1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quyền sửa bản án sơ thẩm của hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

98 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quyền Sửa Bản Án Sơ Thẩm Của Hội Đồng Xét Xử Phúc Thẩm Theo Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Thủy Tiên
Người hướng dẫn Ts. Lê Nguyên Thanh
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 98
Dung lượng 12,85 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THEO HƯỚNG CÓ LỢI CHO NGƯỜI ĐƯỢC ÁP DỤNG (10)
    • 1.1. Nhận thức và quy định của pháp luật về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng (10)
      • 1.1.1. Nhận thức về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm (10)
      • 1.1.2. Quy định của pháp luật về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng (11)
    • 1.2. Thực tiễn về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm (18)
      • 1.2.1. Một số hạn chế, vướng mắc về quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi của hội đồng xét xử phúc thẩm cho người được áp dụng và nguyên nhân (18)
      • 1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng (28)
    • 1.3. Một số kiến nghị đối với quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng (28)
      • 1.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi (28)
      • 1.3.2. Kiến nghị khác nhằm bảo đảm thực hiện quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng (30)
  • CHƯƠNG 2. QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THEO HƯỚNG KHÔNG CÓ LỢI CHO NGƯỜI ĐƯỢC ÁP DỤNG (33)
    • 2.1.1. Nhận thức về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm (33)
    • 2.1.2. Quy định của pháp luật quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng không có lợi cho người được áp dụng (34)
    • 2.2. Thực tiễn về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm (38)
      • 2.2.1. Một số hạn chế, vướng mắc về quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi của hội đồng xét xử phúc thẩm cho người được áp dụng và nguyên nhân (38)
      • 2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng không có lợi cho người được áp dụng (45)
    • 2.3. Một số kiến nghị đối với quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng không có lợi cho người được áp dụng (45)
      • 2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng không có lợi cho người được áp dụng (45)
      • 2.3.2. Kiến nghị khác nhằm bảo đảm thực hiện quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng không có lợi cho người được áp dụng 43 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 (48)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THEO HƯỚNG CÓ LỢI CHO NGƯỜI ĐƯỢC ÁP DỤNG

Nhận thức và quy định của pháp luật về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng

1.1.1 Nhận thức về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng

Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử (HĐXX) có thẩm quyền xem xét và quyết định các vấn đề của vụ án, với mối quan hệ chặt chẽ giữa hai yếu tố này HĐXX chỉ có thể đưa ra kết luận và quyết định sau khi đã tiến hành xem xét, và quyết định giải quyết vụ án có thể thể hiện qua bản án hoặc quyết định khác của Tòa án Theo Tiến sĩ Nguyễn Đức Mai, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm bao gồm toàn bộ quyền hạn pháp luật dành cho Tòa án cấp trên trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự đã được xét xử sơ thẩm Quyền sửa bản án sơ thẩm cho phép HĐXX phúc thẩm thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị, cũng như các bản án đã có hiệu lực nhưng cần sửa đổi theo hướng có lợi cho bị cáo và các đương sự khác.

Theo khoản 1 Điều 357 BLTTHS, quyền sửa án chỉ áp dụng cho bị cáo, không bao gồm các đương sự khác trong vụ án Điều này dẫn đến việc giải thích rằng việc sửa án có thể diễn ra theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo Tuy nhiên, điều này chưa phản ánh đầy đủ quyền kháng cáo của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

HĐXX phúc thẩm có quyền sửa đổi bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng, bao gồm việc sửa những phần chưa có hiệu lực pháp luật hoặc những phần đã có hiệu lực nhưng không bị kháng cáo, kháng nghị Quyền này được thực hiện dựa trên căn cứ từ các kháng cáo, kháng nghị và sự đánh giá của HĐXX phúc thẩm nhằm đảm bảo quyền lợi cho bị cáo và các đương sự khác.

1.1.2 Quy định của pháp luật về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng

Về quyền sửa bản án sơ thẩm của HĐXX phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng, được quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 357 BLTTHS:

Thứ nhất, các trường hợp được sửa án theo hướng có lợi:

Khoản 1 Điều 357 BLTTHS: Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:

Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp (điểm a khoản 1 Điều 357):

Miễn trách nhiệm hình sự là quyết định của HĐXX phúc thẩm không buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội mà trước đó bản án sơ thẩm đã xác định Điều này bao gồm việc miễn hình phạt chính và hình phạt bổ sung, hoặc chỉ miễn hình phạt bổ sung Ngoài ra, theo Điều 46 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), bị cáo cũng có thể không bị áp dụng biện pháp tư pháp.

