1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí ở việt nam (luận văn thạc sỹ luật học)

93 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 93
Dung lượng 1,29 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM (12)
    • 1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (12)
      • 1.1.1. Khái niệm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (12)
      • 1.1.2. Đặc điểm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (15)
    • 1.2. Vai trò, ý nghĩa quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (21)
      • 1.2.1. Góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền (22)
      • 1.2.2. Phản biện xã hội (22)
      • 1.2.3. Chức năng thông tin (23)
      • 1.2.4. Chức năng phản ánh – quản lý xã hội (23)
      • 1.2.5. Chức năng tạo ra dư luận xã hội, góp sức định hướng dư luận xã hội (24)
      • 1.2.6. Chức năng nâng cao dân trí (24)
    • 1.3. Nội dung quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (25)
      • 1.3.1. Quyền tự do tiếp cận báo chí (25)
      • 1.3.2. Quyền trình bày quan điểm của mình (27)
      • 1.3.3. Quyền phê bình, đánh giá các chính sách công (28)
      • 1.3.4. Quyền không bị kiểm duyệt trái pháp luật (29)
      • 1.3.5. Quyền bình đẳng và không bị phân biệt đối xử (31)
      • 1.3.6. Quyền được sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ viết hoặc nói, bảo vệ quyền khi bị xâm hại (32)
    • 1.4. Biện pháp đảm bảo thực hiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (33)
      • 1.4.1. Vai trò, ý nghĩa của những biện pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận (33)
      • 1.4.2. Những đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí trên thực tế ở Việt Nam hiện nay (35)
    • 2.1. Thực trạng pháp luật về quyền và các biện pháp đảm bảo quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (41)
      • 2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (41)
      • 2.1.2 Thực trạng quy định pháp luật về các biện pháp để bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (50)
    • 2.2. Thực tiễn thực thi quyền và biện pháp đảm bảo quyền tự do ngôn luận (60)
      • 2.2.1 Thực tiễn thực thi quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (60)
      • 2.2.2. Thực tiễn thực thi các biện pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (68)
    • 2.3. Một số giải pháp hoàn thiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí (77)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM

Khái niệm, đặc điểm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

1.1.1 Khái niệm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

Tự do ngôn luận là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực chính trị và pháp lý, liên quan đến quyền con người và mối quan hệ giữa nhà nước và công dân Nó bao gồm các yếu tố như tự do báo chí, tự do thông tin, cùng với những khía cạnh kinh tế, văn hóa và xã hội khác Việc phân tích khái niệm này giúp làm rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của tự do ngôn luận trong đời sống xã hội.

Tự do theo John Locke (1632-1704) được định nghĩa là khả năng con người làm bất cứ điều gì mình mong muốn mà không gặp cản trở Tuy nhiên, định nghĩa này có hạn chế, vì nếu tự do không bị giới hạn, nó có thể dẫn đến lạm dụng và ảnh hưởng tiêu cực đến người khác và trật tự xã hội Hegel đã đưa ra một định nghĩa mới, cho rằng tự do là cái tất yếu được nhận thức, tức là các quy luật tự nhiên Theo Hegel, tự do là sự hiểu biết và tuân thủ các quy luật này Montesquieu bổ sung rằng tự do chỉ có thể tồn tại khi con người được làm những điều nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm, tức là quyền thực hiện tất cả những gì pháp luật cho phép.

Năm 1997, hai khái niệm về sự tự do đã được phân biệt: tự do tiêu cực và tự do tích cực Tự do tiêu cực là trạng thái không bị cưỡng chế, cho phép con người làm bất cứ điều gì miễn là không bị cấm Ngược lại, tự do tích cực là khả năng thực hiện những điều mà con người thực sự mong muốn Từ những cách hiểu khác nhau về "tự do", ta có thể nhận thấy rằng tự do được định nghĩa chung là quyền làm những gì pháp luật cho phép, và tự do không phải là tuyệt đối mà bị giới hạn bởi các quy định pháp lý.

“Ngôn luận” không chỉ đơn thuần là việc sử dụng lời nói mà còn bao gồm cả việc viết để trình bày lý luận và thảo luận về các vấn đề Khái niệm này phản ánh hành vi của những người trưởng thành và có hiểu biết, không áp dụng cho trẻ em.

2 John Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Lê Tuấn Huy dịch, NXB Tri Thức (2007)

3 Hegel (1977), Triết học tôn giáo, gồm 2 tập, t.2 Mátxcơva, tr 339 (tiếng Nga)

4 Montesquieu 2006), Bàn về tinh thần pháp luật, người dịch Hoàng Thanh Đạm, NXB Lý luận chính trị, tr 105

5 https://caphesach.wordpress.com/2015/01/22/mot-so-van-de-ve-quyen-tu-do-ngon-luan/ truy cập ngày 15/09/2016

6 John Stuart Mill (2006), Bàn về tự do, người dịch Nguyễn Văn Trọng, NXB Tri Thức, tr 34-35

Tự do ngôn luận cho phép mỗi cá nhân sử dụng ngôn ngữ và chữ viết để bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về các vấn đề và sự kiện, nhằm cổ vũ, bình luận hoặc phản bác, miễn là không vi phạm các quy định pháp luật.

Tự do ngôn luận là một trong những quyền tự nhiên quan trọng của con người, bên cạnh quyền tự do báo chí và quyền tự do lập hội Đây là quyền mà cá nhân, pháp nhân và nhà nước có thể thực hiện hợp pháp mà không bị ngăn cấm Việc thực hiện quyền này phụ thuộc vào ý chí của chủ thể và không bắt buộc, ngoại trừ những trường hợp quyền đồng thời là nghĩa vụ Quyền có thể là quyền tự nhiên vốn có hoặc dựa trên quy định của pháp luật và ủy quyền từ chủ thể khác Tuy nhiên, quyền này mang tính tương đối và luôn bị hạn chế bởi ý chí của nhà nước và các chủ thể khác.

Quyền tự do ngôn luận (QTDNL) được coi là một quyền tự nhiên vì nó gắn liền với nhu cầu giao tiếp, một nhu cầu cơ bản và thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của con người trong xã hội Mỗi cá nhân sinh ra đã có quyền này, không phải do nhà nước cấp phát, mà nhà nước có trách nhiệm ghi nhận và bảo đảm cho mọi công dân thực hiện quyền này một cách hiệu quả Mọi nền dân chủ đều có sứ mệnh tôn trọng và bảo vệ quyền tự do ngôn luận.

Tự do biểu đạt, theo QTDNL, được hiểu là quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá ý tưởng cũng như thông tin mà không bị giới hạn biên giới Khoản 2 Điều 19 của Công ước các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) khẳng định rằng mọi người có quyền tự do biểu đạt, bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực hay hình thức, thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào mà họ lựa chọn Do đó, khái niệm tự do ngôn luận bao gồm ba nội dung chính: quyền tự do tìm kiếm thông tin, quyền tự do tiếp nhận thông tin và quyền tự do truyền bá, phổ biến thông tin.

Tự do tìm kiếm thông tin là quyền của công dân yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin và tiếp cận các tài liệu mà họ cần hoặc quan tâm, trong khuôn khổ pháp luật cho phép Công dân có quyền xem, đọc và nghe các tác phẩm, hồ sơ và tài liệu mà cơ quan nhà nước đang nắm giữ.

7 “Từ điển Bách khoa Toàn thư” online, http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn truy cập ngày 14/04/2016

Các thông tin do các cơ quan nhà nước quản lý hoặc kiểm soát được ghi chép, trích dẫn và sao chụp dưới nhiều hình thức và phương tiện khác nhau Điều này là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo công dân có thể tiếp cận thông tin cần thiết, từ đó thực hiện quyền truyền bá và phổ biến thông tin.

Tiếp nhận thông tin của công dân là quyền được tiếp cận thông tin và tài liệu do cơ quan nhà nước cung cấp, giúp công dân nắm bắt đầy đủ và kịp thời thông tin cần thiết Quyền này cho phép công dân nhận thông tin một cách dễ dàng thông qua các kênh truyền thông công khai mà không cần phải yêu cầu, đảm bảo tính minh bạch trong quản lý nhà nước.

Truyền bá thông tin là quyền của mỗi công dân trong việc chia sẻ quan điểm và kiến thức mà họ sở hữu, không bị giới hạn bởi ranh giới hay hình thức truyền đạt.

Quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin có mối liên hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau Việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin sẽ giúp thông tin được công bố công khai, từ đó công dân có thể chủ động trong việc truyền bá và thể hiện quan điểm của mình.

Quyền tự do biểu đạt bao gồm việc truyền đạt và tiếp nhận thông điệp về ý tưởng và quan điểm dưới mọi hình thức, từ tranh luận chính trị, bình luận về cá nhân và vấn đề xã hội, đến vận động nhân quyền, báo chí, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục và tranh luận tôn giáo Quyền này không phụ thuộc vào hình thức hay nội dung của thông điệp Tuy nhiên, mặc dù là quyền tự nhiên, vẫn cần có những hạn chế cần thiết, như quy định tại Khoản 3 Điều ICCPR, cấm mọi hình thức tuyên truyền cho chiến tranh và các chủ trương gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo, nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử, thù địch và bạo lực.

