TRẦN PHÚ QUÝ QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI XỬ ĐẶC BIỆT VÀ KHÁC BIỆT ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP CỦA WTO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC S
Khái quát về quy định đối xử đặc biệt và khác biệt của GATT/WTO
Lịch sử hình thành và phát triển c a quy định đ i xử đặc biệt và khác biệt
Năm 1947, trong quá trình đàm phán Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), 11/23 quốc gia tham gia ban đầu là các nước đang phát triển Tuy nhiên, GATT không có quy định đặc biệt cho các nước này, vì nguyên tắc cơ bản của GATT là hạn chế rào cản thương mại, không phân biệt đối xử và áp dụng quyền và nghĩa vụ một cách bình đẳng cho tất cả các thành viên Dự thảo Hiến chương về Tổ chức thương mại quốc tế (ITO) đã đề xuất một điều khoản cho phép các thành viên áp dụng biện pháp bảo hộ để phát triển các ngành công nghiệp và nông nghiệp cụ thể, nếu có sự đồng ý của các thành viên liên quan.
Sau khi GATT được ký kết, các nước đang phát triển nhận thấy nhiều thách thức trong thương mại quốc tế khi phải tuân thủ các quy định thương mại bình đẳng giống như các nước công nghiệp phát triển Thực tế cho thấy, họ không thể cạnh tranh với các nước phát triển có nền kinh tế- xã hội tiên tiến và nguồn lực tài chính vượt trội Do đó, các nước đang phát triển kêu gọi cần có chính sách ưu đãi trong thương mại để hỗ trợ họ.
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) được thương thảo trong khuôn khổ Hội thảo của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Việc làm, sau khi các quốc gia không thể thành lập Tổ chức Thương mại quốc tế (ITO) GATT được ký kết vào năm 1947 và duy trì hiệu lực cho đến năm 1993, khi Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ra đời vào năm 1995 Hiện nay, Hiệp định GATT 1947 vẫn còn hiệu lực theo quy định của WTO.
- 2 Bao gồm các nước: Brazil, Myanma (Miến Điện), Ceylon, Chile, Trung Quốc, Cuba, Ấn Độ, Lebannon, Pakistan, Rhodesia và Syria
Vào tháng 2 năm 1946, Uỷ ban kinh tế-Xã hội của Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết tổ chức cuộc họp để xem xét dự thảo hiến chương thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) theo đề xuất của Mỹ Đồng thời, đàm phán về GATT tại Geneve đã thành công, dẫn đến việc ký kết Hiệp định vào ngày 30 tháng 10 năm 1947 Đến tháng 3 năm 1948, các bên đã hoàn tất đàm phán Hiến chương ITO tại Havana, nhằm thiết lập các quy định cơ bản trong thương mại quốc tế và các vấn đề kinh tế khác Tuy nhiên, Hiến chương này không thể được thực hiện do Quốc hội Mỹ không thông qua, với lý do rằng ITO có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế của nước này.
Tình hình hiện tại yêu cầu phải thay đổi hệ thống thương mại để hỗ trợ các nước đang phát triển Cần tạo điều kiện cho họ tiếp cận thị trường các nước phát triển thông qua ưu đãi thương mại Đồng thời, áp dụng chính sách “không có đi có lại” hoặc ít nhất là chính sách “có đi có lại” không hoàn toàn trong quan hệ thương mại, cho phép các nước đang phát triển duy trì cơ chế bảo hộ cần thiết Hơn nữa, cần linh hoạt trong việc áp dụng các quy định của GATT và đảm bảo ổn định cho thị trường các sản phẩm thiết yếu.
Trong giai đoạn đầu của GATT đến những năm 1950, cộng đồng quốc tế đã thừa nhận những đặc điểm và thách thức đặc biệt mà các nước đang phát triển gặp phải trong thương mại quốc tế Vì vậy, các nước này cần được đối xử khác biệt và ưu đãi hơn trong khuôn khổ GATT, bao gồm việc không bắt buộc phải tự do hóa hoàn toàn thương mại và được tạo điều kiện thuận lợi hơn để tiếp cận thị trường của các nước phát triển.
Quá trình xem xét lại GATT vào năm 1954-1955 đánh dấu lần đầu tiên các điều khoản mới được đưa ra dựa trên yêu cầu của các nước đang phát triển Ba điều khoản mới đã được thông qua, trong đó hai điều khoản liên quan đến Điều XVIII GATT Điều XVIII(B) cho phép các nước đang phát triển áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu khi gặp khó khăn về cán cân thanh toán và dự trữ quốc gia, phù hợp với chiến lược phát triển dài hạn Trong khi đó, Điều XVIII(C) cho phép các nước này thực hiện các biện pháp hạn chế thương mại, bao gồm thuế quan và hạn chế số lượng, nhằm hỗ trợ sản xuất trong nước.