- Áp dụng điều, khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn (điểm b khoản 1 Điều

357) Đó là quyền áp dụng điều luật về một tội nhẹ hơn hoặc áp dụng khoản có

1 Điều 357 Sửa bản án sơ thẩm

1 Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau…

Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (2018), Bộ luật không quy định việc sửa án theo hướng áp dụng bổ sung tình tiết có giá trị định khung giảm nhẹ cho bị cáo Thông thường, khi có tình tiết định khung giảm nhẹ nhưng không làm thay đổi mức hình phạt, Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ nêu ra để rút kinh nghiệm Tuy nhiên, nếu tình tiết định khung giảm nhẹ mới được áp dụng và dẫn đến việc giảm hình phạt, thì đây sẽ được coi là trường hợp sửa án giảm hình phạt.

Giảm hình phạt cho bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 357 là trường hợp mà tòa án cấp phúc thẩm điều chỉnh bản án sơ thẩm bằng cách giảm thời hạn hình phạt so với mức đã tuyên trước đó Ví dụ, mức hình phạt tù có thể được giảm từ 5 năm xuống còn 4 năm Thuật ngữ “giảm mức hình phạt” ám chỉ việc giảm thời gian của hình phạt, trong khi “giảm hình phạt” cũng có thể hiểu là chuyển sang hình phạt nhẹ hơn theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 357.

Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng là hai trường hợp sửa án có lợi độc lập, được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 357.

Trường hợp sửa án để giảm mức bồi thường thiệt hại hiện nay chưa quy định đầy đủ các tình huống có thể giảm trách nhiệm dân sự trong quyết định sửa bản án sơ thẩm Mức bồi thường chỉ phản ánh khía cạnh lượng của tài sản, ví dụ từ 100 triệu xuống còn 80 triệu, mà không đề cập đến phương thức bồi thường Các yêu cầu như bồi thường thành nhiều lần, kéo dài thời gian bồi thường, hoặc bồi thường bằng cách sửa chữa thay vì bằng tiền thường được thực hiện trong giai đoạn thi hành án mà không có quyết định trong bản án Điều này có thể ảnh hưởng đến lợi ích của bên được bồi thường.

Trường hợp sửa quyết định xử lý vật chứng cần làm rõ việc sửa đổi theo hướng có lợi cho người được áp dụng, khác với việc sửa đổi theo hướng bất lợi Ví dụ, việc trả lại một phần hoặc toàn bộ tài sản vật chứng cho chủ sở hữu, người có quyền lợi liên quan trong vụ án, là một hình thức sửa đổi tích cực Bên cạnh đó, cũng cần xem xét việc xác định sai vật chứng, như tài sản của bị cáo hoặc của người có quyền lợi liên quan không phải là vật chứng nhưng bị tịch thu, hay tài sản của bị cáo không phải vật chứng nhưng bị tạm giữ để bảo đảm bồi thường Ngoài ra, vật chứng cũng có thể là tài sản thế chấp liên quan đến lợi ích của bên thứ ba.

Vấn đề sửa quyết định xử lý vật chứng là tài sản đang bị thế chấp là phức tạp, đòi hỏi phải đáp ứng điều kiện có lợi cho người được áp dụng Hiện nay, chưa có văn bản quy định chi tiết về việc xử lý vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản thế chấp, mặc dù trước đây, Thông tư liên tịch số 06/1998 đã hướng dẫn bảo quản và xử lý tài sản là vật chứng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử Theo thông tư này, các vật chứng như kho tàng, nhà xưởng, khách sạn, nhà đất, cùng với các phương tiện sản xuất, kinh doanh khác mà bị can đã thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán sẽ được cơ quan thụ lý giải quyết theo các quy định cụ thể.

Trong trường hợp tài sản thế chấp vẫn còn hiệu lực hợp đồng, cơ quan thụ lý vụ án có thể cho phép các bên giữ tài sản thế chấp tiếp tục khai thác và sử dụng Nếu bên giữ tài sản là người có tài sản hoặc người nhận thế chấp không thể khai thác, họ có thể tìm đối tác để thực hiện việc này, với điều kiện có thỏa thuận bằng văn bản Nếu bên giữ tài sản là bên thứ ba và không thể khai thác, họ phải trả lại tài sản cho bên có tài sản hoặc bên nhận thế chấp để tìm đối tác Nếu không tìm được đối tác, cơ quan thụ lý có thể giao tài sản cho tổ chức hoặc cá nhân có khả năng khai thác, dựa trên thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên liên quan.