Ngày nay, việc áp dụng Quyền Tiếp Cận Dữ Liệu Năng Lượng (QTDNL) với sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông hiện đại rất quan trọng cho việc hiểu rõ nội dung của các quyền và thúc đẩy việc thực thi chúng trong thực tế Báo chí và các phương tiện truyền thông đóng vai trò thiết yếu trong việc truyền tải quan điểm và thông điệp liên quan đến quyền lợi này.

9 Thái Thị Tuyết Dung (2015), Quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp.HCM, tr 24

10 Thái Thị Tuyết Dung (2015), tlđd (9), tr 26

Vai trò, ý nghĩa quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

Để bảo đảm quyền con người, chúng ta cần thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm mang lại tự do thực sự cho hạnh phúc của nhân dân, an ninh và phát triển của đất nước Quyền tiếp cận thông tin, báo chí là quyền của công dân trong một xã hội dân chủ và pháp quyền, khẳng định rằng người dân có tự do và quyền lực thực sự Quyền này không chỉ quan trọng trong cấu trúc quyền con người mà còn là điều kiện để bảo đảm các quyền khác, đặc biệt là quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội Lịch sử đã chứng minh rằng khi xã hội bị đình trệ và quyền con người bị vi phạm, nhu cầu về thông tin và báo chí lại trở nên cấp thiết, thể hiện tinh thần phản kháng và khát vọng tự do Đối với công chúng, báo chí là nơi họ bày tỏ thái độ, nguyện vọng và ước mơ của mình Do đó, khi quyền tiếp cận thông tin và báo chí không được tôn trọng, nhà nước và xã hội thường rơi vào khủng hoảng.

Báo chí và thông tin đóng vai trò chính trị - xã hội quan trọng, là công cụ giúp nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển, báo chí và truyền thông trở thành yếu tố thiết yếu cho hoạt động của công dân, góp phần nâng cao hiệu quả tham gia vào các vấn đề xã hội và nhà nước Thiếu thông tin, hoạt động của công dân sẽ trở nên kém hiệu quả Các vai trò và chức năng chính của báo chí trong lĩnh vực này cần được khái quát để thấy rõ tầm quan trọng của nó.

1.2.1 Góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền

Nhà nước pháp quyền bảo vệ quyền con người và quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó quyền tự do báo chí được coi là quyền lực thứ tư Quyền này đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát và kiểm tra của nhân dân đối với các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Tiếng nói phản biện và phản ánh thực tế của báo chí là tiếng nói của nhân dân, không thể thiếu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền vì dân, do dân.

Dân chủ và nhà nước pháp quyền là hai yếu tố thiết yếu trong thể chế chính trị hiện đại, trong đó tiếng nói của báo chí phản ánh công luận và sức mạnh của người dân Công dân cần được tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin để có thể bàn luận, đánh giá và kiến nghị với các cơ quan nhà nước, từ đó góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật Nếu không có phản hồi từ người dân, nhà nước sẽ thiếu thông tin cần thiết để đưa ra quyết định phù hợp với ý chí và lợi ích của nhân dân, dẫn đến khó khăn trong quản lý hiệu quả Ngược lại, khi người dân không được tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin, họ sẽ khó tham gia vào quá trình quản lý xã hội và chính trị.

Báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối nhân dân với nhà nước, giúp khắc phục tình trạng quan liêu và hách dịch Nó nâng cao tính minh bạch của chính sách và hiệu quả trong quản lý nhà nước, đồng thời góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền vì lợi ích của nhân dân.

1.2.2 Phản biện xã hội Đây là một chức năng quan trọng của QTDNL, tự do báo chí Trong xã hội hiện đại, thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng, chính thông qua sử dụng và giám sát thông tin nên báo chí thể hiện được chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình Chức năng này thể hiện quyền lực của báo chí trong đời sống xã hội Giám

21 https://tranfami.wordpress.com/2015/08/02/nha-nuoc-phap-quyen-p-5-tu-do-ngon-luan-dung-tren-tam-quyen- phan-lap-dau-hieu-cua-dan-chu/ truy cập ngày 04/09/2016

Báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát xã hội thông qua việc phản biện và theo dõi các hiện tượng tiêu cực, sai phạm Qua việc lắng nghe ý kiến của nhân dân, báo chí thực hiện chức năng giám sát, góp phần điều chỉnh các chương trình và chính sách cho phù hợp với thực tế Phản biện xã hội không chỉ mang tính chất tích cực mà còn xây dựng, thể hiện bản chất của việc truyền thông trong lĩnh vực này.

Thông tin và giao tiếp là nhu cầu thiết yếu của con người Sự phát triển của báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện quyền tiếp cận thông tin, đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội Qua các hình thức báo chí, công dân và nhà báo có thể chia sẻ thông tin đến những đối tượng cần thiết Báo chí không chỉ cung cấp thông tin mà còn thực hiện chức năng tư tưởng, định hướng dư luận xã hội, đồng thời đảm nhận vai trò giám sát và quản lý xã hội.

Để thực hiện Quy trình Đưa tin Đúng Nghĩa (QTDNL) nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin chính đáng của công dân, người đưa tin cần đảm bảo tính chân thực, chính xác, nhanh nhạy và kịp thời, đồng thời thể hiện rõ mục tiêu phục vụ xã hội.

1.2.4 Chức năng phản ánh – quản lý xã hội

Báo chí đóng vai trò là chứng nhân và trọng tài trong xã hội dân chủ, được xem như "quyền lực thứ tư" bên cạnh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Thông qua báo chí, công dân có thể thể hiện tiếng nói của mình, từ đó kiểm soát và giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền, tổ chức chính trị và các quá trình xã hội khác.

Báo chí có vai trò giám sát rộng rãi, phản ánh thực tế về việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan công quyền, đảm bảo công bằng cho mọi công dân Nó kiểm soát sự tuân thủ pháp luật và chuẩn mực đạo đức, đồng thời bảo vệ thuần phong mỹ tục Nhân danh công luận và công lý, báo chí tạo áp lực đối với các hành vi sai trái, đòi hỏi pháp luật có biện pháp chế tài kịp thời và hiệu quả.

Báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc theo dõi và phản ánh quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước trong xã hội Qua báo chí, người dân có thể phản ánh những thành công, hạn chế, khó khăn và thuận lợi trong việc triển khai các chính sách của nhà nước, từ đó góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của quản lý nhà nước.

23 Dương Xuân Sơn (2012), Giáo trình Lý luận báo chí truyền thông, NXB Giáo Dục Việt Nam, tr.105

Giám sát xã hội của báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước Nhiệm vụ này không chỉ giúp phát hiện kịp thời những cá nhân, tổ chức thực hiện tốt để biểu dương và khích lệ, mà còn giúp chỉ ra những vấn đề cần khắc phục, từ đó tổng kết và rút ra bài học thực tiễn.

Báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát xã hội, giúp phát hiện những thành tựu và sai phạm của các tổ chức, cá nhân Qua đó, báo chí định hướng dư luận xã hội, tạo áp lực yêu cầu các cơ quan thẩm quyền phải giải quyết và giải thích các vấn đề trước công luận và nhân dân, từ đó nâng cao chất lượng quản trị của bộ máy nhà nước.

1.2.5 Chức năng tạo ra dư luận xã hội, góp sức định hướng dư luận xã hội

Báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, cung cấp tin tức nhanh chóng, đầy đủ và đa dạng về các sự kiện thời sự Điều này giúp công chúng nhận thức rõ ràng về những vấn đề đang diễn ra, từ đó nâng cao ý thức về vai trò, vị thế và lợi ích của bản thân trong xã hội.

Nội dung quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

1.3.1 Quyền tự do tiếp cận báo chí

Tự do tiếp cận báo chí là một yếu tố quan trọng trong quyền tiếp cận thông tin, cho phép cá nhân truy cập vào các phương tiện truyền thông như báo in, báo hình, báo phát thanh và báo điện tử Điều này giúp mọi người kịp thời nắm bắt thông tin chính xác về các sự kiện văn hóa, xã hội và chính sách công từ chính quyền Ngoài ra, người dân có thể bày tỏ ý kiến, nguyện vọng và thắc mắc thông qua các bài viết và bình luận, góp phần thay đổi nhận thức tích cực trong xã hội Trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển của các phương tiện truyền thông hiện đại, việc này càng trở nên thiết yếu để hiểu rõ hơn về các vấn đề xã hội.

Năm 2012, Trung tâm nghiên cứu quyền con người & quyền công dân đã giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí Điều này không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo vệ các quyền cơ bản mà còn là cơ sở để vận động thực thi các quyền này trong thực tiễn.