Năm 1956, vấn đề hàng hoá nông sản được các bên quan tâm và thống nhất thông qua Nghị quyết về thương mại hàng nông sản cơ bản Nghị quyết yêu cầu xem xét xu hướng và phát triển của thương mại hàng nông sản, đồng thời tổ chức cuộc gặp liên chính phủ hàng năm nếu cần thiết để giải quyết các vấn đề liên quan Đến năm 1958, báo cáo của Uỷ ban Haberler chỉ ra rằng có sự lo lắng nhất định từ các nước sản xuất hàng nông sản đối với những quy tắc hiện hành.
- 4 Resolution on Particular Difficulties Connected with Trade in Primary Commodities
Tại Hội nghị Bộ trưởng GATT năm 1957, 5 Ủy ban đã được thành lập nhằm thúc đẩy chính sách thương mại công bằng cho các quốc gia Bản báo cáo đề xuất cần thiết phải xây dựng chương trình bình ổn giá cả và giảm thuế nhập khẩu cho hàng hóa từ các nước đang phát triển tại các quốc gia phát triển.
Năm 1961, GATT đã công bố một tuyên bố quan trọng nhằm thúc đẩy thương mại cho các nước kém phát triển, kêu gọi áp dụng ưu đãi thương mại trong việc tiếp cận thị trường Tuyên bố này nhấn mạnh rằng các nước đang phát triển không nằm trong phạm vi của Hệ thống ưu đãi thuế quan hay các ưu đãi từ Liên minh hải quan và Khu vực mậu dịch tự do đã được thiết lập trước đó cần được hỗ trợ để cải thiện khả năng tham gia vào thương mại quốc tế.
Vào năm 1964, các bên đã bổ sung ba điều khoản mới vào Phần IV - Thương mại và Phát triển của GATT, cụ thể là Điều XXXVI đến XXXVIII Điều XXXVI nhấn mạnh việc các Thành viên cần cung cấp điều kiện tiếp cận thị trường ưu đãi hơn cho sản phẩm xuất khẩu của các nước đang phát triển, đặc biệt là hàng hóa cơ bản và đã qua chế biến, đồng thời cho phép các nước này không phải tuân thủ hoàn toàn nguyên tắc “có đi có lại” Điều XXXVII yêu cầu ưu tiên gỡ bỏ các rào cản phân biệt giữa hàng hóa thô và hàng hóa chế biến, đồng thời đánh giá tác động của các chính sách thương mại đến các nước đang phát triển Cuối cùng, Điều XXXVIII kêu gọi các bên hành động thông qua các Hiệp định quốc tế để tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho hàng hóa xuất khẩu của các nước đang phát triển Ủy ban về Thương mại và Phát triển được thành lập nhằm đánh giá việc thực thi các điều khoản này và đề xuất những thay đổi phù hợp với mục tiêu phát triển thương mại.
Mặc dù các bên của GATT đã thừa nhận mong muốn của các nước đang phát triển trong việc bảo hộ sản xuất nội địa và duy trì cân bằng cán cân thanh toán, nhưng GATT chưa đưa ra quy định ràng buộc nào về việc gia tăng cơ hội tiếp cận thị trường cho các nước này Cụ thể, không có điều khoản nào trong Phần IV GATT mang tính pháp lý bắt buộc các nước phát triển phải thực hiện các hành động cụ thể nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển trong việc bình ổn giá cả hàng hoá.
Thúc đẩy thương mại cho các nước kém phát triển là một yếu tố quan trọng trong việc hỗ trợ sự phát triển bền vững Uỷ ban về Thương mại và Phát triển hoạt động như một diễn đàn cho các nước đang phát triển, nơi họ có thể chia sẻ quan điểm và thảo luận về những vấn đề phát sinh mà không có tính ràng buộc về mặt pháp lý Việc tạo ra các cơ hội thương mại và giảm rào cản thương mại sẽ giúp các nước này tăng cường khả năng cạnh tranh và phát triển kinh tế.
Các nước đang phát triển nhận thấy rằng những vấn đề thương mại của họ chưa được giải quyết đầy đủ trong GATT Do đó, họ đã vận động thành công để thành lập một tổ chức độc lập nhằm giải quyết các vấn đề thương mại và phát triển, đó là Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) vào năm 1964.
Vào năm 1968, các nước đang phát triển đạt được thành công trong việc thiết lập
Hệ thống ưu đãi phổ cập GSP 8 được thiết lập với sự hỗ trợ của UNCTAD, dựa trên cam kết tự nguyện của các nước đang phát triển, không nằm trong phạm vi điều chỉnh của GATT Vào năm 1971, một ngoại lệ về nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) trong GATT đã được thông qua, với thời hạn hiệu lực ban đầu là 10 năm.