3 Nguyễn Phương Anh (2020), “Xử lý vật chứng vụ án hình sự là tài sản thế chấp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 01 (401), tháng 01

Khi hợp đồng thế chấp hợp pháp hết thời hạn và bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ, tài sản thế chấp có thể được giao cho bên nhận thế chấp để khai thác, sử dụng hoặc xử lý nhằm thu hồi vốn và lãi, với điều kiện hồ sơ bảo đảm giá trị chứng minh tài sản đầy đủ Phương thức xử lý tài sản sẽ do các bên thỏa thuận; nếu không đạt được thỏa thuận, bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá hoặc cầm cố tài sản để thanh toán nợ.

Hoa lợi là lợi tức thu được từ việc khai thác và sử dụng tài sản thế chấp, cùng với số tiền từ việc xử lý tài sản này, được dùng để thanh toán nợ cho bên nhận thế chấp sau khi trừ các chi phí hợp lý liên quan đến bảo quản và khai thác tài sản, cũng như nghĩa vụ đối với Nhà nước Người khai thác cần lập sổ hạch toán riêng để phục vụ cho việc thi hành bản án của Toà án Nếu Toà án quyết định bên nhận thế chấp không được quyền thanh toán như đã nêu, hoa lợi, lợi tức hoặc số tiền thu được từ việc xử lý tài sản sẽ phải trả lại cho người có quyền nhận, sau khi đã trừ các chi phí hợp lý liên quan.

Thực tiễn về quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm

1.2.1 Một số hạn chế, vướng mắc về quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi của hội đồng xét xử phúc thẩm cho người được áp dụng và nguyên nhân

Tác giả đã nghiên cứu các bản án hình sự phúc thẩm từ Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp cao, cùng với các quyết định giám đốc thẩm công khai trên cổng thông tin của Tòa án nhân dân tối cao, cho thấy việc sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm chủ yếu tuân thủ quy định của BLTTHS Phổ biến nhất là việc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo đối với bị cáo Mặc dù có ít sai sót trong quyền sửa bản án sơ thẩm, tác giả chỉ ra rằng vẫn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục để đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức và thực tiễn áp dụng pháp luật Những sai sót chủ yếu liên quan đến căn cứ sửa án sơ thẩm, không phải ở quyền sửa bản án của Tòa án cấp phúc thẩm.

HĐXX phúc thẩm đã sửa quyết định áp dụng án phí hình sự và dân sự theo hướng có lợi cho bị cáo, tuy nhiên, điều này không được coi là sửa bản án sơ thẩm Theo Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP của HĐTPTANDTC, việc sửa án phí không được xem là giảm nhẹ hình phạt, mà nên được hiểu là sửa án theo hướng có lợi cho bị cáo, vì án phí là một phần quan trọng trong nội dung bản án.

Vụ án liên quan đến bị cáo Phan Vũ T, sinh năm 1956 tại Bến Tre, đã được Tòa án nhân dân thành phố B xét xử và tuyên án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HS-ST vào ngày 19/5/2020, quyết định bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” và xử phạt 07 tháng tù Ngày 22/5/2020, bị cáo kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo Tuy nhiên, ngày 30/7/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã xét xử phúc thẩm và giữ nguyên mức phạt tù, không chấp nhận đơn xin hưởng án treo Xét thấy bị cáo là người cao tuổi, Tòa án cấp phúc thẩm đã điều chỉnh án phí, miễn án phí cho bị cáo theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Vụ án Nguyễn Văn H liên quan đến hành vi cố ý gây thương tích, với bản án hình sự sơ thẩm số 152/2019/HSST đã được sửa đổi về án phí hình sự và dân sự.

Vào ngày 09 tháng 9 năm 2019, Tòa án nhân dân Quận 12 đã xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 06 tháng tù về tội cố ý gây thương tích, căn cứ vào điểm khoản 1 Điều 134 và các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