Tuy khoản 2 Điều 19 ICCPR không nhắc đến đích xác thuật ngữ “tiếp cận thông tin” nhưng tại đoạn 18 Bình luận chung số 34, HRC đã giải thích rõ:“ Khoản

Điều 19 quy định quyền tiếp cận thông tin mà các cơ quan công quyền nắm giữ, bao gồm các hồ sơ ở mọi hình thức lưu trữ, nguồn tin và thời điểm xác lập Các cơ quan này có thể bao gồm cả những pháp nhân thực hiện chức năng công Theo Điều 25 của ICCPR, quyền tiếp cận thông tin cũng cho phép truyền thông tiếp cận thông tin về các vấn đề công, từ đó đảm bảo quyền lợi của công chúng trong việc nhận biết và tiếp nhận sản phẩm truyền thông.

Tự do tiếp cận báo chí được thể hiện qua nhiều khía cạnh, bao gồm quyền gửi bài viết, thông tin và kiến nghị; tham gia bình luận trên các trang báo điện tử; cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và các tác phẩm khác cho báo chí Người dân có thể tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước thông qua báo chí – truyền thông Ngoài ra, việc góp ý, phê bình, kiến nghị và tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức này cũng là một phần quan trọng trong việc thực hiện quyền tự do tiếp cận thông tin.

Quyền tự do tiếp cận báo chí là một biểu hiện quan trọng của quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí Quyền này không chỉ là một phần thiết yếu của quyền tự do ngôn luận mà còn thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được xem là quyền cơ bản của con người Pháp luật các quốc gia và cộng đồng quốc tế đều công nhận và bảo vệ quyền này.

Tự do tiếp cận báo chí là một nội dung quan trọng trong QTDNL, thể hiện quyền tự do cơ bản của công dân Việc tiếp cận này không bị ngăn cản bởi bất kỳ trở lực nào, cho thấy sự toàn diện trong hoạt động báo chí Nó không chỉ là phản ứng của cá nhân trước các sự kiện xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị mà còn khẳng định quyền lực ngôn luận Đây là một trong những đặc điểm chính của QTDNL trong lĩnh vực báo chí.

26 Trung tâm nghiên cứu quyền con người & quyền công dân (2012), tlđd (25), tr 309

1.3.2 Quyền trình bày quan điểm của mình

Trong xã hội tự do và văn minh, sự khác biệt về ý kiến và chính kiến là biểu hiện của chế độ dân chủ, cần được tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp các quốc gia văn minh bảo vệ quyền phát biểu ý kiến hòa bình của công dân, được quy định trong khoản 2 Điều 19 ICCPR, nhấn mạnh rằng mọi người có quyền tự do biểu đạt, bao gồm việc tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin qua nhiều hình thức HRC cũng làm rõ rằng quyền này bao gồm các tranh luận chính trị, bình luận về con người và các vấn đề chung, cũng như các biểu đạt văn hóa và nghệ thuật Cần phân biệt giữa "quyền giữ quan điểm" và "quyền tự do biểu đạt"; quyền giữ quan điểm là quyền tuyệt đối không bị can thiệp, trong khi quyền tự do biểu đạt có thể bị hạn chế Khi một quan điểm được công khai, nó không còn là quyền riêng tư của cá nhân mà trở thành đối tượng bình luận của công chúng, dẫn đến việc mất tính bảo vệ duy nhất của cá nhân đó.

10 cũng đã nêu rõ “Tự do biểu đạt quan điểm của một người cũng cần phải bao gồm tự do không biểu đạt quan điểm của người đó” 30

Quan điểm cá nhân là sự nhận thức và đánh giá về thực tế, được hình thành từ lập trường riêng biệt của mỗi người Nó phản ánh góc nhìn, thái độ và cách tiếp cận của cá nhân đối với các vấn đề xung quanh.

29 Trung tâm nghiên cứu quyền con người & quyền công dân (2012), tlđd (25), tr 309

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, vai trò của người làm báo trở nên quan trọng hơn bao giờ hết Họ không chỉ là những người cung cấp thông tin mà còn là tiếng nói của cá nhân trong việc tham gia vào quá trình hoạch định chính sách và sự kiện Qua đó, họ góp phần tạo nên sức mạnh của dư luận, thúc đẩy những chuyển biến tích cực trong xã hội.

Việc thể hiện quan điểm không chỉ là quyền ngôn luận của cá nhân trong lĩnh vực báo chí mà còn thể hiện sự đánh giá và kiến nghị về các sự kiện, vấn đề cụ thể Quan điểm bộc lộ cách nhìn chủ quan của công dân và nhà báo, đồng thời chi phối dư luận trước những vấn đề trong đời sống Thể hiện quan điểm là nhiệm vụ quan trọng của báo chí, giúp định hướng dư luận một cách hiệu quả.

Quan điểm đóng vai trò quan trọng trong bài viết và hoạt động báo chí, thể hiện tính chất chính trị và xã hội của nghề này Nó không chỉ là yếu tố nội dung mà còn phụ thuộc vào các mối quan hệ khác nhau của nhà báo Độc giả đến với tác phẩm báo chí không chỉ để tiếp cận sự thật mà còn để hiểu suy nghĩ và thái độ của người viết Do đó, nhà báo không thể đứng bên lề sự kiện mà cần phải tham gia vào quá trình nghiên cứu, phân tích và bình luận Khi thể hiện quan điểm, cần phải đảm bảo phản ánh chân thật và khách quan về các sự kiện và hiện tượng.

1.3.3 Quyền phê bình, đánh giá các chính sách công

Chính sách công là tập hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, nhằm quy định và quản lý các quan hệ xã hội cụ thể Những quy định này đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập cơ sở pháp lý cho việc thực thi pháp luật và quản lý xã hội hiệu quả.

Phản biện là quá trình xem xét và đánh giá vấn đề từ nhiều khía cạnh khác nhau, nhằm hoàn thiện nội dung bằng cách chỉ ra những thiếu sót và đề xuất giải pháp Đặc biệt, phản biện chính sách công là một quá trình giao tiếp hai chiều, nơi tất cả các bên liên quan đều lắng nghe và đóng góp ý kiến, thông tin, và ý tưởng Trong quá trình này, cơ quan nhà nước cần tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người dân để đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong việc xây dựng chính sách.

Phản biện xã hội là một yếu tố quan trọng trong Quyền tham gia dân chủ, thể hiện sự tham gia trực tiếp của cá nhân và các tổ chức chính trị, xã hội Qua việc sử dụng báo chí như một công cụ, phương tiện, phản biện xã hội giúp nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự minh bạch trong các vấn đề cộng đồng.

31 Nguyễn Hữu Khiển (2012), “Một số vấn đề về phân tích chính sách công” Tạp chí quản lý nhà nước, Số 202

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc người dân thể hiện quan điểm và chính kiến của mình thông qua các kênh thông tin đại chúng, góp phần vào việc hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước Người dân có thể tham gia ý kiến qua cá nhân hoặc tổ chức, từ đó phát huy quyền làm chủ gắn liền với quyền tự do ngôn luận Qua báo chí, công dân không chỉ bày tỏ quan điểm mà còn tập hợp sức mạnh cộng đồng để giải quyết các vấn đề xã hội, tạo sự đồng thuận và đáp ứng nhu cầu xã hội Phản biện xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển, giúp cải thiện các chính sách Ngược lại, việc né tránh phản biện có thể dẫn đến phản ứng xã hội tự phát, tạo ra tâm thế phản kháng trong cộng đồng.

Biện pháp đảm bảo thực hiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

1.4.1 Vai trò, ý nghĩa của những biện pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

Quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí là quyền con người, là sản phẩm của tạo hóa và là nền tảng cho dân chủ, công bằng, thịnh vượng và văn minh Đây là yếu tố quyết định trong việc thực hiện Quy luật phát triển xã hội Khi nói về quyền lực của tự do ngôn luận, chúng ta nhắc đến "quyền lực thứ tư", một quyền tự nhiên của con người Việc phân chia quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo vệ quyền tự nhiên này Nếu không có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, quyền tối cao của nhân dân trong xã hội dân chủ sẽ không thể tồn tại.

QTDNL có ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng sáng tạo của con người, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội Ngược lại, những nơi thiếu tự do ngôn luận và tự do báo chí thường dẫn đến sự kìm hãm sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, văn hóa và kinh tế.

