1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Pháp luật về nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực đồ uống không cồn tại việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

76 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Về Nhượng Quyền Thương Mại Trong Lĩnh Vực Đồ Uống Không Cồn Tại Việt Nam
Tác giả Huỳnh Thị Thu Hiền
Người hướng dẫn PGS. TS. Bành Quốc Tuấn
Trường học Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Luật
Năm xuất bản 2020
Thành phố TP.Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 76
Dung lượng 774,26 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (8)
  • 3. Đối tượng nghiên cứu (10)
  • 4. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu (10)
    • 4.1. Phạm vi nghiên cứu (10)
    • 4.2. Phương pháp nghiên cứu (11)
  • 5. Bố cục luận văn (11)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ĐỒ UỐNG KHÔNG CỒN (12)
    • 1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (12)
      • 1.1.1. Khái niệm (12)
      • 1.1.2. Đặc điểm (16)
    • 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (19)
    • 1.3. Khái niệm và vai trò của pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (25)
      • 1.3.1. Khái niệm pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (0)
      • 1.3.2. Vai trò của pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (0)
  • CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ĐỒ UỐNG KHÔNG CỒN TẠI VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT (29)
    • 2.1. Nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện hành về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn tại Việt Nam (29)
      • 2.1.1. Chủ thể trong nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (0)
      • 2.1.2. Hình thức pháp lý trong nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (0)
      • 2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (0)
    • 2.2. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (61)
      • 2.2.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (0)
      • 2.2.2. Kiến nghị cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn (0)
  • KẾT LUẬN (28)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Tham gia vào thị trường với một thương hiệu mới không khó, nhưng xây dựng và phát triển một thương hiệu mạnh mẽ và bền vững là thách thức lớn cho doanh nghiệp Điều này đòi hỏi phải có mô hình kinh doanh, quản lý, sản phẩm, chất lượng, giá cả, và hiểu rõ nhu cầu của người tiêu dùng Doanh nghiệp cũng phải chú ý đến hình ảnh thương hiệu và các thủ tục pháp lý liên quan Những khó khăn và rủi ro cao, cùng với sự cạnh tranh từ các thương hiệu đã có uy tín, là những thử thách mà họ phải đối mặt Để giảm thiểu rủi ro và chi phí, một phương thức kinh doanh mới đã xuất hiện, cho phép một bên sử dụng thương hiệu của bên khác, bao gồm sản phẩm và bí mật kinh doanh, trong đó bên nhận thương hiệu phải tuân thủ các điều kiện đã được đặt ra và trả phí sử dụng Phương thức này được gọi là nhượng quyền thương mại (NQTM).

NQTM đồ uống không cồn đã xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 90 của thế kỷ XX, với sự tiên phong của Trung Nguyên và ngày càng trở nên phổ biến, mở rộng về số lượng và chất lượng thương hiệu như Highland, Effoc Để đảm bảo hoạt động thương mại này có căn cứ pháp lý, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật An toàn vệ sinh thực phẩm và Luật Doanh nghiệp Tất cả các hoạt động NQTM đều phải tuân thủ các quy định chung trong Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn, đồng thời mỗi lĩnh vực cũng có những điều chỉnh pháp lý riêng biệt tương ứng.

Tốc độ phát triển nhanh chóng và sự phổ biến của nhượng quyền thương mại (NQTM) đồ uống không cồn đã đặt ra nhu cầu nghiên cứu khung pháp lý điều chỉnh lĩnh vực này Sự tham gia ngày càng đông đảo của các thương hiệu nước ngoài như Coffee Bean & Tea Leaf, KFC, Lotteria, Jollibee, Pizza Hut, Burger King, McDonald’s, và Domino’s Pizza vào thị trường nhượng quyền thương mại tại Việt Nam cho thấy tiềm năng lớn của ngành Đồng thời, quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ đã thúc đẩy Việt Nam gia nhập vào nhiều tổ chức quốc tế và ký kết các điều ước quốc tế Do đó, câu hỏi quan trọng là pháp luật hiện hành điều chỉnh NQTM đồ uống không cồn ở Việt Nam như thế nào?

Học viên nghiên cứu hoạt động thương mại thông qua luận văn với đề tài “Pháp luật về nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực đồ uống không cồn tại Việt Nam” Mục tiêu của luận văn là cung cấp cái nhìn tổng quan về khung pháp lý điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại (NQTM) trong lĩnh vực đồ uống không cồn tại Việt Nam, từ giai đoạn hình thành cho đến quá trình thực hiện, đồng thời đánh giá tình hình thực hiện trên thực tế.

Tình hình nghiên cứu đề tài

NQTM ngày càng trở thành yếu tố quan trọng trong việc xây dựng thương hiệu và tạo nền tảng kinh doanh ban đầu Sự phổ biến của NQTM trong nền kinh tế Việt Nam cho thấy nhiều thương hiệu đang áp dụng hoạt động này Do đó, nghiên cứu NQTM từ góc độ luật học đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, với các phân tích đa dạng về nhiều khía cạnh khác nhau.

Về luận văn thạc sĩ có các công trình sau:

Hợp đồng nhượng quyền thương mại (HĐNQTM) là chủ đề nghiên cứu của Đỗ Thị Tuyết Nhung tại Hà Nội vào năm 2009, tập trung vào các vấn đề pháp lý liên quan đến HĐNQTM trong bối cảnh pháp luật Việt Nam Nghiên cứu này không chỉ cung cấp cái nhìn tổng thể mà còn đi sâu vào các khía cạnh pháp lý quan trọng của hợp đồng nhượng quyền thương mại.