5 Bản án số: 65/2020/HS-PT Ngày: 30-7-2020, TAND tỉnh Bến Tre

Vào ngày 25-11-2019, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử vụ án số 582/2019/HSPT, trong đó bị cáo Nguyễn Văn H đã kháng cáo xin hưởng án treo, trong khi bị hại Nguyễn Thị Thúy H1 yêu cầu tăng mức hình phạt và bồi thường Tòa án không chấp nhận kháng cáo của bị hại, nhưng chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H, giữ nguyên mức hình phạt tù 06 tháng về tội “Cố ý gây thương tích” và cho hưởng án treo Do bị cáo là người cao tuổi, nên được miễn án phí theo quy định, do đó Tòa án đã sửa đổi quyết định trước đó về án phí, xác định rằng Nguyễn Văn H không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Trong hai vụ án nêu trên, án phí hình sự và dân sự sơ thẩm mà bị cáo cùng các đương sự khác phải nộp liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ và là một phần không thể thiếu của bản án Việc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp án phí sẽ không được xem là hoàn thành bản án Bên cạnh đó, quy định về án phí hình sự có thể được miễn trong một số trường hợp, trong khi án phí dân sự trong vụ án hình sự cũng được tính theo các quy định nhưng không phải lúc nào cũng chính xác Nếu bị cáo hoặc đương sự không đồng ý với mức án phí, họ có quyền kháng cáo bản án, không thể sử dụng thủ tục khác Thậm chí, nếu không có kháng cáo nhưng tòa án cấp phúc thẩm phát hiện sai sót trong việc áp dụng án phí, vẫn cần phải sửa bản án, điều này được coi là sửa án có lợi cho người được áp dụng Ngược lại, nếu việc sửa mức án phí không có lợi cho người được áp dụng, sẽ được xem là sửa án theo khoản 2 Điều 357.

Mặc dù điểm d khoản 1 Điều 357 không quy định cụ thể về việc sửa quyết định xử lý vật chứng, nhưng điều này vẫn có thể áp dụng cho bị cáo và các đương sự khác, nhằm đảm bảo quyền lợi cho họ, ngay cả khi không kháng cáo hoặc vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm Thực tiễn cho thấy việc xử lý vật chứng trong một số vụ án có thể được xem là sửa quyết định theo hướng có lợi cho người được áp dụng.

Vụ án Nguyễn Phi H, người có dấu hiệu bệnh tâm thần, đã được Tòa án cấp sơ thẩm Thị xã H xét xử với Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2020/HSST vào ngày 26 tháng 02 năm 2020.

2020) về các tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; “Cố ý gây thương tích” và “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 178, khoản 1 Điều 134 và khoản 1 Điều

Vào ngày 04 tháng 3 năm 2020, ông Nguyễn Văn T, đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Phi H, đã kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và yêu cầu trả lại xe mô tô biển số 6XHX -XXXXX Xét thấy, bị cáo chỉ sử dụng xe mô tô này để di chuyển đến hiện trường chứ không dùng để thực hiện tội phạm Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, chỉ những công cụ, phương tiện được sử dụng trong việc phạm tội mới bị tịch thu sung quỹ nhà nước Do đó, xe mô tô nêu trên không thuộc trường hợp tịch thu và cần được trả lại cho bị cáo.

Vào ngày 29/5/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã tiến hành xét xử phúc thẩm 7 vụ án và chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn T, đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Phi H Tòa án đã sửa đổi quyết định về hình phạt và xử lý vật chứng trong bản án hình sự sơ thẩm Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án đã quyết định trả lại cho bị cáo Nguyễn Phi H một xe mô tô mang biển số 6XHX-XXXXX, nhãn hiệu Wave Anpha, với ông Nguyễn Văn T là người đại diện hợp pháp nhận thay.

Trong vụ án này, chiếc xe mô tô không phải là vật chứng nhưng tòa án cấp sơ thẩm đã xác định sai và trả lại cho chủ sở hữu Đây chỉ là một trong nhiều trường hợp cần được hướng dẫn chi tiết hơn về việc sửa quyết định xử lý vật chứng, vì điều luật hiện tại chỉ nêu tổng quát Nếu việc sửa quyết định xử lý vật chứng theo hướng bất lợi cho người được áp dụng, thì sẽ được coi là trường hợp sửa án theo khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vụ án liên quan đến việc xử lý vật chứng là tài sản thế chấp gặp nhiều phức tạp, yêu cầu cấp phúc thẩm cần phải điều chỉnh trong quá trình xét xử Vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 17/01/2019, Tổ

Vào ngày 29/5/2020, tại bản án số 144/2020/HS-PT của TAND Tỉnh Đồng Tháp, tổ công tác Đồn biên phòng P phối hợp với Công an huyện B phát hiện ô tô tải mang biển kiểm soát 11C-040.xx có biểu hiện nghi vấn khi đang tuần tra tại khu vực xóm Nh, xã P, huyện B, tỉnh Cao Bằng Khi tổ công tác ra tín hiệu dừng xe, tài xế không chấp hành và bỏ chạy, dẫn đến việc truy đuổi đến khu vực xóm M, xã P, huyện B Tại đây, xe được yêu cầu kiểm tra và phát hiện 50 thùng cát tông chứa 18 khối hộp hình vuông, nghi là pháo do Trung Quốc sản xuất Ba đối tượng, gồm Phủng Láo L, Đặng Tòn S, và Đặng Mùi D, đã bị bắt quả tang và được đưa về đồn biên phòng P để điều tra làm rõ.

