1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng

75 35 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thế Chấp Quyền Đòi Nợ Bảo Đảm Nghĩa Vụ Thanh Toán Trong Hợp Đồng Tín Dụng
Tác giả Phạm Thị Huỳnh Như
Người hướng dẫn Ths. Hoàng Thế Cường
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Thể loại khóa luận
Năm xuất bản 2014
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 75
Dung lượng 1,59 MB

Cấu trúc

  • 1.1 Khái quát chung về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán (9)
    • 1.1.1 Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng (9)
    • 1.1.2 Đặc điểm của thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán (12)
    • 1.1.3 Ý nghĩa của thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng (0)
  • 1.2 Pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tíndụng (16)
    • 1.2.1 Quy định pháp luật Việt Nam về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng trong lịch sử (16)
    • 1.2.2 Pháp luật hiện hành về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng (18)
      • 1.2.2.1 Chủ thể của giao dịch thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng (18)
      • 1.2.2.2 Đối tượng của giao dịch thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ (19)
      • 1.2.2.3 Phạm vi bảo đảm của giao dịch thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng (24)
      • 1.2.2.4 Hình thức của giao dịch thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ (25)
      • 1.2.2.5 Xử lí quyền đòi nợ dung để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ thanh toán (0)
  • Chương 2 Thực trạng quy định pháp luật và kiến nghị giải pháp hoàn thiện về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng (9)
    • 2.1 Thực trạng quy định pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ (37)
      • 2.1.1.1 Về quyền đòi nợ dung để thế chấp (0)
      • 2.1.1.2 Vấn đề định giá quyền đòi nợ (39)
      • 2.1.2 Về hình thức của hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ (41)
        • 2.1.2.1 Về đăng kí hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ (41)
        • 2.1.2.2 Về công chứng hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ (42)
      • 2.1.3 Về vấn đề xử lí quyền đòi nợ dung để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng (0)
    • 2.2 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ (54)
      • 2.2.1 Về quyền đòi nợ dung để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng (0)
        • 2.2.1.1 Về quyền đòi nợ dung để thế chấp (0)
        • 2.2.1.2 Vấn đề định giá quyền đòi nợ (56)
      • 2.2.2 Về hình thức của hợp đồng thế chấp quyền đò inợ bảo đảm nghĩa vụ (57)
        • 2.2.2.1 Về đăng kí hợp đồng thế chấp quyền đò inợ (57)
        • 2.2.2.2 Về công chứng hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ (59)
      • 2.2.3 Về vấn đề xử lí quyền đòi nợ dung để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng (0)
      • 2.2.4 Kiến nghị chung (68)

Nội dung

Khái quát chung về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán

Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng

Việc áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có nguồn gốc từ thời La Mã cổ đại Các học giả La Mã cho rằng luật về cầm cố và thế chấp là bộ luật thứ hai ra đời, chỉ sau luật về quyền dụng ích.

Mọi giao dịch đều tiềm ẩn rủi ro, vì vậy các biện pháp bảo đảm đóng vai trò quan trọng Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự rất đa dạng và phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên Bộ luật dân sự hiện hành quy định bảy biện pháp bảo đảm, bao gồm cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp Ngoài ra, các bên cũng có thể thỏa thuận hoặc áp dụng các biện pháp bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp có thỏa thuận hoặc quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm, người có nghĩa vụ phải thực hiện biện pháp đó Mỗi biện pháp bảo đảm có đặc thù riêng và phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên cũng như loại tài sản được sử dụng để bảo đảm Tùy thuộc vào thỏa thuận, pháp luật quy định các cách thức khác nhau để xử lý khi bên có nghĩa vụ vi phạm Quyền đòi nợ và quyền tài sản mang bản chất "tài sản vô hình", do đó không thể chuyển giao tài sản cho bên nhận bảo đảm, dẫn đến những bất tiện trong việc thực hiện.

1 Vũ Thị Hồng Yến (2013), “Tài sản thế chấp và xử lí tài sản thế chấp theo quy định pháp luật Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, tr 5

Theo Hoàng Thế Liên (2009) trong tác phẩm "Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005", giao dịch bảo đảm duy nhất dành cho quyền đòi nợ được quy định là thế chấp quyền đòi nợ (tr 70-71, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia).

Pháp luật hiện hành không định nghĩa rõ ràng về quyền đòi nợ, nhưng theo Nghị định 163/2006/NĐ-CP, quyền đòi nợ được hiểu là "quyền yêu cầu thanh toán của một chủ thể đối với chủ thể khác", thường liên quan đến việc thanh toán một khoản tiền Quyền đòi nợ thực chất là một loại quyền yêu cầu, phát sinh từ các giao dịch như mua bán hàng hóa, cho thuê tài sản, cho vay và hợp đồng dịch vụ Những giao dịch này tạo ra nghĩa vụ thanh toán cho một bên, đồng thời bên còn lại sẽ có quyền yêu cầu được thanh toán.

Khoản 1 Điều 322 BLDS quy định: “Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” Như vậy, tuy không quy định chính thức nhưng pháp luật đã gián tiếp thừa nhận quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản bằng việc liệt kê loại quyền này là một trong những loại quyền tài sản được dùng để bảo đảm nghĩa vụ dân sự tại Điều 322.Và với tính chất của một loại tài sản vô hình, yêu cầu đặt ra trong các giao dịch về quyền đòi nợ đó là vấn đề chứng minh sự tồn tại quyền đòi nợ Nhận dạng quyền đòi nợ là yêu cầu tiên quyết nếu muốn thực hiện các giao dịch về quyền đòi nợ đặc biệt đối với hoạt động dùng quyền đòi nợ thế chấp tại các TCTD,bởi không một cá nhân tổ chức nào có thể tiến hành giao dịch có đối tượng không xác định được, điều này là hết sức liều lĩnh và tính rủi ro quá cao

Mặc dù quyền đòi nợ mang tính chất vô hình, việc chứng minh sự tồn tại của quyền này không còn khó khăn đối với các chủ thể muốn thực hiện giao dịch Các chứng cứ hữu hình như hợp đồng giữa bên có quyền đòi nợ và bên mắc nợ, trong đó ghi nhận thỏa thuận về việc thanh toán bằng tiền, hay chứng thư, có thể được sử dụng để mô tả quyền đòi nợ một cách rõ ràng.

 Thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng

Pháp luật Việt Nam hiện nay công nhận biện pháp bảo đảm thế chấp đối với quyền đòi nợ, trong khi một số quốc gia khác, như Nga và Nhật Bản, áp dụng biện pháp cầm cố cho quyền tài sản, bao gồm quyền đòi nợ Tại Liên bang Nga, cầm cố doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản trên bảng tổng kết và các khoản nợ của doanh nghiệp Nhật Bản cũng phân biệt cầm cố và thế chấp dựa trên việc có chuyển giao tài sản hay không, nhưng vẫn duy trì những quy định riêng cho từng biện pháp.

Phạm vi các loại vật sản có thể thế chấp tại Nhật Bản bị hạn chế chỉ đối với những tài sản phải đăng ký hoặc công khai theo quy định pháp luật Theo đó, chỉ có bất động sản, quyền sử dụng đất để trồng cây, xây dựng công trình, quyền khai thác khoáng sản, quyền đánh bắt thủy sản, rừng cây, và tàu thủy có đăng ký mới có thể được thế chấp Đối với các quyền, biện pháp bảo đảm được áp dụng là cầm cố, bao gồm cầm cố các quyền thực hiện nghĩa vụ như quyền đòi nợ, quyền cổ đông và các quyền khác, mặc dù có quan điểm trong khoa học pháp lý dân sự cho rằng đây không phải là cầm cố.

Thế chấp là một trong bảy biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLDS và là phương thức phổ biến nhất trong các tổ chức tín dụng hiện nay Theo khoản 1 Điều 342 BLDS, thế chấp tài sản là hành động mà một bên (bên thế chấp) sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (bên nhận thế chấp) mà không chuyển giao tài sản đó Đặc điểm này khiến thế chấp trở thành một lựa chọn an toàn và hiệu quả cho cả bên thế chấp và bên nhận thế chấp.

4 Võ Thị Đài (2011), Pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, Luận văn tốt nghiệp cử nhân, tr 5

5 Lê Thị Thu Thủy – chủ biên (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, Nhà xuất bản thành phố, tr 122

6 Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lí (1995), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật

Bản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr 301

Thế chấp là biện pháp bảo đảm tối ưu cho quyền tài sản và quyền đòi nợ, theo Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lí (1995) Việc chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp là cần thiết, nhưng do tính chất không thể nắm giữ về mặt vật chất của tài sản này, nên việc áp dụng các biện pháp bảo đảm có điều kiện sẽ gây khó khăn cho các bên trong việc thiết lập giao dịch bảo đảm.

Trong lĩnh vực ngân hàng, hoạt động cho vay là phổ biến tại các tổ chức tín dụng (TCTD), và hợp đồng tín dụng 8 là điều quen thuộc với các bên liên quan Khi ký kết hợp đồng này, bên vay có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho TCTD trong thời hạn đã thỏa thuận Để giảm thiểu rủi ro từ việc không thực hiện nghĩa vụ, TCTD thường yêu cầu bên vay cung cấp tài sản bảo đảm, trong đó việc thế chấp quyền đòi nợ là một biện pháp bảo đảm phổ biến nhằm đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của bên vay.

Thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận giữa khách hàng (bên vay hoặc bên thứ ba) và tổ chức tín dụng (bên cho vay) Theo đó, khách hàng sử dụng quyền đòi nợ thuộc sở hữu của mình để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản vay cùng với lãi suất phát sinh cho tổ chức tín dụng.

Đặc điểm của thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán

Giao dịch thế chấp quyền đòi nợ bao gồm ít nhất ba chủ thể, trong đó bên nhận thế chấp là tổ chức tín dụng được phép cho vay theo pháp luật ngân hàng Bên thế chấp có thể là bên đi vay hoặc một bên thứ ba sử dụng quyền đòi nợ của mình để đảm bảo cho khoản vay Một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong giao dịch này là bên có nghĩa vụ trả nợ, vì việc thực hiện nghĩa vụ của họ quyết định đến tính hợp lệ của giao dịch bảo đảm thế chấp Giao dịch thế chấp quyền đòi nợ có thể diễn ra trong hai trường hợp khác nhau.

Quyền đòi nợ dùng để thế chấp thuộc sở hữu của bên đi vay chỉ liên quan đến ba chủ thể: Tổ chức tín dụng (TCTD) đóng vai trò là bên nhận thế chấp và cũng là bên cho vay.

8 Điều 17 Quy chế cho vay của TCTD với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số

Theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, việc cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng phải được thực hiện thông qua hợp đồng tín dụng Trong hợp đồng này, bên vay là bên thế chấp, đồng thời cũng là bên có nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng.

Quyền đòi nợ được sử dụng làm tài sản thế chấp không thuộc sở hữu của bên đi vay mà thuộc về một bên thứ ba Trong trường hợp này, quan hệ thế chấp bao gồm bốn chủ thể: TCTD là bên nhận thế chấp và cũng là bên cho vay; bên đi vay có nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng tín dụng; bên thế chấp là bên thứ ba sử dụng quyền đòi nợ của mình để bảo đảm cho khoản vay; và cuối cùng là bên có nghĩa vụ trả nợ cho bên thế chấp.

Khi xác lập giao dịch thế chấp, cần phân biệt rõ giữa thế chấp và bảo lãnh, hai biện pháp bảo đảm có sự khác biệt quan trọng Theo Điều 361 BLDS, trong quan hệ bảo lãnh, bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nếu bên này không thực hiện đúng nghĩa vụ, điều này có nghĩa là bên bảo lãnh phải thanh toán phần thiếu nếu giá trị tài sản không đủ Ngược lại, trong trường hợp thế chấp, nếu giá trị tài sản thế chấp không đủ, bên thế chấp không phải thanh toán phần còn lại Thực tế tại các TCTD hiện nay cho thấy có nhiều trường hợp không phân biệt rõ giữa cho vay bảo đảm bằng bảo lãnh và thế chấp tài sản của bên thứ ba, dẫn đến tình trạng sai tên loại hợp đồng Khi tranh chấp xảy ra và được đưa ra Tòa án, thường thì hợp đồng sẽ bị tuyên vô hiệu, khiến khoản vay trở thành không được bảo đảm, làm tăng rủi ro và khó khăn trong việc thu hồi nợ cho TCTD.

Biện pháp thế chấp quyền đòi nợ là phương thức bổ sung và dự phòng cho nghĩa vụ thanh toán khoản vay trong hợp đồng tín dụng Hợp đồng thế chấp không tồn tại độc lập mà liên kết chặt chẽ với nghĩa vụ được bảo đảm, giúp các tổ chức tín dụng thu hồi nợ khi nghĩa vụ thanh toán bị vi phạm, từ đó giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay Khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ, biện pháp thế chấp quyền đòi nợ sẽ tự động chấm dứt Tóm lại, biện pháp này giúp các tổ chức tín dụng chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, cụ thể là quyền được thanh toán khoản tiền đã cho vay.

Giao dịch thế chấp quyền đòi nợ được hình thành thông qua thỏa thuận giữa các bên, và biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể phát sinh từ sự đồng thuận này Trong lĩnh vực ngân hàng, hợp đồng thế chấp thường được soạn sẵn, nhưng điều này không làm mất đi tính tự nguyện trong giao dịch Khách hàng có quyền đọc, góp ý và yêu cầu thay đổi nội dung hợp đồng nếu cần thiết Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều khách hàng khi vay vốn tại các tổ chức tín dụng thường không chú ý đến các điều khoản đã được soạn sẵn, ngoại trừ những thông tin cơ bản như lãi suất và thời hạn, điều này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của họ trong tương lai nếu xảy ra vấn đề.

Mục đích của việc thế chấp quyền đòi nợ là nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ nghĩa vụ thanh toán tiền vay, đặc biệt là bên đi vay Khi có biện pháp thế chấp, người đi vay sẽ phải nỗ lực thực hiện đúng nghĩa vụ của mình với tổ chức tín dụng để không mất quyền đòi nợ thuộc sở hữu của mình Đây không chỉ là mục đích riêng của biện pháp thế chấp quyền đòi nợ mà còn là mục đích chung của các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự.

1.1.3 Ý nghĩa của giao dịch thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng

Thế chấp quyền đòi nợ được thiết lập nhằm đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền vay trong hợp đồng tín dụng, giúp tổ chức tín dụng giảm thiểu rủi ro khi khách hàng không hoàn trả Qua việc xác lập giao dịch thế chấp, tổ chức tín dụng có thể tạo ra nguồn thu nợ dự phòng, bảo vệ nguồn vốn của mình Cần lưu ý rằng thế chấp chỉ nhằm mục đích phòng ngừa và chứng minh khả năng trả nợ của người vay, không có nghĩa là trả nợ bằng tài sản thế chấp.

Biện pháp này giúp các tổ chức tín dụng (TCTD) khắc phục sai sót trong quá trình thẩm định tín dụng trước khi quyết định cấp tín dụng Hoạt động thẩm định nhằm đánh giá khả năng thanh toán nợ của khách hàng, và nếu đánh giá không chính xác, TCTD sẽ đối mặt với rủi ro cao Khi có sai sót ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn, TCTD vẫn có quyền đòi nợ từ tài sản thế chấp của bên vay, giúp xử lý và thu hồi vốn cùng lãi suất phát sinh từ khoản vay Như vậy, quyền đòi nợ đã góp phần giảm thiểu hậu quả của những sai sót trong thẩm định tín dụng.

Thế chấp quyền đòi nợ sẽ tăng cường trách nhiệm và tạo động lực cho bên vay thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán, nhằm tránh những hậu quả không mong muốn.

là quá trình sử dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích để đánh giá độ tin cậy và rủi ro của các dự án mà khách hàng trình bày Mục đích chính của thẩm định tín dụng là hỗ trợ quyết định cho vay hay không cho vay.

Ý nghĩa của thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng

Thế chấp quyền đòi nợ thể hiện sự linh hoạt của các chủ thể và pháp luật trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khi nhu cầu vốn ngày càng gia tăng Việc mở rộng các loại tài sản bảo đảm, bao gồm quyền đòi nợ, là cách hiệu quả để đáp ứng nhu cầu tài chính của cá nhân và tổ chức Quyền đòi nợ, với tính phổ biến của nó, có thể được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ dân sự và nghĩa vụ thanh toán tiền vay cho các tổ chức tín dụng (TCTD), từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn phục vụ sản xuất kinh doanh Nhờ đó, thế chấp quyền đòi nợ đã góp phần kích thích hoạt động cho vay của các TCTD, đồng thời giảm thiểu rủi ro cho các bên liên quan.

Trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay, thế chấp quyền đòi nợ đang ngày càng trở nên phổ biến trong việc đảm bảo các giao dịch giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, đặc biệt là trong hợp đồng tín dụng Mặc dù có nhiều ưu điểm và ý nghĩa quan trọng, nhưng pháp luật hiện hành về biện pháp này vẫn còn nhiều khoảng trống, gây khó khăn trong việc xác lập và thực hiện.

Một hệ thống quy định hiệu quả về quyền đòi nợ sẽ thúc đẩy việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản này, đồng thời cung cấp cơ sở pháp lý đầy đủ cho giao dịch thế chấp quyền đòi nợ.

Pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tíndụng

Quy định pháp luật Việt Nam về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng trong lịch sử

vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng trong lịch sử

Thế chấp đã xuất hiện từ thời phong kiến ở Việt Nam, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật như Hình thư thời Lý và Quốc triều hình luật thời Lê sơ Trong giai đoạn này, chỉ có ruộng đất được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho các khoản vay, gọi là cầm cố, mặc dù đây chỉ là hình thức sơ khai của thế chấp Đến đầu thế kỷ XX, Bộ luật dân sự Bắc Kỳ 1936 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc quy định về thế chấp.

10 Bùi Đức Giang (2013),“Khoảng trống pháp luật về quyền đòi nợ” , Tạp chí Nhà nước và pháp luật 8/2013, tr 39

Vào năm 1935, Trung Kì đã thiết lập sự bảo đảm đối vật dựa trên nguyên tắc hợp đồng, nhưng chưa chính thức công nhận thế chấp và không đề cập đến quyền đòi nợ.

Trong giai đoạn luật hiện đại, việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền vay được ghi nhận lần đầu trong “Quy định về việc thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng” theo Quyết định số 156/1989 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Sau đó, thế chấp bảo đảm nghĩa vụ được quy định chính thức trong Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991 và tiếp tục trong Bộ luật dân sự 1995, trong đó lần đầu tiên xuất hiện quy định về việc dùng quyền đòi nợ để bảo đảm nghĩa vụ dân sự Tuy nhiên, Bộ luật dân sự 1995 phân biệt cầm cố và thế chấp theo loại tài sản, dẫn đến việc không có quy định về “thế chấp quyền đòi nợ,” mà chỉ có quy định về cầm cố quyền tài sản tại khoản 1 Điều 329 và Điều 338, cùng với cầm cố quyền đòi nợ được ghi nhận tại khoản 4 Điều 7 Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 1999 về giao dịch bảo đảm.

Bộ luật dân sự 2005 đã thay đổi cách phân biệt giữa cầm cố và thế chấp, không còn dựa trên loại tài sản mà dựa vào việc có hay không chuyển giao tài sản bảo đảm Cầm cố được áp dụng khi có sự chuyển giao tài sản, trong khi thế chấp không yêu cầu điều này Sự thay đổi này đã dẫn đến việc điều chỉnh pháp lý đối với giao dịch bảo đảm, đặc biệt là quyền đòi nợ, khi "cầm cố quyền đòi nợ" được thay thế bằng "thế chấp quyền đòi nợ" Việc này là hợp lý vì quyền đòi nợ là tài sản vô hình, không thể chuyển giao vật chất, và bên thế chấp chỉ cần cung cấp chứng cứ quyền sở hữu, trong khi vẫn giữ tài sản thế chấp, đảm bảo tính chất vô hình của quyền đòi nợ.

Trong Bộ luật Dân sự, bên cạnh các quy định chung về quyền tài sản và quyền đòi nợ để bảo đảm nghĩa vụ dân sự, Nghị định 163/2006/NĐ-CP cũng đã đưa ra một số quy định riêng về thế chấp quyền đòi nợ Tuy nhiên, các quy định này vẫn chưa đầy đủ và hiệu quả trong việc thiết lập và thực hiện giao dịch thế chấp quyền đòi nợ.

Pháp luật ngân hàng, với bản chất là giao dịch dân sự, không quy định cụ thể về các giao dịch bảo đảm nghĩa vụ thanh toán tiền vay Thay vào đó, các giao dịch này chủ yếu được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự và Nghị định 163/2006/NĐ-CP Đặc biệt, giao dịch thế chấp quyền đòi nợ để bảo đảm nghĩa vụ thanh toán tiền vay trong hợp đồng tín dụng hiện nay cũng tuân theo các quy định này Ngoài ra, việc xử lý quyền đòi nợ dùng để thế chấp được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN, có hiệu lực từ ngày 22 tháng 7 năm 2014, nhằm quy định rõ hơn về xử lý tài sản bảo đảm.

Thực trạng quy định pháp luật và kiến nghị giải pháp hoàn thiện về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng

Thực trạng quy định pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ

Thế chấp quyền đòi nợ là một giao dịch phức tạp, liên quan đến ít nhất ba bên, khác với các giao dịch thế chấp thông thường Các quy định trong Nghị định 163/2006/NĐ-CP không đủ để giải quyết triệt để các tình huống thực tế, dẫn đến nhiều bất cập và khó khăn cho các bên trong quá trình xác lập và thực hiện việc thế chấp quyền đòi nợ.

2.1.1 Về quyền đòi nợ dùng để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng

2.1.1.1 Về quyền đòi nợ dùng để thế chấp

Pháp luật hiện nay đã công nhận quyền đòi nợ trong các giao dịch dân sự và việc sử dụng quyền này để bảo đảm nghĩa vụ dân sự, nhưng vẫn chưa đưa ra khái niệm rõ ràng về quyền đòi nợ Sự thiếu hụt này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong việc áp dụng quyền đòi nợ trong các giao dịch dân sự, gây khó khăn trong việc thực hiện các nghĩa vụ liên quan.

Thứ nhất, cách hiểu không thống nhất về quyền đòi nợ trong hoạt động thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán tiền vay

Sự không thống nhất trong việc hiểu quyền đòi nợ trong hoạt động thế chấp có thể gây ra rào cản lớn cho việc thiết lập hợp đồng thế chấp và hợp đồng tín dụng Khi các bên không có quan điểm chung về quyền đòi nợ, tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn trong việc cấp tín dụng, làm cho cá nhân và tổ chức khó tiếp cận nguồn vốn Thiếu khái niệm chính thức về quyền đòi nợ khiến bên thế chấp khó chứng minh quyền lợi của mình, dẫn đến tâm lý e ngại của tổ chức tín dụng trong việc cho vay Hơn nữa, việc sử dụng quyền đòi nợ hình thành trong tương lai làm tài sản bảo đảm gặp khó khăn do không có quy định rõ ràng về nhận dạng và xác định loại tài sản này, trong khi rủi ro liên quan đến loại tài sản này cao hơn so với quyền đòi nợ thông thường.

Trong đời sống dân sự, đặc biệt trong các giao dịch với tổ chức tín dụng, vấn đề phân biệt giữa quyền đòi nợ và quyền phát sinh từ hợp đồng thường gặp phải nhiều khó khăn Nguyên nhân chính của tình trạng này là do quy định pháp luật chưa rõ ràng, dẫn đến sự nhầm lẫn trong việc xác định các quyền lợi hợp pháp.

Trong các điều luật của Bộ luật Dân sự 322, quyền đòi nợ và quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng được xem là hai loại quyền độc lập, mặc dù trên thực tế, quyền đòi nợ là một dạng quyền tài sản Pháp luật hiện hành chưa định nghĩa rõ ràng về quyền đòi nợ cũng như quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, trong khi cả hai quyền này đang ngày càng trở nên quan trọng trong hoạt động cấp tín dụng tại các tổ chức tín dụng.

Những thiếu sót trong pháp luật không chỉ cản trở khả năng tiếp cận vốn cho các tổ chức và cá nhân trong xã hội mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

“không gian” cấp tín dụng của các TCTD khó được mở rộng và thông thoáng hơn

Thứ hai, về vấn đề hình thức bảo đảm của thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong HĐTD hiện nay

Hiện nay, nhiều TCTD sử dụng quyền đòi nợ làm tài sản đảm bảo, nhưng thực chất đây lại được xem như hình thức cho vay tín chấp Việc xác minh quyền đòi nợ chủ yếu dựa vào chứng từ từ khách hàng, như bảng chi tiết các khoản phải thu và báo cáo tài chính, nhưng những tài liệu này có thể dễ dàng bị làm giả Do đó, TCTD thường chỉ chấp nhận quyền đòi nợ từ những bên có uy tín cao hoặc nằm trong danh sách cho phép của ngân hàng Cho vay tín chấp không yêu cầu tài sản đảm bảo, và chỉ áp dụng cho những khách hàng có uy tín và tình hình tài chính ổn định Sự khác biệt giữa cho vay tín chấp và cho vay có bảo đảm bằng quyền đòi nợ rất lớn, dẫn đến việc TCTD gặp khó khăn khi xử lý quyền đòi nợ nếu không tuân thủ đúng quy định pháp luật liên quan.

2.1.1.2 Vấn đề định giá quyền đòi nợ

Pháp luật không quy định giá trị của quyền đòi nợ so với khoản vay trong hợp đồng tín dụng, trừ trường hợp quyền đòi nợ được dùng để bảo đảm nhiều nghĩa vụ theo Điều 324 BLDS, nhưng vẫn ưu tiên thỏa thuận giữa các bên Tuy nhiên, việc định giá quyền đòi nợ rất cần thiết với vai trò là biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ chính và là nguồn thu nợ thứ hai, do đó, các tổ chức tín dụng thường phải thực hiện hoạt động này trước khi cho vay.

Mặc dù giá trị tại thời điểm định giá không phản ánh giá trị thực tế khi xử lý, các TCTD vẫn cần thực hiện định giá một cách hợp lý Khi bên vay vi phạm nghĩa vụ, giá trị định giá sẽ là nguồn thu hồi nợ chính cho TCTD Nếu định giá quá cao so với giá trị thực của quyền đòi nợ, khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc lẫn lãi sẽ giảm Ngược lại, nếu định giá quá thấp, TCTD có thể không đáp ứng đủ nhu cầu vốn của khách hàng và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng thế chấp.

Trước đây, khoản 2 Điều 9 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm

Năm 1999, quy định về bảo đảm tiền vay cho các tổ chức tín dụng (TCTD) nêu rõ rằng “giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải lớn hơn giá trị khoản vay” Quy định này nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho các TCTD trong quá trình cho vay.

25 Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr 171

TCTD là một trở ngại lớn đối với các tổ chức và cá nhân có dự án khả thi nhưng tài sản bảo đảm không đủ giá trị Điều này đã được cải thiện nhờ Điều 5 Nghị định 163/2006/NĐ-CP, khi pháp luật không yêu cầu giá trị tài sản bảo đảm mà tôn trọng thỏa thuận giữa các bên Tuy nhiên, thực tế vẫn cho thấy hoạt động này còn phức tạp và cần có sự điều chỉnh pháp lý chặt chẽ hơn để khắc phục những bất cập.

Thứ nhất, pháp luật không đặt ra yêu cầu giá trị quyền đòi nợ

Cả Bộ luật Dân sự và Nghị định 163/2006/NĐ-CP cho phép tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn khoản vay, điều này tương đồng với xu hướng pháp luật dân sự tại nhiều quốc gia như Pháp, Nhật, và Thái Lan Tuy nhiên, để giảm thiểu rủi ro, các tổ chức tín dụng thường định giá tài sản bảo đảm thấp hơn giá trị thực hoặc yêu cầu tài sản phải lớn hơn khoản vay, điều này thể hiện sự thận trọng trong cho vay Tuy nhiên, yêu cầu này có thể tạo ra rào cản cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, khi tỷ lệ vốn vay ngân hàng thường lớn hơn vốn chủ sở hữu Chính sách tài trợ dựa trên giá trị tài sản bảo đảm có thể hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng thương mại và khả năng phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp.

Định giá là yếu tố quan trọng mà các tổ chức tín dụng (TCTD) xem xét khi quyết định cho vay và xác định mức cho vay Hoạt động này không hề đơn giản và tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu có sai sót trong quá trình định giá.

Hiện nay, hầu hết các tổ chức tín dụng (TCTD) đều thiết lập bộ phận định giá hoặc thuê tổ chức bên ngoài để thực hiện định giá tài sản Mỗi TCTD có những quy định riêng về phương pháp định giá tài sản vô hình, đặc biệt là quyền đòi nợ Đây là một vấn đề phức tạp, do đó, việc chú trọng đến quy trình và tiêu chuẩn định giá là rất cần thiết.

Trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, việc định giá tài sản thế chấp gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng định giá sai Nguyên nhân chủ yếu không chỉ đến từ những yếu tố vô hình và khó nắm bắt của loại tài sản này, mà còn liên quan đến ý chí và tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong quá trình định giá.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ

2.2.1 Về quyền đòi nợ dùng để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng

2.2.1.1 Về quyền đòi nợ dùng để thế chấp

Thứ nhất, cần thiết phải ghi nhận cách hiểu chính thức về quyền đòi nợ vào các văn bản quy phạm pháp luật

Quyền đòi nợ đang trở thành một yếu tố quan trọng trong các giao dịch dân sự, đặc biệt là trong các giao dịch bảo đảm Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự và Nghị định 163/2006/NĐ-CP hiện không có quy định nào định nghĩa rõ ràng về quyền đòi nợ Thực tế cho thấy, việc thiếu sự hiểu biết thống nhất về đối tượng giao dịch đã gây khó khăn cho các bên trong việc thiết lập giao dịch Do đó, cần thiết phải ghi nhận khái niệm về quyền đòi nợ, hoặc ít nhất là cung cấp sự giải thích rõ ràng về quyền này trong các văn bản pháp luật, nhằm giúp các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch tự tin hơn trong việc thiết lập các thỏa thuận.

Quyền đòi nợ hiện chưa có định nghĩa rõ ràng, gây lúng túng cho các chủ thể áp dụng trong quá trình thực hiện quy định pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ Theo Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN, bên nhận thế chấp có quyền thu giữ tài sản bảo đảm nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ Điều này đặt ra câu hỏi liệu quyền đòi nợ chỉ là quyền yêu cầu thanh toán tiền hay còn bao gồm quyền yêu cầu hoàn trả tài sản cụ thể Tuy nhiên, vấn đề này chưa được pháp luật và học thuật đề cập đầy đủ Do đó, việc xây dựng khái niệm về quyền đòi nợ cần xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính khả thi trong thực tiễn.

Theo quyển “Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp – Việt, Nhà pháp luật Việt - Pháp”, “Cre’ance” được định nghĩa là quyền đòi lại một khoản tiền Tại Pháp, quyền đòi nợ chủ yếu liên quan đến khoản tiền, và việc áp dụng khái niệm này trong pháp luật Việt Nam sẽ giúp đơn giản hóa các vấn đề liên quan Khi xác định quyền đòi nợ chỉ gói gọn trong khoản tiền, chúng ta dễ dàng hơn trong việc thực hiện các giao dịch, vì các chủ thể thường hiểu quyền này là quyền yêu cầu thanh toán Do đó, nên có một chế định riêng cho những đối tượng khác ngoài khoản tiền.

Thứ hai, cần những quy định đặc thù về các loại quyền như: quyền phát sinh từ hợp đồng, quyền đòi nợ hình thành trong tương lai…

Trong việc xây dựng khái niệm về quyền đòi nợ, cần thiết phải có các quy định đặc thù liên quan đến các loại quyền như quyền phát sinh từ hợp đồng và quyền đòi nợ hình thành trong tương lai Quyền đòi nợ được coi là một loại quyền phát sinh từ hợp đồng, do đó, việc hiểu rõ về loại quyền này sẽ giúp xác định các đặc điểm riêng biệt của quyền đòi nợ và phân biệt nó với các quyền phát sinh từ hợp đồng khác Hiện tại, pháp luật chỉ đề cập đến hai loại quyền tài sản từ hợp đồng là quyền đòi nợ và quyền nhận tiền bảo hiểm, mà chưa quy định về các quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng khác Khi xây dựng khái niệm về quyền phát sinh từ hợp đồng, cần chú ý đến các loại hợp đồng để tránh hiểu sai lệch, vì thực tế các loại hợp đồng rất phong phú và phức tạp.

Tài sản hình thành trong tương lai đã được Nghị định 163/2006/NĐ-CP liệt kê tại khoản 2 Điều 4(được sửa đổi bổ sung theo khoản 2 Điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-

CP 32 ), nhưng cách quy định dường như lại chỉ hướng đến những loại tài sản hữu hình

Theo khoản 2 Điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP, tài sản hình thành trong tương lai bao gồm tài sản từ vốn vay, tài sản đang trong quá trình hình thành hợp pháp, và tài sản đã hình thành nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu Tuy nhiên, việc xác định quyền đòi nợ hình thành trong tương lai cần được làm rõ hơn, vì đây là một loại quyền đòi nợ Cần xây dựng khái niệm về quyền đòi nợ hình thành trong tương lai dựa trên hiểu biết về quyền đòi nợ để đảm bảo tính thống nhất trong các quy phạm pháp luật, giúp các bên liên quan dễ dàng xác định quyền lợi của mình Đồng thời, cũng cần làm rõ các đặc điểm riêng của quyền này như tình trạng chưa thuộc sở hữu và thời điểm hình thành quyền.

Thứ ba, cần làm rõ về các cách thức của thế chấp quyền đòi nợ

Việc xây dựng cách hiểu chính thức về quyền đòi nợ pháp luật cần làm rõ các hình thức thế chấp quyền đòi nợ để phù hợp với thực tiễn giao dịch Tại Anh, thế chấp quyền đòi nợ được thực hiện qua hai hình thức: chuyển giao quyền đối với các khoản nợ và chuyển giao quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng đối với tài sản đặc biệt như tiền trong tài khoản ngân hàng Trong khi đó, pháp luật Việt Nam hiện chỉ quy định một cách chung về thế chấp quyền đòi nợ mà không phân biệt các hình thức như pháp luật Anh Việc tiếp thu quy định này là cần thiết, giúp các bên giao dịch có thể lựa chọn hình thức thế chấp phù hợp, đồng thời cần đảm bảo tính phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam.

2.2.1.2 Vấn đề định giá quyền đòi nợ

Để hạn chế sự tùy tiện và chèn ép từ các tổ chức tín dụng, cần xây dựng khung pháp lý rõ ràng về định giá tài sản, đặc biệt là định giá quyền đòi nợ.

Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất”

Bài viết của Vũ Thị Hồng Yến và Bùi Đức Giang (2013) tập trung vào tính đối kháng của các phương tiện phòng vệ của bên có nghĩa vụ trả nợ trong giao dịch thế chấp quyền đòi nợ Nghiên cứu này được đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 15, tháng 10, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các biện pháp bảo vệ quyền lợi của bên nợ trong bối cảnh giao dịch tài chính phức tạp.

Vào tháng 8 năm 2013, một bài viết đã được công bố trên trang thongtinphapluatdansu.edu.vn, nêu rõ tầm quan trọng của việc trả nợ trong các giao dịch thế chấp quyền đi nợ Nội dung bài viết nhấn mạnh rằng các phương tiện phòng vệ của bên có nghĩa vụ trả nợ cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan.

Pháp luật hiện tại không quy định giá trị quyền đòi nợ khi thế chấp, dẫn đến việc các tổ chức tín dụng (TCTD) có thể lạm dụng vị thế của mình, gây khó khăn cho bên thế chấp trong việc xác định giá trị quyền đòi nợ Để giải quyết vấn đề này, cần xây dựng một khung pháp lý rõ ràng về định giá tài sản, đặc biệt là quyền đòi nợ, nhằm hạn chế sự tùy tiện và chèn ép từ các TCTD Khung định giá này cần dựa trên các yếu tố hợp lý, phù hợp với thị trường và kinh tế, nhằm tạo ra một “kênh pháp lý” thực sự hỗ trợ bên thế chấp và nâng cao hiệu quả cho vay.

Mỗi TCTD cần áp dụng phương pháp định giá quyền đòi nợ một cách cụ thể, đảm bảo tính công bằng và khoa học Đồng thời, cần thiết lập cơ chế kiểm tra để đảm bảo hoạt động này diễn ra hiệu quả.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) cần chủ động bảo vệ mình khỏi rủi ro trong hoạt động định giá quyền đòi nợ, bên cạnh những nỗ lực hoàn thiện từ pháp luật Mỗi TCTD nên áp dụng phương pháp định giá cụ thể, đảm bảo tính công bằng và khoa học, cùng với cơ chế kiểm tra hiệu quả Việc kiểm tra không chỉ tập trung vào giá trị thực tế của quyền đòi nợ mà còn cần giám sát nhân viên thực hiện định giá, nhằm ngăn chặn tình trạng "câu kết" giữa bên thế chấp và nhân viên để nâng cao giá trị không chính đáng.

“khống” giá trị quyền đòi nợ

Để ngăn ngừa rủi ro trong tương lai, các Tổ chức tín dụng (TCTD) cần chuyên môn hóa nghiệp vụ định giá cho nhân viên tín dụng Việc này giúp hạn chế tối đa sai sót vô ý trong quá trình hoạt động, từ đó giảm thiểu những hệ quả phức tạp có thể xảy ra sau này.

2.2.2 Về hình thức của hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng

2.2.2.1 Về đăng kí hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ

Để khuyến khích các chủ thể đăng ký hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ, cần xây dựng cơ chế đồng bộ, phù hợp giữa đăng ký bắt buộc và tự nguyện Mặc dù là tự nguyện, nhưng các bên cần quy trình và thủ tục cụ thể để thực hiện đăng ký một cách thuận tiện Do đó, pháp luật nên quy định một trình tự riêng hoặc hướng dẫn để các bên biết cách tiến hành Điều này sẽ tạo tâm lý thoải mái cho các bên khi xác lập giao dịch Đối với quyền tài sản nói chung và quyền đòi nợ nói riêng, cần quy định rằng việc đăng ký sẽ được thực hiện theo trình tự đăng ký giao dịch bằng động sản, trừ tàu bay và tàu biển, tại Trung tâm đăng ký giao dịch Quy định này không chỉ giúp các chủ thể hiểu rõ hơn về thủ tục cần thực hiện mà còn giảm bớt sự phức tạp của pháp luật hiện hành.

Pháp luật cần đơn giản hóa hệ thống đăng ký để tránh sự chồng chéo thẩm quyền, giúp các bên dễ dàng thực hiện việc đăng ký Mô hình cơ quan đăng ký cần đảm bảo tính thông suốt, tạo thuận lợi cho các chủ thể muốn đăng ký giao dịch thế chấp quyền đòi nợ Điều này cũng giúp các tổ chức tín dụng (TCTD) nhanh chóng tiếp cận thông tin chính xác về tình trạng quyền đòi nợ, từ đó thúc đẩy quá trình ra quyết định cho vay và giúp cá nhân, tổ chức dễ dàng tiếp cận nguồn vốn Hơn nữa, việc đơn giản hóa hệ thống đăng ký cũng nhằm hướng tới thống nhất một cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, tạo thuận lợi tối đa cho cả trường hợp đăng ký bắt buộc và tự nguyện.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:32

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
13. TrườngĐạihọcLuậtHàNội(2010), GiáotrìnhLuậtngânhàngViệt Nam, NhàxuấtbảnCôngannhândân Sách, tạp chí
Tiêu đề: GiáotrìnhLuậtngânhàngViệt Nam
Tác giả: TrườngĐạihọcLuậtHàNội
Nhà XB: NhàxuấtbảnCôngannhândân
Năm: 2010
14. BộTưpháp – Việnnghiêncứukhoahọcpháplí (1995), BìnhluậnkhoahọcBộluậtdânsựNhậtBản, NhàxuấtbảnChínhtrịquốcgia Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), BìnhluậnkhoahọcBộluậtdânsựNhậtBản
Tác giả: BộTưpháp – Việnnghiêncứukhoahọcpháplí
Nhà XB: NhàxuấtbảnChínhtrịquốcgia
Năm: 1995
15. ĐỗVănĐại (2012), Luậtnghĩavụdânsựvàbảođảmthựchiệnnghĩavụdânsự - BảnánvàbìnhluậnbảnánTập 1, NhàxuấtbảnChínhtrịquốcgia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luậtnghĩavụdânsựvàbảođảmthựchiệnnghĩavụdânsự - BảnánvàbìnhluậnbảnánTập 1
Tác giả: ĐỗVănĐại
Nhà XB: NhàxuấtbảnChínhtrịquốcgia
Năm: 2012
19. NguyễnXuânQuang - LêNết - NguyễnHồBíchHằng (2007), LuậtdânsựViệt Nam, NhàxuấtbảnĐạihọcquốcgia Sách, tạp chí
Tiêu đề: LuậtdânsựViệt Nam
Tác giả: NguyễnXuânQuang - LêNết - NguyễnHồBíchHằng
Nhà XB: NhàxuấtbảnĐạihọcquốcgia
Năm: 2007
(2010),Phápluậtvềthếchấptronghoạtđộngchovaycủacácngânhàngthươngmại ở Việt Nam,Luậnvănthạcsĩluậthọc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phápluậtvềthếchấptronghoạtđộngchovaycủacácngânhàngthươngmại ở Việt Nam
5. Nghịđịnh 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 vềgiaodịchbảođảm Khác
6. Nghịđịnh 11/2012/NĐ-CPngày 22 tháng 2 năm 2012sửađổi, bổ sung mộtsốđiềucủaNghịđịnhsố 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 vềgiaodịchbảođảm Khác
7. Nghịđịnh 83/2010/NĐ-CPngày 23 tháng 7 năm 2010 vềđăngkígiaodịchbảođảm Khác
8. Nghịđịnh 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999vềbảođảmtiềnvaycủacáctổchứctíndụng Khác
9. Thôngtưliêntịch 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNNngày 6 tháng 6 năm 2014 hướngdẫnmộtsốvấnđềvềxửlýtàisảnbảođảm Khác
10. Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước) Khác
11. Côngvăn 2057/BTP-HCTP ngày 9 tháng 5 năm 2007 vềviệccôngchứnghợpđồngthếchấptàisảnhìnhthànhtrongtươnglai Khác
12. Côngvăn 3744/BTP-HCT ngày 4 tháng 9 năm 2007 vềviệccôngchứnggiaodịchbảođảm. Danhmụcsách, bàiviếttrênbáo, tạpchí Khác
18. NhàphápluậtViệt – Pháp (2009), TừđiểnthuậtngữphápluậtPháp – Việt, Nhàxuấtbảntừđiểnbáchkhoa Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w