Luận văn của Trần Thị Hồng Thúy với đề tài “Kiểm soát hợp đồng nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ” tại Hà Nội năm 2012 đã phân tích mối quan hệ giữa nhượng quyền thương mại (NQTM) với các hành vi cạnh tranh và nội dung về sở hữu trí tuệ Từ đó, luận văn đặt ra vấn đề cần thiết về việc kiểm soát các vấn đề liên quan đến NQTM, cạnh tranh và sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Trong luận văn của Nguyễn Thanh Long với đề tài “Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam” được thực hiện tại Hà Nội năm 2014, tác giả đã nghiên cứu về các tranh chấp phát sinh trong hoạt động nhượng quyền thương mại (NQTM) và phân tích thực trạng giải quyết những tranh chấp này Nghiên cứu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về khung pháp lý và các vấn đề thực tiễn liên quan đến tranh chấp trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.

Về luận án tiến sỹ có các công trình sau:

Luận án tiến sĩ của Vũ Đặng Hải Yến tập trung vào các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại tại Việt Nam Nghiên cứu này được thực hiện tại Hà Nội và góp phần quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về khung pháp lý cho nhượng quyền thương mại trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay.

2009), nghiên cứu tổng thể pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM, và phân tích mối quan hệ giữa NQTM với cạnh tranh và sở hữu trí tuệ

Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Tình, mang tên “Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay”, được thực hiện tại Hà Nội vào năm 2015 Nghiên cứu này tập trung phân tích các quy định và thực trạng hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại (NQTM) tại Việt Nam, thông qua việc đánh giá các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này.

Nhiều nghiên cứu và bài viết đã được công bố về vấn đề nhượng quyền tại Việt Nam, điển hình là tác phẩm của Nguyễn Trọng Điệp mang tên “Thực tiễn thi hành pháp luật về nhượng quyền tại Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn tham chiếu với yêu cầu của các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới” trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Luật học số 2/2018 Bài viết chỉ ra rằng các quy định hiện hành của Luật Thương mại 2005 chưa theo kịp với nội dung của các hiệp định thương mại thế hệ mới.

Tác giả Nguyễn Thị Tình trong bài viết “Pháp luật điều chỉnh hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu trong quan hệ nhượng quyền thương mại” đã phân tích các quy định pháp lý liên quan đến việc ấn định giá bán lại tối thiểu trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại Bài viết cũng đưa ra những kinh nghiệm lập pháp từ các quốc gia khác nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động này tại Việt Nam Những quy định này không chỉ bảo vệ quyền lợi của bên nhượng quyền mà còn đảm bảo sự công bằng trong cạnh tranh trên thị trường.

Bài viết "Liên minh Châu Âu" trên Tạp chí luật học số 04/2014 phân tích cách mà pháp luật Việt Nam và Châu Âu điều chỉnh quan hệ cạnh tranh trong NQTM, đặc biệt thông qua hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu.

Các nghiên cứu hiện tại đã xem xét tổng quan về pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM, cũng như các khía cạnh cụ thể như sở hữu trí tuệ và cạnh tranh Tuy nhiên, chưa có đề tài nào tập trung vào NQTM trong lĩnh vực đồ uống không cồn Do đó, học viên sẽ tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này.

Đối tượng nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu nhằm hướng đến các đối tượng sau:

Pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động thương mại NQTM đồ uống không cồn tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng đã bộc lộ nhiều ưu điểm cũng như hạn chế Việc đánh giá các quy định này là cần thiết để nhận diện những điểm mạnh và yếu trong quản lý Từ đó, xác định phương hướng phát triển cho hoạt động thương mại đồ uống không cồn trong tương lai là rất quan trọng, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành này.

Để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn tại Việt Nam, cần đề xuất các giải pháp như: hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, và nâng cao nhận thức cho các bên liên quan về quyền và nghĩa vụ trong nhượng quyền Đồng thời, cần xây dựng các chương trình đào tạo cho các doanh nghiệp nhượng quyền nhằm đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật và phát triển bền vững trong ngành đồ uống không cồn.

Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu

Với đề tài luận văn này, học viên sẽ nghiên cứu trong phạm vi sau:

- Về không gian: học viên sẽ nghiên cứu pháp luật Việt Nam được áp dụng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

NQTM (Nghiên cứu Thương mại) xuất hiện từ năm 1975 và có các văn bản pháp luật điều chỉnh, nhưng chỉ đến năm 2005 mới chính thức được công nhận trong Luật Thương mại như một hoạt động thương mại độc lập Do đó, học viên nghiên cứu hoạt động NQTM trong lĩnh vực đồ uống không có cồn chủ yếu bắt đầu từ thời điểm Luật Thương mại 2005 có hiệu lực và các văn bản pháp luật liên quan được ban hành sau đó.

Luận văn này tập trung nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM đối với đồ uống không cồn Trong thực tế, có nhiều cách hiểu và phân loại khác nhau về đồ uống không cồn Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, tác giả chỉ xem xét các loại đồ uống không cồn được pha chế trực tiếp tại thời điểm sử dụng, không bao gồm đồ uống đóng chai hoặc chất lỏng đóng hộp.

Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn này, học viên sẽ áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, bao gồm phân tích thống kê để đánh giá pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM đồ uống không cồn từ nhiều khía cạnh; phương pháp so sánh để làm rõ đặc điểm của hoạt động thương mại này và sự khác biệt giữa các chủ thể kinh doanh trong nước và nước ngoài; và phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm rút ra nhận xét về tính hợp lý của pháp luật cũng như thực trạng áp dụng vào thực tế, từ đó đề xuất giải pháp Bên cạnh đó, còn có nhiều phương pháp nghiên cứu khác được sử dụng.

Bố cục luận văn

Luận văn gồm có 2 chương, bao gồm:

Chương 1: Tổng quan pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn

Chương 2: Pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn tại Việt Nam và kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật

TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ĐỒ UỐNG KHÔNG CỒN

Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn

Hoạt động trao đổi và mua bán đã tồn tại từ rất sớm, song hành cùng sự phát triển của loài người Qua thời gian, con người đã sáng tạo ra nhiều hình thức kinh doanh mới để phù hợp với sự thay đổi của thời đại, trong đó có NQTM Hiện nay, nhiều thương hiệu nổi tiếng như Lotteria, KFC, BBQ, Coffee Bean, Highland, Trung Nguyên, Phở 24 và nhiều thương hiệu khác đã khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động thương mại này đối với nền kinh tế Do đó, việc hiểu biết về pháp luật điều chỉnh hoạt động này là cần thiết để áp dụng hiệu quả.

Kể từ năm 2009, theo thông tin từ website của Bộ Công thương, Việt Nam đã tiếp nhận 122 thương hiệu quốc tế đăng ký nhượng quyền Số lượng này không ngừng tăng lên theo thời gian, tạo ra những tên tuổi được khách hàng công nhận trên thị trường trong nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau.

NQTM, hay nhượng quyền thương mại, là một hình thức kinh doanh cho phép một bên cấp quyền cho đơn vị khác kinh doanh sản phẩm của mình dưới tên thương hiệu của mình Theo từ điển Webster, NQTM được định nghĩa là đặc quyền mà một người nhận được để phân phối hoặc bán sản phẩm của chủ thương hiệu Định nghĩa này chỉ giúp tiếp cận khái niệm NQTM mà không cung cấp cái nhìn toàn diện về hình thức kinh doanh này.

Nhượng quyền thương hiệu đang ngày càng trở nên phổ biến tại Việt Nam, với nhiều doanh nghiệp áp dụng mô hình này để mở rộng thị trường Theo Nguyễn Phi Vân (2016), nhượng quyền thương hiệu không chỉ giúp tăng trưởng doanh thu mà còn xây dựng thương hiệu mạnh mẽ trong lòng người tiêu dùng Việc hiểu rõ các quy định và điều kiện cần thiết cho nhượng quyền sẽ là yếu tố quyết định thành công cho các doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay.

2 Lý Quý Trung (2006), Mua Franchise – Cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản trẻ,

Hồ Chí Minh, trang 6 diện cùng với những điểm đặc trưng để có thể hiểu một cách thấu đáo NQTM cụ thể là như thế nào

Theo Lý Quý Trung, học giả Awalan Abdul Aziz trong quyển "Hướng dẫn nhượng quyền thương mại tại Malaysia" cho rằng nhượng quyền thương mại (NQTM) là phương thức tiếp cận thị trường và phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ dựa trên mối quan hệ giữa hai đối tác Trong đó, bên nhượng quyền (BNQ) cấp phép cho bên nhận nhượng quyền (BNhQ) sử dụng thương hiệu của mình để kinh doanh tại một địa điểm hoặc khu vực nhất định trong một khoảng thời gian cụ thể.

NQTM là hình thức cho phép bên thứ ba tham gia kinh doanh thương hiệu như bên bán sản phẩm được cấp quyền Tuy nhiên, quyền này có giới hạn về không gian và thời gian cụ thể Việc xác định phạm vi quyền cấp phép theo khu vực địa lý và thời gian là yếu tố phân biệt giữa bên cấp quyền và bên được cấp quyền Bên được cấp quyền chỉ được hoạt động trong phạm vi đã được quy định, và nếu vi phạm sẽ bị coi là hành vi không tuân thủ.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của NQTM, nhiều quốc gia đã thiết lập quy định để điều chỉnh hoạt động này Dưới đây là một số khái niệm liên quan đến NQTM theo pháp luật của các quốc gia, cụ thể là khái niệm NQTM được đưa ra bởi Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ.

US Federal Trade Commission – FFC) có xuất phát điểm từ hợp đồng, bao gồm quyền và nghĩa vụ của bên giao quyền như sau:

Hỗ trợ quan trọng cho bên nhận quyền (BNhQ) trong việc quản lý doanh nghiệp và giám sát chặt chẽ các phương thức điều hành của bên nhận.

3 Lý Quý Trung (2006), tlđd (2), trang 6 - 7

(ii) Li - xăng nhãn hiệu cho bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của bên giao; và

(iii) Yêu cầu bên nhận thanh toán cho bên giao một khoản phí tối thiểu 4

Theo Bộ luật dân sự Nga, hoạt động thương mại NQTM được quy định dưới dạng hợp đồng, trong đó một bên (bên có quyền) cung cấp cho bên kia (bên sử dụng) quyền sử dụng một tập hợp các độc quyền trong kinh doanh, bao gồm quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, bí mật kinh doanh và các quyền độc quyền khác, với một khoản thù lao và có thể có thời hạn hoặc không.

Khái niệm quyền thương mại của Cộng đồng chung Châu Âu (EU) được thể hiện qua danh sách các đối tượng mà bên nhượng quyền (BNQ) có thể sử dụng từ bên nhận nhượng quyền (BNhQ), theo Regulation 4087 188 (1988) của l35946 (Block Exemption For Franchise Agreements) NQTM bao gồm tổng thể các quyền sở hữu trí tuệ như nhãn hiệu, tên thương mại, quyền tác giả, giải pháp hữu ích, bí mật kinh doanh và sáng chế, được xây dựng cho một hệ thống nhằm mục đích bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng.

Việt Nam, trong nỗ lực học hỏi từ các tinh hoa pháp luật toàn cầu, đã quy định về NQTM tại Điều 284 của Luật Thương mại năm 2005 Theo đó, NQTM được định nghĩa là hoạt động thương mại, trong đó bên NQ cho phép và yêu cầu bên NhQ tự thực hiện việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ theo các điều kiện nhất định.

Phan Thị Tuyết Hoa (2012) đã nghiên cứu về pháp luật nhượng quyền thương mại tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần cà phê Trung Nguyên trong luận văn thạc sĩ luật học của mình, được trình bày tại Đại học Quốc gia Hà Nội Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý và thực trạng thực hiện nhượng quyền thương mại trong ngành cà phê, từ đó góp phần nâng cao hiểu biết về lĩnh vực này.

5 Phan Thị Tuyết Hoa (2012), tlđd (4), trang 14

6 Phan Thị Tuyết Hoa (2012), tlđd (4), trang 15

1 Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do BNQ quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của BNQ;

2 BNQ có quyền kiểm soát và trợ giúp cho BNhQ trong việc điều hành công việc kinh doanh”

Đồ uống không cồn có thể được định nghĩa theo hai cách: dựa vào tính chất và thành phần Để phân loại đồ uống này, cần xác định sự hiện diện của cồn, với đồ uống có cồn được xác định bởi sự có mặt của ethanol, một hợp chất hữu cơ có công thức C2H5OH Theo Nghị định 94/2012/NĐ-CP, "cồn thực phẩm" được định nghĩa là ethanol đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm Thêm vào đó, QCVN 6-3:2010/BYT quy định rằng cồn thực phẩm là ethanol thu được từ quá trình chưng cất các nguyên liệu có nguồn gốc tinh bột và đường Do đó, đồ uống không cồn là những loại đồ uống không chứa cồn thực phẩm này.

Đồ uống không cồn có thể được hiểu qua thành phần cấu tạo của nó Theo Điều 1.3 của Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7041:2009, định nghĩa rõ ràng về đồ uống không cồn được đưa ra, nhấn mạnh các yếu tố quan trọng liên quan đến loại đồ uống này.

Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn

Franchise là thuật ngữ chỉ hoạt động nhượng quyền thương mại, bắt nguồn từ tiếng Pháp cổ với nghĩa là đặc quyền hoặc tự do Từ này có nguồn gốc từ thời trung cổ ở Anh, dùng để chỉ các đặc quyền mà những người có chức vụ quan trọng nhận được từ lãnh chúa, vua hoặc nhà thờ, bao gồm quyền thu thuế, khai thác đất đai, tổ chức chợ và hội chợ, điều hành bến phà địa phương, đi săn trong lãnh thổ của mình, và thực hiện các hoạt động thương mại khác như xây dựng.

Từ xưa, con người đã sáng tạo ra nhiều loại đồ uống có chứa cồn, chủ yếu được sản xuất từ cồn thực phẩm, thành phần chính là ethanol Cồn thực phẩm có nhiều ứng dụng, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều tác hại đối với sức khỏe Khi hấp thụ vào cơ thể, ethanol có thể gây ra những phản ứng khác nhau tùy thuộc vào nồng độ, từ say xỉn đến hôn mê, thậm chí tử vong Mặc dù cồn thực phẩm có thể mang lại lợi ích nếu sử dụng đúng liều lượng, nhưng việc lạm dụng có thể dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.

"Franchise" mang ý nghĩa chính trị, thể hiện quyền lợi mà nhà vua hoặc lãnh chúa cấp cho một cá nhân hoặc tổ chức, cho phép họ độc quyền thực hiện một số hoạt động trong một khu vực địa lý nhất định.

Hoạt động nhượng quyền thương mại (NQTM) đầu tiên được cho là do Issac Singer thực hiện khi ông cấp quyền phân phối sản phẩm máy may của mình Ông bắt đầu bằng việc cấp phép bảo trì và sửa chữa máy may cho các thương gia địa phương trên toàn quốc, sau đó mở rộng quyền phân phối sản phẩm cho họ trong khu vực Các hợp đồng cấp quyền của Singer được coi là những mẫu hợp đồng NQTM đầu tiên.

Trong giai đoạn tiếp theo, NQTM được mở rộng sang nhiều ngành nghề khác như lọc dầu và sản xuất ô tô Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới thứ hai, NQTM phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực nhà hàng và khách sạn Sự gia tăng dân số sau chiến tranh, do nhiều nguyên nhân, dẫn đến nhu cầu tăng cao, đặc biệt là nhu cầu về ăn uống và sử dụng hàng hóa, dịch vụ.

Sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước có điều kiện tập trung vào phát triển kinh tế Việc di chuyển của dân cư giữa các địa phương và quốc gia trở nên thuận tiện hơn, tạo cơ hội cho thương nhân tiếp cận các thương hiệu tiềm năng và sản phẩm chất lượng, từ đó xây dựng công ty riêng.

13 Carl Reader (2018), Nhượng quyền kinh doanh con đường ngắn nhất ra biển lớn (The Franchiseing

Handbook), do Tạ Thanh Hải dịch, Nhà xuất bản Công thương, Hồ Chí Minh, trang 16

Khi đã khẳng định được danh tiếng, các doanh nghiệp muốn mở rộng thương hiệu đến những vùng đất mới với hình ảnh và chất lượng đồng nhất Để thực hiện điều này, họ lựa chọn mô hình nhượng quyền thương mại (NQTM), vừa có thể huy động vốn, vừa đảm bảo quyền kiểm soát hoạt động và chất lượng sản phẩm McDonald's là minh chứng thành công nổi bật cho mô hình NQTM, đặc biệt trong ngành ẩm thực.

NQTM ra đời nhằm giải quyết vấn đề gia tăng chi phí vận chuyển và lưu trữ hàng hóa giữa các vùng Quá trình vận chuyển và bảo quản sản phẩm hoàn chỉnh tốn kém hơn so với nguyên vật liệu, nhưng việc chỉ sử dụng nguyên vật liệu lại không đảm bảo chất lượng sản phẩm đồng nhất Hơn nữa, khả năng kiểm soát thương hiệu và sản phẩm cũng bị ảnh hưởng Do đó, NQTM, như trường hợp của Coca Cola, được phát triển để tối ưu hóa quy trình này.

Năm 1889, Coca Cola bắt đầu triển khai hệ thống nhượng quyền thương mại (NQTM) do trước đó, sản phẩm của họ không có dung tích lớn và chi phí vận chuyển, lưu trữ cao đã ảnh hưởng đến giá thành Để cải thiện tình hình, Coca Cola quyết định chỉ sản xuất nước siro đậm đặc, sau đó bán cho các nhà đóng chai độc quyền tại từng lãnh thổ Hiện nay, hoạt động NQTM của Coca Cola đã được mở rộng, cho phép người nhận nhượng quyền thêm cacbonat và nước vào nước siro đậm đặc.

Công thức si rô bí mật này chỉ được chế biến tại trụ sở chính của công ty và được phân phối từ đây để đóng chai và bán tại các địa phương.

Việt Nam, nổi tiếng với tinh thần ham học hỏi và lao động chăm chỉ, đang nhanh chóng gia nhập thị trường NQTM quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực đồ uống không cồn Hai thương hiệu tiêu biểu đã khẳng định vị thế của mình, đóng góp vào sự phát triển sôi động và đa dạng của thị trường này.

Cà phê Trung Nguyên chính là đại diện cho sự thành công của NQTM đồ uống không cồn của Việt Nam

Cà phê Trung Nguyên được thành lập vào năm 1996 tại Buôn Mê Thuột và sau 2 năm đã mở quán cà phê đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh Năm 2000, Trung Nguyên bắt đầu thực hiện chiến lược nhượng quyền thương mại (NQTM) ra nước ngoài, khởi đầu với Nhật Bản, tiếp theo là Mỹ, Singapore, Thái Lan và Trung Quốc.

Lịch sử cho thấy lĩnh vực nhà hàng ăn uống phát triển mạnh mẽ dưới hình thức nhượng quyền thương mại (NQTM), chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số các lĩnh vực Theo thống kê từ Vụ thị trường trong nước và Viện nghiên cứu thương mại, từ 15/01/2007 đến 15/7/2015, Việt Nam đã cấp phép cho 137 thương nhân và 148 thương hiệu, trong đó lĩnh vực nhà hàng chiếm 43,7% với 42 thương hiệu như thức ăn nhanh, bánh, cà phê, đồ uống và nhà hàng lẩu nướng So với các lĩnh vực khác như thời trang (19,3%) và giáo dục đào tạo (14,1%), nhà hàng ăn uống vẫn dẫn đầu về tỷ trọng NQTM.

17 Lịch sử phát triển cà phê Trung Nguyên, https://trungnguyenlegend.com/lich-su-phat-trien/, truy cập ngày 21/2/2020

18 Gần 150 thương hiệu nhượng quyền vào Việt Nam trong 8 năm qua (2015), https://www.brandsvietnam.com/7425-Gan-150-thuong-hieu-nhuong-quyen-vao-Viet-Nam-trong-8-nam-qua/, truy cập ngày 25/2/2020

Mặc dù NQTM đã phát triển hơn 100 năm trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, hoạt động này chỉ mới xuất hiện từ những năm 90 của thế kỷ XX, được coi là "sinh sau đẻ muộn" Trong hơn 20 năm qua, pháp luật Việt Nam đã nhanh chóng xây dựng các quy định để điều chỉnh NQTM ngay từ những ngày đầu xuất hiện, nhờ vào việc học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm từ các quốc gia khác, cũng như áp dụng những hiểu biết từ thực tiễn NQTM tại Việt Nam.

Thuật ngữ "franchise" lần đầu tiên được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam qua điều 4.1.1a của Thông tư 1254/1999/TT-BKHCNMT, ban hành ngày 12 tháng 7 năm 1999, nhằm hướng dẫn thực hiện Nghị định số 45/1998/NĐ-CP.

Khái niệm và vai trò của pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn

1.3.1 Khái niệm pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn

Tác giả Nguyễn Thanh Long (2014) trong luận văn thạc sĩ luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã phân tích về tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam Nội dung nghiên cứu tập trung vào các quy định pháp lý liên quan và phương thức giải quyết tranh chấp, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề này trong bối cảnh thương mại hiện đại.

22 Nguyễn Thanh Long (2014), tlđd (24), trang 15

23 Nguyễn Thanh Long (2014), tlđd (24), trang 15

Nguyễn Minh Hải chỉ ra rằng pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại là hệ thống quy tắc do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại Pháp luật NQTM được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh trực tiếp các quan hệ xã hội trong hoạt động nhượng quyền thương mại của các thương nhân.

Pháp luật điều chỉnh quan hệ NQTM đồ uống không cồn có thể được hiểu theo cả nghĩa rộng và hẹp Để điều chỉnh trực tiếp các quan hệ cơ bản trong NQTM đồ uống không cồn, pháp luật này nên được hiểu theo nghĩa hẹp, tức là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thương nhân thực hiện hoạt động NQTM đồ uống không cồn.

1.3.2 Vai trò của pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn

Pháp luật về hoạt động NQTM đồ uống không cồn là một phần quan trọng trong hệ thống pháp luật, đảm nhận nhiều vai trò thiết yếu Nó không chỉ quy định các hoạt động thương mại mà còn bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, đảm bảo an toàn thực phẩm và góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp đồ uống không cồn.

Pháp luật thiết lập hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, đảm bảo sự tự do và bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh Đồng thời, Nhà nước, với vai trò là cơ quan quản lý, cũng dựa vào các chuẩn mực này để điều chỉnh các quan hệ kinh tế.

Hợp đồng nhượng quyền thương mại (NQTM) trong lĩnh vực đồ uống không có cồn ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và xử lý các mối quan hệ thương mại giữa các chủ thể như cá nhân, tổ chức, hộ gia đình và doanh nghiệp Mỗi chủ thể đều có những ưu thế riêng, nhưng cũng dễ dẫn đến việc lợi dụng ưu thế này gây bất lợi cho bên còn lại Do đó, pháp luật về NQTM đồ uống không cồn cần thiết để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên, đồng thời giúp giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả.

Pháp luật về NQTM đồ uống không cồn thể hiện đường lối của Đảng và là công cụ quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này Các quy phạm pháp luật khẳng định quyền tự do và bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại đồ uống không cồn Đồng thời, pháp luật cũng quy định rõ các hành vi bị cấm, vi phạm của các chủ thể và chế tài áp dụng để xử lý những hành vi đó.

Pháp luật về NQTM đồ uống không cồn đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện các quy định liên quan, đồng thời thúc đẩy kinh tế mở cửa và hội nhập quốc tế Sự thu hút ngày càng tăng của các chủ thể kinh doanh nước ngoài vào lĩnh vực này đã dẫn đến việc phát triển nhiều hình thức nhượng quyền khác nhau, liên quan đến các lĩnh vực pháp luật như sở hữu trí tuệ và cạnh tranh Do đó, việc nghiên cứu và xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại đồ uống không cồn là cần thiết, nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật khác và duy trì quan hệ quốc tế.

26 Lê Minh Tâm, Nguyễn Minh Đoan, Lê Hồng Hạnh (2009), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, trang 33 -36

27 Lê Minh Tâm, Nguyễn Minh Đoan, Lê Hồng Hạnh (2009), tlđd (28)

28 Lê Minh Tâm, Nguyễn Minh Đoan, Lê Hồng Hạnh (2009), tlđd (28)

Chương 1 của bài viết cung cấp cái nhìn tổng quát về cơ sở pháp lý của hoạt động NQTM đồ uống không cồn tại Việt Nam, bao gồm lịch sử hình thành và phát triển của NQTM nói chung và NQTM đồ uống không cồn nói riêng Nội dung chương cũng đề cập đến khái niệm, đặc điểm và vai trò của NQTM đồ uống không cồn, cũng như các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại này Bên cạnh đó, bài viết còn trình bày kinh nghiệm lập pháp quốc tế trong việc điều chỉnh NQTM đồ uống không cồn, từ đó tạo cơ sở cho việc phân tích và đánh giá quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến lĩnh vực này trong các phần tiếp theo.

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ĐỒ UỐNG KHÔNG CỒN TẠI VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện hành về hoạt động nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn tại Việt Nam

2.1.1 Chủ thể trong nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn

Trong quan hệ NQTM đồ uống không cồn, có hai chủ thể chính là BNQ và BNhQ Pháp luật quy định hai điều kiện mà BNQ đồ uống không cồn cần đáp ứng: thứ nhất, BNQ phải là chủ thể hợp pháp trong hoạt động NQTM, và thứ hai, BNQ phải tuân thủ các điều kiện kinh doanh đồ uống không cồn.

Một, điều kiện đối với BNQ trong NQTM, trước đây được quy định trong Điều

Theo Nghị định 35/2006/NĐ-CP, thương nhân có thể cấp quyền thương mại nếu đáp ứng ba điều kiện: hệ thống kinh doanh đã hoạt động ít nhất một năm, đã đăng ký hoạt động nhượng quyền với cơ quan có thẩm quyền, và hàng hóa, dịch vụ không vi phạm quy định Tuy nhiên, Nghị định 08/2018/NĐ-CP đã sửa đổi quy định này, chỉ yêu cầu thương nhân phải đảm bảo rằng hệ thống kinh doanh đã hoạt động ít nhất một năm để được phép cấp quyền thương mại.

Nghị định 08/2018/NĐ-CP thể hiện sự thông thoáng trong quy định của nhà nước so với Nghị định 35/2006/NĐ-CP, khi chỉ yêu cầu một điều kiện duy nhất về hệ thống nhượng quyền phải hoạt động ít nhất một năm Điều này giúp thương nhân dễ dàng xác định xem họ có đáp ứng đủ điều kiện hay không, giảm thiểu thời gian và chi phí Việc sử dụng thời gian hoạt động làm căn cứ cấp quyền thương mại cho thấy Việt Nam đã học hỏi từ kinh nghiệm lập pháp quốc tế, góp phần tạo thuận lợi cho hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại đồ uống không cồn.

Mặc dù quy định điều kiện của BNQ mang lại một số ưu điểm trong việc trình bày, nhưng cũng bộc lộ những nhược điểm nhất định NQTM cho phép các bên sử dụng hoạt động thương mại đã được chứng minh tính hiệu quả và được người tiêu dùng công nhận để kinh doanh Tuy thời gian hoạt động có thể là một yếu tố để xác định tính hiệu quả của hệ thống kinh doanh, nhưng liệu thời hạn 01 năm có đủ để chứng minh sự phát triển và khả năng tồn tại của hệ thống hay không vẫn là một câu hỏi cần được xem xét.

Một thương hiệu uy tín trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào thời gian hoạt động mà còn dựa vào lợi nhuận, thị phần và khả năng cạnh tranh Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút các bên muốn tham gia nhận quyền So với các yếu tố khác, thời gian kinh doanh chưa đủ thuyết phục để đánh giá giá trị của thương hiệu.

Điều kiện của BNQ theo Nghị định 08/2018/NĐ-CP ảnh hưởng đến nhượng quyền thứ cấp, đặc biệt khi không rõ ràng về thời hạn kinh doanh một năm áp dụng cho hệ thống BNQ ban đầu hay thứ cấp NQTM quốc tế phân loại nhượng quyền theo mục tiêu phát triển và hoạt động, bao gồm franchise độc quyền (master franchise), franchise vùng (regional franchise), franchise phát triển khu vực (area development franchise) và franchise riêng lẻ (single-unit franchise) Trong đó, franchise vùng hay regional franchise là một hình thức quan trọng.

Nhượng quyền thương mại là quá trình mà BNhQ nhận quyền từ BNQ ban đầu để tiếp tục cấp quyền cho BNhQ thứ cấp, tuân theo các quy định của BNQ ban đầu BNQ ban đầu có thể là chủ sở hữu hệ thống nhượng quyền hoặc BNhQ độc quyền, trong khi BNhQ thứ cấp hoạt động theo hình thức nhượng quyền riêng lẻ.

Hình thức franchise vùng là một dạng trung gian giữa franchise độc quyền và franchise riêng lẻ, được các BNQ nước ngoài lựa chọn để mở rộng vào thị trường quốc tế Điểm khác biệt chính là BNQ chỉ có quyền nhượng quyền thứ cấp cho các franchise riêng lẻ mà không được mở cửa hàng kinh doanh riêng Điều này đặt ra thách thức đối với điều kiện thời hạn kinh doanh một năm, vì BNQ không hoạt động dưới quyền thương mại được cấp, dẫn đến việc không thể áp dụng điều kiện này Tại Việt Nam, nhượng quyền thương mại thứ cấp là trường hợp hiếm gặp, chủ yếu diễn ra qua hợp đồng nhượng quyền thương mại ban đầu hoặc hợp đồng phát triển quyền thương mại, do đó quy định này có thể cản trở sự phát triển của nhượng quyền thương mại thứ cấp.

Nghị định 08/2018/NĐ-CP đã loại bỏ yêu cầu BNQ phải đăng ký hoạt động NQTM với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, điều này đã làm cho thủ tục đăng ký NQTM trở nên không còn căn cứ thực hiện Trước đây, theo Điều 5 Nghị định 35/2006/NĐ-CP, BNQ chỉ được phép thực hiện NQTM sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký, nhưng hiện tại họ không còn bị bắt buộc phải làm điều này Do đó, cần xem xét mục đích của thủ tục đăng ký NQTM là gì và tác động của Nghị định 08/2018/NĐ-CP đối với hoạt động này.

CP đã bỏ điều kiện đăng ký NQTM đối với BNQ, nhưng liệu điều này có hợp lý hay không? Để trả lời câu hỏi này, cần xem xét một số khía cạnh khác nhau liên quan đến quyết định này.

Việc đăng ký nhượng quyền thương mại (NQTM) không chỉ giúp cơ quan quản lý nhà nước dễ dàng thống kê các hệ thống nhượng quyền trên thị trường, mà còn thu thập thông tin quan trọng về các hệ thống này và đánh giá khả năng đáp ứng các điều kiện của bên nhượng quyền.

Thủ tục đăng ký nhượng quyền thương mại (NQTM) hiện tại chủ yếu phục vụ lợi ích của Nhà nước, chưa mang lại lợi thế rõ rệt cho thương nhân Trong kinh doanh, thủ tục đăng ký cần tạo điều kiện thuận lợi và mang lại ít nhất một lợi ích đáng kể cho người thực hiện, tức là bên nhượng quyền (BNQ) Điều này được thể hiện qua các quy trình đăng ký khác, như việc thành lập doanh nghiệp hay đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, giúp chủ sở hữu chứng minh quyền lợi mà không cần bằng chứng khác khi có tranh chấp Do đó, nếu xét về ý nghĩa của thủ tục đăng ký NQTM, việc thực hiện nó hiện tại trở thành gánh nặng, gây tốn kém về thời gian và chi phí cho BNQ.

Thủ tục đăng ký nhượng quyền thương mại (NQTM) được quy định tại Điều 20 Nghị định 35/2006/NĐ-CP, nhưng không có quy định rõ ràng về hậu quả pháp lý khi cơ quan quản lý nhà nước từ chối đăng ký Thực chất, thủ tục này chỉ là thông báo từ bên nhượng quyền (BNQ) về việc thực hiện nhượng quyền của họ với nhà nước và được ghi nhận vào sổ đăng ký NQTM, mà không phải là một yêu cầu cấp chứng nhận hay giấy phép để kinh doanh nhượng quyền Do đó, ngay cả khi cơ quan đăng ký từ chối, BNQ vẫn có thể thực hiện NQTM So với thủ tục đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ lại quy định rõ ràng về hậu quả pháp lý, bao gồm cả trường hợp người khác sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ sau khi được cấp văn bằng bảo hộ.

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 và Nghị định 78/2015/NĐ-CP, các công ty phải đăng ký ngành nghề kinh doanh khi thành lập và thông báo bổ sung trong quá trình hoạt động Do đó, BNQ có thể thực hiện NQTM đồ uống không cồn nếu đã đăng ký lĩnh vực này Điều này có nghĩa là BNQ có quyền thực hiện NQTM ngay cả khi không thực hiện thủ tục đăng ký Vì vậy, việc Nghị định 08/2018/NĐ-CP bỏ điều kiện đăng ký NQTM của BNQ là hợp lý.

Điều kiện đối với BNQ trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống không cồn yêu cầu cả BNQ và BNhQ tuân thủ các quy định của Luật An toàn thực phẩm Cụ thể, các bên cần đảm bảo an toàn thực phẩm theo QCVN 6-2:2-2010/BYT, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho sản phẩm đồ uống không cồn, được ban hành kèm theo TT35/2010/TT-BYT ngày 02 tháng 6 năm 2010.

Ngày đăng: 12/07/2021, 11:12

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Quốc hội (2015), Luật số 91/2015/QH13 Bộ luật Dân sự, ban hành ngày 24/11/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật số 91/2015/QH13 Bộ luật Dân sự
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2015
2. Quốc hội (2014), Luật số 68/2014/QH13 Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 26/11/2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: uật số 68/2014/QH13 Luật Doanh nghiệp
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2014
3. Quốc hội (2012), Luật số 16/2012/QH13 Luật Quảng cáo, ban hành ngày 21/6/2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: uật số 16/2012/QH13 Luật Quảng cáo
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2012
4. Quốc hội (2010), Luật số 55/2010/QH12 Luật An toàn thực phẩm, ban hành ngày 17/6/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật số 55/2010/QH12 Luật An toàn thực phẩm
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2010
5. Quốc Hội (2009), Luật số 36/2009/QH12 luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, ban hành ngày ngày 19/6/2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật số 36/2009/QH12 luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
Tác giả: Quốc Hội
Năm: 2009
6. Quốc Hội (2005), Luật số 50/2005/QH11 Luật sở hữu trí tuệ, ban hành ngày 29/11/2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật số 50/2005/QH11 Luật sở hữu trí tuệ
Tác giả: Quốc Hội
Năm: 2005
7. Quốc hội (2005), Luật số 36/2005/QH11 Luật Thương mại, ban hành ngày 14/06/2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật số 36/2005/QH11 Luật Thương mại
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2005
8. Chính phủ (2018), Nghị định số 108/2018/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, ban hành ngày 23/8/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 108/2018/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2018
9. Chính phủ (2018), Nghị định số 08/2018/NĐ-CP sửa đổi một số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công thương, ban hành ngày ngày 15/01/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 08/2018/NĐ-CP sửa đổi một số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công thương
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2018
10. Chính Phủ (2015), Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, ban hành ngày ngày 14/09/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp
Tác giả: Chính Phủ
Năm: 2015
11. Chính phủ (2013), Nghị định 181/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo năm 2012, ban hành ngày 14/11/2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định 181/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo năm 2012
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2013
12. Chính phủ (2012), Nghị định số 94/2012/NĐ-CP quy định về sản xuất, kinh doanh rượu, ban hành ngày 12/11/2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 94/2012/NĐ-CP quy định về sản xuất, kinh doanh rượu
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2012
13. Chính phủ (2011), Nghị định số 120/2011/NĐ - CP sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại một số nghị định của chính phủ quy định chi tiết luật thương mại, ban hành ngày 16 tháng 12 năm 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 120/2011/NĐ - CP sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại một số nghị định của chính phủ quy định chi tiết luật thương mại
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2011
14. Chính phủ (2006), Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, ban hành ngày ngày 31/03/2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2006
15. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, ban hành ngày 14/02/2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp
Tác giả: Bộ Khoa học và Công nghệ
Năm: 2007
16. Bộ Công thương (2006), Thông tư số 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại, ban hành ngày 25/5/2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại
Tác giả: Bộ Công thương
Năm: 2006
17. Bộ Khoa học - Công nghệ (2009), TCVN 7041 : 2009 đồ uống không cồn - Quy định kỹ thuật, công bố ngày 16/3/2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: TCVN 7041 : 2009 đồ uống không cồn - Quy định kỹ thuật
Tác giả: Bộ Khoa học - Công nghệ
Năm: 2009
18. Bộ Y tế (2010), QCVN 6-3:2010/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm đồ uống có cồn, công bố ngày 03/6/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: QCVN 6-3:2010/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm đồ uống có cồn
Tác giả: Bộ Y tế
Năm: 2010
19. Bộ Y tế (2010), QCVN 6-2:2010/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm đồ uống không cồn, công bố ngày 22/12 /2010B. Tài liệu tham khảo Sách, tạp chí
Tiêu đề: QCVN 6-2:2010/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm đồ uống không cồn
Tác giả: Bộ Y tế
Năm: 2010
1. Phạm Tấn Ánh (2018), Pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Tác giả: Phạm Tấn Ánh
Năm: 2018

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w