Một số kiến nghị đối với quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng

xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng

1.3.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng

Kiến nghị bổ sung trường hợp sửa quyết định về án phí hình sự và dân sự trong bản án sơ thẩm, đồng thời hướng dẫn áp dụng các trường hợp cho phép sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng, theo Khoản 1 Điều 357.

“Điều 357 Sửa bản án sơ thẩm

1 Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; miễn án phí hình sự, miễn hoặc giảm mức án phí dân sự

Đối với các trường hợp mà tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm, cần có hướng dẫn chi tiết hơn Nội dung hướng dẫn sẽ cụ thể hóa các trường hợp liên quan.

Giảm hình phạt cho bị cáo là việc điều chỉnh mức hình phạt trong khung hình phạt, bao gồm việc giảm mức hình phạt chính hoặc mức hình phạt bổ sung, cũng như có thể giảm đồng thời cả hai loại hình phạt này.

Sửa quyết định xử lý vật chứng liên quan đến việc trả lại toàn bộ hoặc một phần tài sản cho người có quyền lợi và nghĩa vụ trong vụ án Điều này bao gồm việc trả lại tài sản bị xác định sai là vật chứng cho chủ sở hữu, đồng thời hướng dẫn cách sửa quyết định trong trường hợp tài sản đang thế chấp, nhằm bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan.

Để hiểu rõ về việc giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng, cần phân tách hai trường hợp này thành hai mục riêng biệt, nhằm làm rõ hơn các khía cạnh liên quan trong sửa bản án sơ thẩm.

357 cho trường hợp sửa quyết định xử lý vật chứng)

Cần quy định giảm thời gian thử thách đối với án treo đã áp dụng, trong đó mức phạt tù vẫn được giữ nguyên, nhằm sửa đổi bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo.

Quy định sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị được quy định tại khoản 3 Điều 357 BLTTHS chỉ liên quan đến phần trách nhiệm hình sự Đối với trách nhiệm dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần tôn trọng ý chí của các bên nếu không có kháng cáo, kháng nghị Do đó, cần bổ sung quy định tại Điều 330 BLTTHS để xem xét các phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị, với kết quả chỉ có thể sửa bản án theo hướng giảm nhẹ, như một trường hợp ngoại lệ của tính chất phúc thẩm.

“Điều 330 Tính chất của xét xử phúc thẩm (đã bổ sung)

1 Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị, trừ trường hợp cần xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị liên quan đến trách nhiệm hình sự, đã có hiệu lực pháp luật được quy định tại Điều 345 Bộ luật này

2.…” Để cho đồng bộ, khoản 3 Điều 357 cũng cần bổ sung nội dung chỉ được quyền sửa phần trách nhiệm hình sự:

Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị, nếu có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều này.

1.3.2 Kiến nghị khác nhằm bảo đảm thực hiện quyền sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng

Các thẩm phán của HĐXX phúc thẩm cần hiểu rõ quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm để có thể quyết định sửa án theo hướng có lợi cho bị cáo khi có căn cứ Việc sử dụng quyền sửa án cần phải đúng đắn và không lạm dụng, tránh gây thiệt hại cho các bên liên quan trong tố tụng hình sự, đồng thời bảo vệ uy tín của HĐXX sơ thẩm Mặc dù quyền sửa bản án theo khoản 3 Điều 357 có tính tùy nghi, HĐXX phúc thẩm cần mạnh dạn thực hiện quyền này nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đảm bảo công bằng trong quyết định hình phạt.

Các thẩm phán của HĐXX phúc thẩm cần có trách nhiệm trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và xem xét đầy đủ các kháng cáo, kháng nghị để đảm bảo tính hợp lý trong việc sửa bản án hình sự sơ thẩm Mặc dù phạm vi xét xử phúc thẩm chủ yếu tập trung vào các kháng cáo, nhưng việc quyết định sửa án cần dựa trên thông tin đầy đủ và cân nhắc lợi ích của người được áp dụng so với lợi ích nhà nước và lợi ích chung, đồng thời bảo đảm pháp chế trong quá trình xét xử.

Cần tăng cường công tác kiểm tra và giám sát xét xử phúc thẩm để đảm bảo hiệu quả xét xử và thực hiện quyền sửa bản án sơ thẩm, tránh oan sai Qua việc kiểm tra và hướng dẫn áp dụng pháp luật, sẽ nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm và sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho người được áp dụng.

QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THEO HƯỚNG KHÔNG CÓ LỢI CHO NGƯỜI ĐƯỢC ÁP DỤNG

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:30

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN