDM, đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn.

Việt Nam khuyến khích các lĩnh vực kinh tế tham gia vào dự án CDM nhằm giảm phát thải khí nhà kính, theo quy định của Nghị định thư Kyoto Các loại khí nhà kính được xác định trong phụ lục A của Nghị định thư này bao gồm sáu loại khí chính Chính sách mở này tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án giảm phát thải, góp phần vào mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

“các khí khác được quy định trong NĐT Kyoto” cần phải điều chỉnh lại vì NĐT Kyoto chỉ xác định sáu loại khí cắt giảm trong phụ lục A

Việt Nam đã thiết lập các tiêu chí cho dự án CDM dựa trên yêu cầu quốc tế, tuy nhiên, tính bền vững và tính bổ sung của dự án vẫn còn phức tạp Do đây là lĩnh vực mới, các quy định trong nước chưa đồng bộ, dẫn đến thông tin về phát thải khí nhà kính chưa chính xác và thống nhất Điều này tạo khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc xây dựng dự án, nhằm đáp ứng đúng các điều kiện của Việt Nam và luật quốc tế về CDM.

Quy trình thực hiện dự án tại Việt Nam, đặc biệt ở khâu chuẩn bị, xác nhận và phê duyệt, đã được quy định rõ ràng Mặc dù quy trình này đã được cải tiến để trở nên tinh gọn và đơn giản hơn, vẫn còn nhiều thủ tục rườm rà ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án Việc đáp ứng các yêu cầu quốc tế là cần thiết, nhưng cần thiết phải tối ưu hóa quy trình để nâng cao hiệu quả triển khai dự án.

THỰC HIỆN DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ CHẤT THẢI TẠI VIỆT NAM

NHỮNG KIẾN NGHỊ CHO VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:34

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w