Trong một xã hội dân chủ, quyền tự do ngôn luận (QTDNL) là một quyền tự nhiên và tối cao, nhưng cần có các biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền này và đảm bảo người dân có khả năng sử dụng quyền lực của mình nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân Đồng thời, việc hạn chế lạm dụng quyền cũng rất quan trọng để không xâm phạm đến tự do của người khác Điều 29 trong UDRH nhấn mạnh rằng mỗi cá nhân có nghĩa vụ đối với cộng đồng và trong khi hưởng thụ quyền tự do cá nhân, phải tuân thủ các hạn chế do luật định nhằm bảo vệ quyền tự do của người khác và đảm bảo trật tự công cộng Nếu không có giới hạn cụ thể cho tự do ngôn luận, có thể dẫn đến việc lạm dụng quyền, gây bất ổn chính trị và ảnh hưởng đến danh dự của người khác Do đó, cần có các biện pháp bảo đảm thực thi quyền này trong khuôn khổ pháp luật, với việc giới hạn QTDNL chỉ có thể được thực hiện thông qua Hiến pháp và pháp luật, vì trong một nhà nước dân chủ, “tự do là quyền được làm tất cả những gì pháp luật không cấm.”

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, các hành vi vi phạm quyền tự do ngôn luận (QTDNL) của công dân sẽ bị xử lý nghiêm Quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí không chỉ quan trọng mà còn có ảnh hưởng tích cực đến các quyền công dân khác Khi quyền này được bảo vệ hiệu quả, nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các quyền khác của mình.

38 Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, NXB Chính trị quốc gia, 2002, tr 34

39 Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm, NXB Hà Nội, tr 105

Pháp luật Việt Nam ghi nhận quyền tự do báo chí của công dân, cụ thể hóa các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước này đã gia nhập, bao gồm Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 và các công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự cũng như quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 Các quốc gia tham gia các công ước này có nghĩa vụ thực hiện và ghi nhận quyền tự do báo chí một cách đầy đủ Do các công ước không có tính pháp lý trực tiếp, nhà nước cần "nội luật hóa" chúng bằng việc xây dựng các văn bản pháp luật Quyền con người cần được bảo vệ thông qua cả Tuyên ngôn nhân quyền và Hiến pháp, trong đó Tuyên ngôn xác định nguyên tắc chung và Hiến pháp ghi nhận quyền cụ thể Điều này yêu cầu các quốc gia tôn trọng và không can thiệp vào quyền tự do báo chí của công dân, đảm bảo mọi người đều được hưởng quyền lợi tối đa trong lĩnh vực này.

1.4.2 Những đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí trên thực tế ở Việt Nam hiện nay Để QTDNL trong lĩnh vực báo chí thực sự được phát huy trong đời sống mỗi công dân, thì các biện pháp đảm bảo thực hiện quyền này là điều cần thiết Bên cạnh các biện pháp chung khái quát thì cũng lưu ý và tìm ra các biện pháp riêng, cụ thể để phát huy các đặc điểm của QTDNL trong lĩnh vực báo chí

1.4.2.1 Biện pháp bảo đảm chung

Bảo đảm chính trị là yếu tố then chốt bảo vệ các quyền hiến định, bao gồm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí Đường lối chính trị cần được thể hiện rõ ràng, thể hiện vai trò của Đảng và nhà nước, đồng thời tạo dựng niềm tin trong nhân dân Khi tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc gia và trật tự xã hội sẽ được bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận và các quyền khác Trong môi trường chính trị vững mạnh, người dân có thể tự tin bày tỏ chính kiến và phản ánh nguyện vọng qua báo chí, đồng thời tiếp cận đa dạng các loại hình báo chí Các nhà báo cũng có thể yên tâm hành nghề, khám phá và phản ánh các vấn đề xã hội Đảng lãnh đạo thông qua việc ban hành nghị quyết và chỉ thị, định hướng phát triển báo chí để đáp ứng nhu cầu thông tin của công dân.

Xây dựng nhà nước pháp quyền vì dân sẽ đảm bảo quyền lợi hợp pháp của công dân, giúp họ thực hiện quyền dân chủ một cách thực tế mà không bị xâm phạm bởi các cơ quan nhà nước hay các chủ thể khác trong xã hội.

Quyền tự do ngôn luận (QTDNL) được Hiến pháp công nhận là quyền cơ bản của công dân, cần được tôn trọng bởi cả cơ quan nhà nước và mọi người trong xã hội Nhà nước pháp quyền cam kết bảo vệ quyền này, vì trong hệ thống pháp quyền, pháp luật là tối thượng và tất cả chủ thể, bao gồm cả cơ quan nhà nước, đều phải tuân thủ Khi pháp luật được tôn trọng, quyền tự do ngôn luận của công dân trong lĩnh vực báo chí cũng sẽ được đảm bảo và thực hiện một cách hiệu quả.

- Bảo đảm về kinh tế

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của báo chí Báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế đất nước, trong khi sự phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng lớn đến báo chí Kinh tế phát triển sẽ cung cấp cơ sở vật chất cần thiết cho các loại hình báo chí, giúp công dân dễ dàng tiếp cận thông tin và thể hiện quyền được thông tin của mình, đồng thời đáp ứng nhu cầu thông tin một cách nhanh chóng và kịp thời.

Khi nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất của người dân được nâng cao, họ sẽ quan tâm hơn đến tình hình chính trị xã hội và thực hiện quyền tiếp cận thông tin Ngược lại, trong xã hội với nền kinh tế kém phát triển, người dân ít chú ý đến các vấn đề chính trị, dẫn đến quyền tiếp cận thông tin trở thành một khái niệm xa vời Sự phát triển kinh tế và sự giàu có của dân cư là nền tảng cho sự phát triển của báo chí, giúp công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin một cách hiệu quả Do đó, cần mở rộng hợp tác để nâng cao chuyên môn và cơ sở vật chất, đưa báo chí hiện đại đến với mọi người.

- Bảo đảm về pháp lý

Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận (QTDNL) của công dân trong lĩnh vực báo chí QTDNL cần được xác định một cách cụ thể, không thể chỉ là quyền chung chung Qua hệ thống pháp luật, công dân được quyền tiếp cận, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, cũng như thể hiện quan điểm về các vấn đề xã hội Nhà báo và công dân có quyền tham gia ý kiến với Đảng và Nhà nước, góp ý, phê bình, kiến nghị, khiếu nại và tố cáo thông qua các phương tiện báo chí.

Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận (QTDNL) trong lĩnh vực báo chí cần được thể chế hóa qua các văn bản luật và chính sách quản lý của Nhà nước, nhằm đảm bảo cơ sở vững chắc cho quyền này Để nâng cao hiệu quả QTDNL, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật, cần thiết lập các quy định xử lý vi phạm trong lĩnh vực báo chí Đồng thời, cần phối hợp với các cơ quan liên quan để tuyên truyền và giáo dục pháp luật một cách chi tiết và hiệu quả, từ đó biến QTDNL thành quyền cơ bản trong đời sống xã hội.

1.4.2.2 Biện pháp bảo đảm cụ thể Để đảm bảo QTDNL thì cần phải áp dụng các biện pháp như sau:

Để đảm bảo quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực báo chí, cần xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Quản lý thông tin và Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin (QTDNL) Các quy định này phải hỗ trợ việc cung cấp thông tin từ các cơ quan nhà nước và các cơ quan hữu quan cho báo chí Đồng thời, cần thiết lập các biện pháp bảo đảm quyền của báo chí, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cũng như quy định cụ thể về quyền khiếu nại và khởi kiện trong việc thực hiện QTDNL trong lĩnh vực báo chí.

Xây dựng quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền tự do tiếp cận báo chí và trình bày quan điểm là rất cần thiết Các quy định này cần làm rõ quy trình, nội dung trình bày quan điểm và các hành vi bị cấm Đồng thời, cần xác định rõ nội dung và phạm vi thông tin không được đăng tải trên báo chí, cũng như quy trình xem xét và duyệt nội dung Đặc biệt, cần có quy định bảo vệ nhà báo và công dân khi họ đưa tin về các vấn đề nhạy cảm, tránh tình trạng bị đe dọa hay trả thù Ngoài ra, cần quy định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan ngôn luận, cùng với biện pháp xử lý vi phạm dựa trên hành vi cụ thể Cuối cùng, các chính sách khuyến khích và nâng cao bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin cũng cần được triển khai.

QTDNL Quy định pháp luật cụ thể để đảm bảo cho việc tôn trọng quyền sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ trong việc thể hiện quyền

- Tổ chức bộ máy, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện quyền

Thực trạng pháp luật về quyền và các biện pháp đảm bảo quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

2.1.1 Thực trạng quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

Quyền tự do ngôn luận (QTDNL) là một trong những quyền cơ bản không thể thiếu trong xã hội dân chủ, được công nhận qua các tuyên ngôn và công ước quốc tế Quyền này được cụ thể hóa trong pháp luật của từng quốc gia và được ghi nhận trong Hiến pháp, tạo nền tảng cho việc bảo vệ các quyền tự do cơ bản Trong lĩnh vực báo chí, nội dung chi tiết của QTDNL cũng được quy định bởi các cơ sở pháp lý cụ thể, đảm bảo sự tự do và công bằng trong việc truyền đạt thông tin.

Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có văn bản luật cụ thể nào quy định về quyền tự do ngôn luận (QTDNL) trong lĩnh vực báo chí, bao gồm các định chế pháp lý về đối tượng, chủ thể và phạm vi của quyền này Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận đã được ghi nhận tại Điều 25 Hiến pháp 2013, nêu rõ rằng công dân có quyền tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội và biểu tình, với việc thực hiện các quyền này được quy định bởi pháp luật.

1 Luật báo chí 2016 cũng đã có nêu phạm vi điều chỉnh của luật này gồm cả

"QTDNL trên báo chí của công dân" được quy định chi tiết trong các nghị định như Nghị định 31/2001/NĐ-CP ngày 26/6/2001 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa – thông tin và Nghị định 159/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động báo chí, xuất bản.

2.1.1.1 Quyền tự do tiếp cận báo chí

Quyền tự do tiếp cận báo chí là một nội dung quan trọng trong lĩnh vực báo chí theo quy định của Luật báo chí 2016 và Luật tiếp cận thông tin Điều 10 của Luật báo chí 2016 khẳng định quyền tự do báo chí của công dân, bao gồm việc tiếp cận thông tin báo chí Luật tiếp cận thông tin, có hiệu lực từ ngày 01/7/2018, quy định chi tiết về quyền này, bao gồm nguyên tắc, trình tự và thủ tục thực hiện, cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin Tuy nhiên, Luật báo chí 2016 chưa đưa ra các quy định cụ thể về nguyên tắc, trình tự tiếp cận báo chí hay biện pháp giám sát, khiến công dân gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền tự do tiếp cận thông tin khi bị vi phạm.

Luật báo chí 2016 quy định quyền tiếp cận thông tin báo chí, nhưng lại thiếu quy trình thực hiện và giám sát, dẫn đến việc quyền này chỉ tồn tại trên văn bản mà không có cơ sở thực tiễn Điều 10 chỉ đề cập đến quyền tự do tiếp cận thông tin mà không cung cấp hướng dẫn cụ thể về cách thức thực hiện Điều 38 chỉ quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin từ cơ quan nhà nước, bỏ qua trách nhiệm của các bên liên quan trong việc tiếp cận thông tin Điều này cho thấy sự thiếu hợp lý trong việc sắp xếp quy định, thực hiện và giám sát quyền tiếp cận thông tin báo chí So với tiêu chuẩn quốc tế, quy định trong Luật báo chí 2016 chưa đầy đủ và không phản ánh đúng nội dung và hình thức của quyền tiếp cận thông tin báo chí, bao gồm cả quyền yêu cầu sửa đổi thông tin sai lệch.

Điều 19 ICCPR và mục 18, 19 Bình luận chung số 34 nhấn mạnh quyền tiếp cận thông tin, bao gồm quyền kiểm soát dữ liệu cá nhân và quyền truy cập thông tin ngay cả khi bị buộc tội hình sự Để quyền này có hiệu lực, các quốc gia cần chủ động cung cấp thông tin cho công chúng và xây dựng thủ tục thuận lợi cho việc tiếp cận Các văn bản quốc tế cũng đề cập đến cơ chế khiếu nại khi bị từ chối quyền tiếp cận thông tin Tuy nhiên, Luật báo chí 2016 chưa thực hiện đầy đủ quyền này, và Luật tiếp cận thông tin chỉ định nghĩa một cách hạn chế Mặc dù không quy định rõ ràng về nội hàm quyền tiếp cận thông tin, Điều 32 của Luật cho phép người yêu cầu xác định tính chính xác của thông tin, từ đó giúp việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin báo chí gần gũi hơn với các tiêu chuẩn quốc tế.

Nội dung thông tin báo chí hiện nay đang đối mặt với sự mâu thuẫn giữa Luật báo chí 2016 và Luật tiếp cận thông tin 2016 Cụ thể, Điều 38 Luật báo chí quy định rằng cá nhân có thẩm quyền có quyền từ chối cung cấp thông tin bí mật đời tư của mình Trong khi đó, Điều 7 Luật tiếp cận thông tin lại cho phép người đứng đầu cơ quan nhà nước công bố bí mật cá nhân nếu cho rằng điều này cần thiết cho lợi ích công cộng, bất chấp sự đồng ý của cá nhân đó Sự trái ngược này dẫn đến việc bí mật đời tư của người có thẩm quyền được bảo vệ, trong khi bí mật của các cá nhân khác lại có thể bị công khai Vì vậy, cần xem xét lại hai quy định này để đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.

Quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí chỉ được đề cập tại khoản 4 Điều 10 của Luật báo chí 2016 mà không có cơ chế cụ thể về thực hiện quyền này, bao gồm đối tượng, nguyên tắc, quy trình và cơ quan giám sát Điều này dẫn đến khó khăn trong việc triển khai quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí trong thực tế Hơn nữa, quy định về đối tượng thông tin báo chí được tiếp cận cũng chưa được làm rõ.

Luật báo chí 2016 (Điều 38) và Luật tiếp cận thông tin 2016 (Điều 7) quy định về quyền riêng tư của cá nhân có thẩm quyền, nhưng lại tạo ra mâu thuẫn khi cho phép từ chối cung cấp thông tin trong khi vẫn công khai thông tin của các chủ thể khác nếu cơ quan có thẩm quyền cho rằng cần thiết Sự thiếu sót trong việc triển khai quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí và sự không thống nhất về quy định đối tượng thông tin được tiếp cận là những vấn đề cần được xem xét trong Luật báo chí 2016.

2.1.1.2 Quyền trình bày quan điểm

Theo Điều 19 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, quyền tự do quan điểm và tự do biểu đạt được tôn trọng, nhưng lại không được nêu rõ trong các luật cụ thể như Luật báo chí 2016 hay Luật tiếp cận thông tin Quyền này chỉ được hiểu qua việc phát biểu ý kiến và góp ý về thông tin báo chí theo Điều 11 của Luật báo chí 2016 Điều này cho thấy sự biểu đạt quan điểm của nhà báo và công dân đang ở trạng thái bị động, thay vì chủ động trong việc trình bày quan điểm báo chí của họ.

Luật báo chí 2016 quy định rõ ràng về các hành vi bị cấm, đặc biệt là Điều 9 với 13 khoản chi tiết, trong đó có việc quy kết tội danh khi chưa có bản án của Tòa án Sự tham luận của báo chí trong quá trình điều tra là điều bình thường, giúp công chúng hiểu rõ hơn về vụ án Việc cấm quy kết tội danh có thể làm hạn chế việc bày tỏ quan điểm của báo chí, gây khó khăn trong việc truyền tải thông tin Ngoài ra, khoản 9 quy định về thông tin ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em cũng cần được xem xét kỹ lưỡng, vì thiếu định nghĩa rõ ràng về "sự phát triển bình thường" có thể dẫn đến việc kiểm duyệt thông tin khoa học quan trọng trong chăm sóc trẻ nhỏ.

Việc trình bày quan điểm liên quan đến tranh luận về chính trị, nhân quyền, tôn giáo và các lĩnh vực khác, theo quy định của Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự (ICCPR) Đoạn 11 Bình luận chung số 34 giải thích rằng Điều 19 ICCPR bảo vệ quyền tranh luận chính trị, bình luận về cá nhân, và các vấn đề xã hội, bao gồm nhân quyền, báo chí, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục và tôn giáo Tuy nhiên, Điều 9 của Luật báo chí 2016 cấm thông tin về các vấn đề chính trị đối lập với chính quyền và các nội dung liên quan đến tôn giáo, dẫn đến việc hạn chế quyền tự do ngôn luận trong báo chí, làm thu hẹp khả năng trình bày quan điểm của công dân.

2016 thì dường như phạm vi, lĩnh vực để được trình bày quan điểm đã không còn

“nguyên vẹn” như trong Công ước

2.1.1.3 Quyền phản biện, đánh giá chính sách công

Luật báo chí 2016 đã quy định quyền phê bình và đánh giá chính sách công trong nội dung của QTDNL trên báo chí, cho phép công dân tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Tuy nhiên, luật này thiếu quy định cụ thể về các lĩnh vực phản biện, chủ thể thực hiện quyền này, hình thức và quy trình phản biện, cũng như cơ quan giám sát nội dung và chất lượng phản biện Việc không có các quy định rõ ràng sẽ dẫn đến tình trạng bất kỳ ai cũng có thể phản biện mà không qua kiểm định, làm giảm chất lượng thông tin và ảnh hưởng đến quyết định của cơ quan nhà nước Do đó, cần thiết phải xây dựng quy trình, thủ tục và nguyên tắc cho việc phản biện, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc đánh giá chính sách công, khẳng định vai trò của nó như một yếu tố quan trọng trong QTDNL báo chí.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 tại Điều 6 và 36 quy định về việc góp ý kiến trong xây dựng văn bản pháp luật, nhưng chưa đưa ra quy trình cụ thể cho việc này Khoản 1 Điều 6 cho phép cá nhân đóng góp ý kiến, nhưng không có hướng dẫn rõ ràng về hình thức, cơ quan tiếp nhận hay giám sát ý kiến Điều 36 chỉ đề cập đến việc góp ý của một số bộ và cơ quan liên quan, không quy định chung cho mọi đối tượng Điều này dẫn đến sự thiếu hụt trong hệ thống quy định về phản biện chính sách công qua báo chí, bao gồm các yếu tố như đối tượng góp ý, quy trình và cơ chế giám sát chất lượng ý kiến Với chỉ hai điều luật đề cập, việc góp ý kiến và phản biện chính sách công vẫn chưa được thực hiện hiệu quả và chưa đảm bảo rằng ý kiến của người dân sẽ được chấp nhận.

Việc quy định quá chung chung trong các luật liên quan khiến cho nhà báo và công dân gặp khó khăn trong việc thể hiện ý kiến phản biện về chính sách công qua báo chí Quy trình phản biện hiện tại không hiệu quả, vì không chỉ cần góp ý trên các trang điện tử của Quốc hội hay cơ quan ban hành Do đó, cần thiết phải có quy định cụ thể về quy trình và hình thức phản biện, cũng như cơ quan giám sát chất lượng phản biện và công khai kết quả Những quy định cụ thể này là điều quan trọng để nâng cao chất lượng ý kiến phản biện và đánh giá chính sách công trong lĩnh vực báo chí.

2.1.1.4 Quyền không bị kiểm duyệt trái pháp luật

Thực tiễn thực thi quyền và biện pháp đảm bảo quyền tự do ngôn luận

2.2.1 Thực tiễn thực thi quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

2.2.1.1 Quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí Để QTDNL trong lĩnh vực báo chí được phát huy hiệu quả trên thực tế, thì việc thúc đẩy việc tự do tiếp cận báo chí là điều thực tiễn cần phải thực hiện Tuy nhiên, lĩnh vực báo chí là lĩnh vực thường hay xảy ra các hành vi cản trở nhà báo tiếp cận thông tin, sự thật, điều đó cũng đồng nghĩa với việc quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí bị hạn chế, do đó năm 2016 Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) tổ chức dự án “Nâng cao năng lực bảo vệ nhà báo và chấm dứt miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi cản trở tác nghiệp báo chí.”Trong tháng 8/2016 có 2 khóa tập huấn chủ đề

Chương trình “Bảo vệ an toàn nhà báo” được tổ chức tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao nhận thức cho phóng viên và nhà báo về các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ nhà báo Sự kiện này cũng tập trung vào quy trình xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở tác nghiệp báo chí, đồng thời trang bị kỹ năng tác nghiệp an toàn cho các nhà báo Ngoài ra, chương trình còn nâng cao năng lực truyền thông về các văn bản pháp luật, góp phần hỗ trợ các cơ quan chức năng trong việc xử lý hiệu quả những hành vi vi phạm pháp luật.

Trung tâm Nghiên cứu truyền thông và phát triển (RED) đã thực hiện Chương trình bảo vệ tác nghiệp báo chí giai đoạn 2010-2018 với sự hỗ trợ từ UNESCO và Cơ quan Phát triển Canada, nhằm tư vấn và bảo vệ quyền tác nghiệp của nhà báo Tuy nhiên, việc tiếp cận thông tin báo chí vẫn gặp nhiều khó khăn, bao gồm sự từ chối cung cấp thông tin từ các cơ quan nhà nước với lý do bảo mật, cùng với thiếu cơ chế pháp lý rõ ràng về trách nhiệm của những người đứng đầu tổ chức trong việc hợp tác với báo chí Kỹ năng nghiệp vụ của một số nhà báo cũng còn yếu, làm giảm hiệu quả trong việc khai thác thông tin Đặc biệt, các vụ hành hung nhà báo diễn ra ngày càng nhiều, như vụ phóng viên Nguyễn Tùng và Phạm Hiển bị tấn công khi tác nghiệp tại Hà Nội, hay vụ nhà báo Nguyễn Ngọc Quang bị đe dọa vì điều tra khai thác khoáng sản trái phép Theo thống kê của Hội Nhà báo Việt Nam, trong 5 năm qua có khoảng 50 vụ tấn công nhà báo, cho thấy tình hình an ninh cho các phóng viên đang ngày càng nghiêm trọng.

Việc tiếp cận thông tin báo chí của công dân Việt Nam ngày càng đa dạng với nhiều nguồn khác nhau, không chỉ phản ánh thông tin xã hội qua các phương tiện truyền thông mà còn cho phép người dân trở thành chủ thể tiếp nhận thông tin Hiện nay, Ðài Tiếng nói Việt Nam đã phủ sóng 99,5% diện tích lãnh thổ và phát sóng qua vệ tinh tới nhiều quốc gia Hơn 90% hộ gia đình Việt Nam sử dụng sóng truyền hình của Ðài Truyền hình Việt Nam, đồng thời người dân cũng có cơ hội tiếp xúc với 75 kênh truyền hình nước ngoài nổi tiếng như CNN, BBC, TV5 và NHK.

DW, Australia Network, KBS, Bloomberg, 20 cơ quan báo chí nước ngoài đã có

Việt Nam hiện có một môi trường truyền thông đa dạng với nhiều báo, tạp chí in bằng nhiều thứ tiếng và khả năng tiếp cận thông tin từ các cơ quan báo chí lớn trên thế giới qua internet Theo Tổ chức Liên minh viễn thông quốc tế (ITU), Việt Nam đứng thứ ba Đông Nam Á về số lượng người sử dụng internet, với 30,8 triệu người, chiếm 34% dân số Ngoài ra, gần 3 triệu người có blog cá nhân, sử dụng để bày tỏ suy nghĩ và tham gia các hoạt động xã hội tích cực Các cơ sở công cộng tại đô thị như nhà hàng, khách sạn đều cung cấp Wifi miễn phí, hỗ trợ người dân trong việc tiếp cận thông tin Đặc biệt, tại các địa phương du lịch như Huế, Đà Nẵng, Hội An, kế hoạch phủ sóng Wifi đang được triển khai, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc cập nhật thông tin và nâng cao nhận thức về quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí.

Mặc dù có quy định về tự do tiếp cận thông tin báo chí, nhưng các quy trình và trách nhiệm của cơ quan liên quan vẫn chưa rõ ràng, dẫn đến việc ngăn cản tự do ngôn luận và làm rõ sự thật Việc sửa đổi và ban hành các quy định mới, cũng như tổ chức các chương trình nâng cao năng lực cho nhà báo là cần thiết Tuy nhiên, việc thiếu quy định cụ thể về thủ tục tiếp cận thông tin khiến cho quyền này chưa được thực thi hiệu quả Dù vậy, sự tích cực của công dân trong việc tiếp cận thông tin là tín hiệu tích cực, không chỉ nhờ vào các chương trình tuyên truyền mà còn từ việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng giúp công dân nhận thức rõ quyền lợi của mình thông qua báo chí.

2.2.1.2 Quyền trình bày quan điểm

Việc khuyến khích tự do trình bày quan điểm và nâng cao trách nhiệm khi sử dụng Quyền tự do ngôn luận (QTDNL) trong lĩnh vực báo chí đã dẫn đến nhiều hội nghị và tọa đàm sôi nổi.

Vào tháng 6/2016, Hội thảo khoa học quốc gia về “Đào tạo, bồi dưỡng báo chí - truyền thông ở Việt Nam hiện nay” đã được tổ chức bởi Học viện Báo chí và Tuyên truyền cùng Hội Nhà báo Việt Nam Hội thảo gồm hai phiên, phiên đầu tiên tập trung vào việc xây dựng hệ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo và định hướng bồi dưỡng nhà báo để đáp ứng nhu cầu xã hội và đạo đức nghề báo Phiên thứ hai thảo luận về các mô hình và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bao gồm hợp tác quốc tế, đào tạo tại chỗ, và đổi mới quan điểm đào tạo Qua hội thảo, chất lượng đội ngũ nhà báo sẽ được cải thiện từ khâu đào tạo ban đầu, nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin xã hội trong thời đại mới.

Sự tự do trong việc trình bày quan điểm, hay nói cách khác là dũng cảm và bản lĩnh khi sử dụng quyền tự do ngôn luận trong báo chí, chính là yếu tố cốt lõi của QTDNL Một ví dụ điển hình cho điều này là hội thảo, nơi mà sự thật được đưa ra ánh sáng và khẳng định vai trò quan trọng của báo chí trong xã hội.

Hội thảo “Báo chí với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” diễn ra vào tháng 4/2017 đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của báo chí trong việc cung cấp thông tin trung thực theo Luật báo chí 2016 Các ý kiến tại hội thảo tập trung vào những thành tựu và thách thức trong công tác phòng chống tham nhũng, nhấn mạnh sự cần thiết phải điều tra và đưa tin về những vấn đề nhạy cảm trong xã hội Thông qua việc tổ chức các sự kiện như hội thảo và tọa đàm, báo chí được củng cố tinh thần và vai trò, khuyến khích việc thể hiện quan điểm về các vấn đề nóng Mặc dù không có quy định pháp luật cụ thể, nhưng quyền tự do ngôn luận vẫn được thể hiện rõ ràng trong thực tế, với các sự kiện này thúc đẩy việc truyền tải sự thật và quan điểm của báo chí.

Các vấn đề xã hội nhạy cảm như tình hình chính trị Biển Đông, hành xử của Chính phủ Việt Nam với Trung Quốc, hay các vụ việc liên quan đến nhân quyền như “mẹ Nấm” Nguyễn Ngọc Như Quỳnh thường không được báo chí thông tin rõ ràng và đa chiều Điều này xuất phát từ việc quan điểm báo chí dễ bị coi là vi phạm các quy định của Luật báo chí 2016, dẫn đến việc hạn chế quyền trình bày quan điểm của các nhà báo Thay vào đó, thông tin và ý kiến phản ánh đa chiều chủ yếu đến từ cá nhân trên các blog và trang điện tử cá nhân, nhưng lại không được công khai rộng rãi Việc các bài viết trên báo chí không cẩn thận có thể bị quy kết là “chống phá nhà nước” hay “phá hoại đoàn kết toàn dân” khiến cho nội dung thông tin về chính trị và nhân quyền trở nên hạn chế và không thực sự phản ánh đúng thực tế.

Quyền trình bày quan điểm là yếu tố quan trọng trong việc thực hiện tự do ngôn luận, đặc biệt trong lĩnh vực báo chí, giúp đưa ra sự thật và dũng cảm viết về các vấn đề xã hội Việc bồi dưỡng đạo đức và tinh thần cho các nhà báo cũng là cần thiết để nâng cao chất lượng thông tin và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng.

“Dám viết, dám nói” thể hiện tinh thần tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí, đặc biệt là đối với các thông tin nhạy cảm Tuy nhiên, trong các lĩnh vực như chính trị và nhân quyền, tinh thần này vẫn chưa được phát huy tối đa do nhiều lo ngại còn tồn tại Điều này dẫn đến việc quyền tự do ngôn luận trong báo chí chưa đạt hiệu quả cao nhất.

2.2.1.3 Quyền phê bình, đánh giá chính sách công

Việc công khai và minh bạch trong hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật đã được thực hiện hiệu quả, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Từ khâu lập chương trình đến soạn thảo và ban hành, các cơ quan đều có quy định công khai thông tin để người dân tham gia đóng góp ý kiến Cơ quan chủ trì đã chủ động công khai dự thảo qua hội thảo, tọa đàm, phiếu lấy ý kiến và đăng tải trên trang thông tin điện tử Nhiều báo, tạp chí cũng đã đăng dự thảo và tạo diễn đàn cho công dân tham gia Quốc hội và Chính phủ đã mở chuyên mục để tiếp nhận ý kiến từ công dân, tổ chức, doanh nghiệp trên trang thông tin điện tử Nhiều phiên họp của Quốc hội về hoạch định chính sách cũng đã được truyền hình trực tiếp đến người dân.

Nhận thức rõ vai trò của quyền phê bình và đánh giá chính sách công, nhiều dự án của cơ quan nhà nước đã được xem xét lại nhờ vào ý kiến phản biện từ báo chí Một ví dụ điển hình là sự phản biện của truyền thông đối với Đề án xây dựng đường sắt cao tốc Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2017, khi áp lực từ dư luận đã khiến Quốc hội bác bỏ dự án này Tương tự, Đề án trục đường Hồ Tây – Ba Vì năm 2007 cũng bị bác sau khi được Bộ Xây dựng trình Chính phủ và Chính phủ trình Quốc hội.

Một số giải pháp hoàn thiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

2.3 Một số giải pháp hoàn thiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí

- Bảo đảm chính trị về quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí của Đảng và nhà nước

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước là cần thiết để đảm bảo quyền tự do ngôn luận (QTDNL) của công dân trong báo chí Đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của nhà báo và tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện QTDNL một cách hiệu quả Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường mở cửa, sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước cần phải định hướng thông tin một cách chính xác và thuyết phục, từ đó hình thành dư luận xã hội phù hợp với thực tiễn Việc đổi mới lãnh đạo cũng giúp cập nhật thông tin nhanh chóng và phản ánh quan điểm đa chiều của nhân dân về các vấn đề xã hội Tuy nhiên, hiện nay, báo chí thường thể hiện quan điểm một chiều, chỉ truyền tải chính sách của Đảng mà chưa dám phê bình những thiếu sót Do đó, cần có sự cải cách trong quản lý của Đảng và nhà nước để bảo đảm quyền tự do ngôn luận thực sự được thực hiện.

Quản lý cần được thực hiện một cách linh hoạt, không chỉ bó hẹp trong các quy định mà còn tạo điều kiện cho công dân phát huy tối đa quyền tự do ngôn luận Đảng và nhà nước cần tiếp thu những vấn đề quan trọng mà người dân quan tâm, thể hiện đầy đủ trên báo chí mọi ý kiến, dù hợp lý hay không Đồng thời, cần giữ vững định hướng chính trị, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, và phát huy truyền thống tốt đẹp, nhằm nâng cao dân trí và củng cố niềm tin trong nhân dân.

Các cơ quan báo chí hiện nay hoạt động theo tôn chỉ của Đảng và nhà nước, góp phần tạo sự ổn định xã hội Tuy nhiên, cần hạn chế sự can thiệp của các tổ chức Đảng đối với hoạt động báo chí, nhằm đảm bảo quyền tự do ngôn luận của công dân và nhà báo Hiện tại, tất cả các cơ quan báo chí đều do Đảng và nhà nước quản lý, không có báo tư nhân, dẫn đến việc định hướng nội dung không phản ánh đầy đủ dư luận xã hội Việc khắc phục hạn chế này sẽ giúp công dân thể hiện quyền tự do ngôn luận, chỉ trích những sai lầm của Đảng và nhà nước, từ đó thúc đẩy xây dựng nhà nước pháp quyền Đảng và nhà nước cần tạo điều kiện cho công dân và nhà báo thể hiện quan điểm "trái chiều" nếu chúng có ý nghĩa thực tiễn cho sự phát triển đất nước Như Thứ trưởng Ngoại giao Anh Jeremy Browne đã nói, chính trị gia cần cởi mở với phản hồi của công chúng và hiểu rằng ý kiến của họ cũng quan trọng như ý kiến của chính mình.

- Bảo đảm về hạ tầng công nghệ để đáp ứng nhu cầu QTDNL trong lĩnh vực báo chí của nhân dân

Từ năm 1997, Việt Nam chính thức kết nối Internet, đánh dấu sự ra đời của báo chí điện tử Đến nay, hệ thống báo chí điện tử tại Việt Nam đã phát triển đa dạng và hoàn chỉnh, cung cấp thông tin hàng ngày, phản ánh các hoạt động và cổ vũ phong trào lao động sản xuất Báo chí điện tử đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền và cổ động các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội hiện nay, sự phát triển đồng đều của cơ sở hạ tầng báo chí là cần thiết để công dân dễ dàng tiếp cận thông tin và thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình Mặc dù đã có những tiến bộ trong hệ thống báo chí, nhưng vẫn cần đầu tư vào công nghệ hiện đại và nguồn lực tài chính để nâng cao năng lực truyền thông, đáp ứng tốt hơn các thách thức thông tin Hiện tại, cơ sở hạ tầng cho tự do ngôn luận và báo chí còn yếu kém, với trang thiết bị chưa đủ hiện đại để phục vụ nhu cầu thông tin kịp thời Để đảm bảo công bằng và quyền tiếp cận báo chí cho mọi công dân, nhà nước cần có chính sách đầu tư đặc biệt vào cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, giúp người dân tiếp cận thông tin và thúc đẩy việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của họ Mặc dù hệ thống báo chí phát triển mạnh ở các trung tâm lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng ở các địa phương khác, đặc biệt là vùng sâu, xa và hải đảo, việc tiếp cận thông tin vẫn gặp nhiều khó khăn.

Để nâng cao nhận thức của công chúng về tự do ngôn luận và báo chí, cần tập trung phát triển các chính sách đầu tư kinh tế linh hoạt và cải thiện cơ sở hạ tầng tại các vùng sâu, hải đảo Điều này sẽ giúp đưa thông tin báo chí đến gần hơn với mọi tầng lớp trong xã hội.

Pháp luật đóng vai trò chủ yếu trong việc đảm bảo quyền tự do ngôn luận (QTDNL) trong lĩnh vực báo chí Việc tăng cường các quy định pháp lý về QTDNL sẽ khuyến khích hoạt động báo chí tích cực và ngăn ngừa sai phạm của công dân Khi có các quy định cụ thể, việc chấn chỉnh sai sót sẽ trở nên thuận tiện và hiệu quả hơn Ngoài ra, hoàn chỉnh các quy định pháp luật không chỉ giúp quản lý dễ dàng hơn mà còn đảm bảo tính minh bạch trong xử lý vấn đề, đồng thời phát huy khả năng sáng tạo của công dân và những người làm báo.

Luật báo chí năm 2016 cùng các văn bản pháp luật liên quan đã được sửa đổi, nhưng vẫn còn mang tính chung chung, đặc biệt là về quyền tự do báo chí và ngôn luận của công dân theo Hiến pháp 2013 Trong bối cảnh hiện tại, việc áp dụng các quy định này gặp khó khăn trong việc xác định cách thức thực hiện đúng luật mà không vi phạm.

Mặc dù đã có pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 và dự thảo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước cùng với Luật tiếp cận thông tin năm 2017 sắp có hiệu lực từ ngày 01/7/2018, nhưng vẫn chưa xác định rõ ràng về bí mật quốc gia và bí mật đời tư Điều này gây khó khăn cho công dân trong việc tiếp cận thông tin và thực hiện quyền tự do báo chí Do đó, dự thảo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước cần làm rõ các quy định về bí mật nhà nước để bảo đảm quyền tự do thông tin của công dân mà không vi phạm pháp luật.

Luật báo chí 2016 hiện đã có hiệu lực, nhưng do chỉ là luật khung, nên việc áp dụng gặp nhiều khó khăn Do đó, cần thiết phải ban hành các văn bản quy định cụ thể và hướng dẫn chi tiết để việc thực thi Luật báo chí 2016 và quy định về hoạt động báo chí trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.

*Kiến nghị về một số nội dung trong Nghị định hướng dẫn chi tiết Luật báo chí 2016

Luật báo chí 2016 hiện còn thiếu rõ ràng trong việc thực hiện quy trình tiếp nhận, xử lý thông tin và nội dung báo chí Do đó, cần xem xét và điều chỉnh nghị định hướng dẫn chi tiết để nâng cao hiệu quả thực thi quy trình này Việc cải thiện các điều khoản cụ thể sẽ giúp đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong lĩnh vực báo chí.

Luật báo chí 2016 chỉ đề cập đến quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí tại khoản 4 Điều 10 mà không cung cấp chi tiết cụ thể Do đó, cần có nghị định hướng dẫn với các quy định rõ ràng và đầy đủ hơn để đảm bảo việc thực hiện quyền này trong thực tế Việc đưa ra định nghĩa cụ thể về tiếp cận thông tin báo chí là rất cần thiết.

Tiếp cận thông tin báo chí là quá trình mà các cá nhân và tổ chức có quyền yêu cầu và nhận thông tin từ các cơ quan nhà nước Các chủ thể thực hiện việc tiếp cận bao gồm công dân, tổ chức xã hội và các cơ quan truyền thông Nguyên tắc tiếp cận thông tin báo chí phải đảm bảo tính minh bạch, công bằng và đúng quy định pháp luật Loại tin được tiếp cận bao gồm thông tin công khai, tài liệu liên quan đến hoạt động của cơ quan nhà nước Hình thức tiếp cận có thể là yêu cầu bằng văn bản hoặc trực tiếp Quy trình yêu cầu tiếp cận thông tin bao gồm các bước từ việc nộp đơn yêu cầu, xử lý đơn, đến khi nhận được kết quả Cơ quan tiếp nhận và xử lý yêu cầu thường là các cơ quan thông tin, báo chí hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền Thời gian xử lý yêu cầu phải được quy định rõ ràng Phạm vi và trách nhiệm cung cấp thông tin thuộc về các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền Cơ quan giám sát việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin báo chí có trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện Các đảm bảo cho quyền tiếp cận thông tin bao gồm việc bảo vệ quyền lợi của người yêu cầu và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương trong việc thực hiện quyền này.

Để nâng cao hiệu quả phản biện và đánh giá chính sách công qua báo chí, cần quy định rõ ràng về đối tượng và nội dung phản biện, bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo, và các đề án quốc gia Chủ thể thực hiện phản biện cần được xác định, bao gồm nhà báo và công dân, cùng với quy trình và hình thức phản biện phù hợp với quy mô chính sách Các phản biện nên được tiếp nhận qua trang thông tin điện tử chính thức của cơ quan ban hành, và cần có cơ quan giám sát để xử lý thông tin phản biện Đồng thời, việc công khai thông tin phản biện và xác nhận ý kiến tiếp nhận là rất quan trọng, cùng với chính sách hỗ trợ cho công tác này nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong đánh giá chính sách công.

Để đảm bảo quyền khiếu nại liên quan đến hoạt động báo chí và tự do ngôn luận, cần quy định rõ ràng về hình thức, quy trình, thời hạn và cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, theo Luật khiếu nại 2011 Điều này không chỉ là yêu cầu cần thiết trong việc quản lý lĩnh vực báo chí mà còn liên quan đến các quy định về khởi kiện vụ án hành chính, dân sự và hình sự, khi hoạt động báo chí ảnh hưởng đến các đối tượng cụ thể, dẫn đến hậu quả theo quy định của pháp luật tố tụng.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:31

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
7. Đỗ Văn Đại (2011), “Tự do báo chí và vấn đề bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín của cá nhân”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 03 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự do báo chí và vấn đề bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín của cá nhân”, "Tạp chí khoa học pháp lý
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Năm: 2011
8. Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên) (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người
Tác giả: Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên)
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2011
9. Nguyễn Văn Dững (2005), Báo chí: những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo chí: những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tác giả: Nguyễn Văn Dững
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia
Năm: 2005
10. Thái Thị Tuyết Dung (2015), Quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam
Tác giả: Thái Thị Tuyết Dung
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Tp.HCM
Năm: 2015
13. John Stuart Mill (2016), Bàn về tự do, Bản dịch Nguyễn Văn Trọng, NXB Tri Thức (2006) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về tự do
Tác giả: John Stuart Mill
Nhà XB: NXB Tri Thức (2006)
Năm: 2016
15. Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi - Đáp về quyền con người, NXB Công an Nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hỏi - Đáp về quyền con người
Tác giả: Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhà XB: NXB Công an Nhân dân
Năm: 2010
16. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Tư tưởng về quyền con người - Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam, NXB Lao động - Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư tưởng về quyền con người - Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam
Tác giả: Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhà XB: NXB Lao động - Xã hội
Năm: 2011
17. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Bản dịch Hoàng Thanh Đạm, NXB Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tinh thần pháp luật
Tác giả: Montesquieu
Nhà XB: NXB Hà Nội
Năm: 1996
18. Montesquieu (2006), Bàn về tinh thần pháp luật, Bản dịch Hoàng Thanh Đạm, NXB Lý luận chính trị Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về tinh thần pháp luật
Tác giả: Montesquieu
Nhà XB: NXB Lý luận chính trị
Năm: 2006
19. Vũ Văn Nhiêm (2009), Quyền tự do báo chí ở Mỹ và một số giá trị tham khảo đối với Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Luật Tp.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền tự do báo chí ở Mỹ và một số giá trị tham khảo đối với Việt Nam
Tác giả: Vũ Văn Nhiêm
Năm: 2009
20. Trần Quang Nhiếp (chủ biên) (2002), Định hướng hoạt động báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định hướng hoạt động báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Tác giả: Trần Quang Nhiếp (chủ biên)
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội
Năm: 2002
22. Dương Xuân Sơn (chủ biên) (2004), Cơ sở lý luận báo chí truyền thống, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở lý luận báo chí truyền thống
Tác giả: Dương Xuân Sơn (chủ biên)
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2004
23. Tạ Ngọc Tuấn (chủ biên) Nhóm nghiên cứu Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2007), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lý luận chính trị Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở lý luận báo chí
Tác giả: Tạ Ngọc Tuấn (chủ biên) Nhóm nghiên cứu Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nhà XB: NXB Lý luận chính trị
Năm: 2007
24. Trần Đăng Tuấn (2006), Phản biện xã hội - câu hỏi đặt ra từ cuộc sống, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phản biện xã hội - câu hỏi đặt ra từ cuộc sống
Tác giả: Trần Đăng Tuấn
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2006
25. Văn phòng Quốc hội, “Tự do báo chí qua các bản Hiến pháp và mốt số kiến nghị sủa đổi Hiến pháp 1992”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp Số 24 (232).Tài liệu từ Internet Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự do báo chí qua các bản Hiến pháp và mốt số kiến nghị sủa đổi Hiến pháp 1992”, "Tạp chí nghiên cứu lập pháp" Số 24 (232)
26. “Từ điển Bách khoa Toàn thư” online, http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn. truy cập 05/06/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Bách khoa Toàn thư
32. Somini Sengupta, Free speech in the age of youtube, New York Times, 22 September 2012. truy cập ngày 05/06/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: New York Times
34. "Timeline:a history of free speech", David Smith and Luc Torres, The Guardian, 5 February 2006 -http://www.theguardian.com/media/2006/feb/05/religion.news. Truy cập ngày 20/07/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Timeline:a history of free speech
33. Freedom of speech - https://en.wikipedia.org/wiki/Freedom_of_speech. truy cập ngày 05/06/2016 Link
1. Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc (1948) Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w