Phân loại c c quy định đ i xử đặc biệt và khác biệt trong th ơng mại qu c t
Trong tất cả các Hiệp định của WTO, có 148 điều khoản quy định về chính sách đặc biệt và khác biệt (SDT) cho các nước đang phát triển, được phân loại thành hai dạng: bắt buộc và không bắt buộc Các điều khoản sử dụng từ "nên" được coi là không bắt buộc, trong khi các điều khoản với từ "cần" được xem là bắt buộc Tuy nhiên, mặc dù lý thuyết cho thấy các điều khoản "cần" là bắt buộc, tính bắt buộc thực tế lại yếu do nhiều điều khoản vẫn cho phép sự linh hoạt trong việc áp dụng.
Các điều khoản quy định về SDT, bao gồm cả bắt buộc và không bắt buộc, được phân loại theo cách phân loại của Ban thư ký vào năm 2001 Theo phân loại này, các điều khoản về SDT được chia thành sáu nhóm khác nhau.
- 17 WTO (2001), WT/MIN(01)/DEC/1 (14 November 2001), WTO Ministerial Declaration, Ministerial
- 18 WTO (2001), WT/MIN(01)/DEC/1 (14 November 2001), WTO Ministerial Declaration, Ministerial
- 19 WTO (2010), TN/CTD/W/33 (8 June 2010), Special and Differential Treatment Provisions in WTO Agreements and Decisions, Committee on Trade and Development, Geneva, Switzerland, para 2
20 WTO (2001), WT/COMTD/W/77/Rev.1/Add.1 (21 December 2001), Implementation of Special and Differential
Treatment in WTO Agreements and Decisions: A Review of Mandatory and Non-mandatory Special and Differential Treatment Provisions, Committee on Trade and Development, Geneva, Switzerland, pp 1
Nhóm các điều khoản nhằm gia tăng cơ hội thương mại cho các nước đang phát triển
Các điều khoản trong nhóm này xuất hiện dưới nhiều hình thức và trong các Hiệp định khác nhau Chúng yêu cầu các bên liên quan thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường cơ hội thương mại cho các nước đang phát triển, thông qua việc cung cấp ưu đãi tiếp cận thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của họ, hoặc cho phép các nước phát triển áp dụng các ưu đãi thương mại đối với các nước đang phát triển.
Hiệp định Marakesh về việc thành lập WTO đã ghi nhận nhu cầu đặc biệt của các nước đang phát triển, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo rằng các nước này được hưởng lợi từ sự phát triển của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển riêng của từng quốc gia.
Phần IV của GATT 1994 về “Th ơng mại và phát triển” yêu cầu Thành viên là các nước phát triển chấp nhận dành ưu tiên cho việc cắt giảm các hàng rào thương mại đối với hàng hoá xuất khẩu từ các nước LDC và yêu cầu các Thành viên phát triển duy trì các đối xử ưu đãi được cho phép theo Điều kho n u đãi 1979 Điều 4.1 Hiệp định chung về thương mại trong lĩnh vực dịch vụ (GATS) 21 lại nhằm mục đích gia tăng sự tham gia hội nhập của các nước đang phát triển qua sự tự do hoá thương mại về dịch vụ trên nhiều lĩnh vực
Hiệp định hàng dệt may quy định các ưu đãi đặc biệt trong việc cấp quota cho hàng hóa xuất khẩu từ các nước nhỏ, các thành viên mới của WTO và các nước đang phát triển (LDC).
Nhóm các điều khoản yêu cầu các Thành viên WTO đảm bảo lợi ích của các nước đang phát triển
Các điều khoản SDT trong nhóm này quy định các hành động được phép và bị cấm đối với các Thành viên, nhằm bảo vệ lợi ích của các Thành viên đang phát triển Những điều khoản này thường xuất hiện trong các Hiệp định của WTO, trong các Lời mở đầu hoặc các điều khoản cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hỗ trợ các quốc gia đang phát triển.
Các thành viên thực thi các Hiệp định cần đảm bảo và chú trọng đến lợi ích của các nước đang phát triển Các điều khoản về SDT trong nhóm này bao gồm cả những điều khoản bắt buộc và không bắt buộc.
Các điều khoản không bắt buộc ví dụ như trong Lời mở đầu Hiệp định thành lập
WTO ghi nhận “S cần thi t đ i với các nỗ l c tích c c nhằm đ m b o c c n ớc đang
Hiệp định Tổng quát về Thương mại Dịch vụ (GATS) đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại quốc tế, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển, giúp họ tận dụng lợi ích từ sự phát triển này Ngoài ra, các hiệp định khác như Hiệp định nông nghiệp và Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) cũng yêu cầu các thành viên "xem xét một cách toàn diện" và "dành sự chú ý đặc biệt" để thực hiện các cam kết này một cách hiệu quả.
“Quan tâm đặc biệt” 25 đối với các nhu cầu cụ thể của các nước đang phát triển khi thi hành các Hiệp định trên
Các điều khoản bắt buộc ví dụ điển hình là Điều 10 Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) 26 :
Các thành viên cần chuẩn bị và áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ cũng như kiểm dịch động vật Đồng thời, cần xem xét đến các nhu cầu đặc biệt của những thành viên đang phát triển, đặc biệt là các thành viên kém phát triển nhất.
Điều 12 của Hiệp định TBT nhấn mạnh rằng các Thành viên cần chú ý đặc biệt đến các điều khoản liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các nước đang phát triển Điều này bao gồm việc xem xét nhu cầu phát triển, tài chính và thương mại đặc thù của các Thành viên này.
Mặc dù Điều 10 của Hiệp định SPS quy định nghĩa vụ bắt buộc, nhưng thực tế, các điều khoản này không mang lại hiệu quả cao Điều này là do thiếu mục tiêu cụ thể và ít có tác dụng thúc đẩy các Thành viên phát triển ưu tiên xem xét các vấn đề của các nước đang phát triển khi thực hiện các biện pháp theo Hiệp định SPS.
Điều 12 của Hiệp định TBT không đặt ra nghĩa vụ bắt buộc cho các Thành viên phát triển trong việc xem xét tác động đối với các Thành viên đang phát triển.
Cả hai Điều khoản không quy định rõ ràng về việc gỡ bỏ hoặc thay đổi các biện pháp áp dụng cho các Thành viên đang phát triển, ngay cả khi các Thành viên này chứng minh được ảnh hưởng của những biện pháp đó đối với đất nước của họ.
Nhóm các điều khoản cho phép các nước đang phát triển linh hoạt trong việc thực hiện các cam kết cũng như chính sách thương mại
Các điều khoản trong nhóm này cho phép các nước đang phát triển miễn trừ khỏi các quy định chung của WTO, vốn thường áp dụng cho các thành viên Ngoài ra, các điều khoản SDT trong nhóm này cũng tạo điều kiện cho các nước này có những quyền lợi đặc biệt.
- 22 Agreement on Techinal Barrier on Trade (TBT)
- 23 Lời mở đầu Hiệp định nông nghiệp
- 25 Điều 15 Hiệp định chống bán phá giá
- 26 Agreement on the Application of Sanitary and Phytosanitary Measures (SPS).
Khái quát Hiệp định nông nghiệp của WTO
S ra đời c a Hiệp định nông nghiệp
Kể từ khi Hiệp định GATT được ký kết vào năm 1947, thương mại nông nghiệp không được đề cập cụ thể, vì các bên coi nông nghiệp là lĩnh vực đặc biệt trong nền kinh tế Điều này nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, nên nông nghiệp không thể được đối xử giống như các ngành khác.
Thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp được miễn trừ khỏi một số quy tắc quan trọng của GATT, cho phép áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu cho sản phẩm nông sản, cho phép trợ cấp xuất khẩu và áp dụng các cơ chế bảo hộ nông nghiệp như hỗ trợ trong nước.
Sự thiếu sót trong quy định của GATT về thương mại nông nghiệp đã dẫn đến việc gia tăng bảo hộ và trợ cấp cho nông nghiệp, đặc biệt tại các nước phát triển như châu Âu, Nhật Bản và Mỹ Điều này đã tạo ra những rào cản lớn cho các nước xuất khẩu nông sản, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường toàn cầu.
The implementation of Special and Differential Treatment provisions in WTO agreements has become increasingly crucial, especially for developing countries facing shrinking agricultural exports Protectionist policies from developed nations have led to distorted trade in the food market, resulting in lower agricultural prices and instability in the global market.
Sự méo mó trong thương mại nông sản đã thúc đẩy nhu cầu thiết lập các quy tắc thương mại đa phương nhằm xây dựng một hệ thống thương mại nông nghiệp quốc tế công bằng và hiệu quả hơn Mỹ, Cộng đồng Châu Âu (EC) và các nước phát triển đang chú ý đến vấn đề này do các chương trình trợ cấp nông nghiệp nội địa ngày càng tốn kém và không ổn định Đồng thời, các nước xuất khẩu lương thực đang phát triển mong muốn có các quy tắc thương mại như một công cụ để ổn định và tăng giá cả nông sản xuất khẩu, từ đó hy vọng thu được nhiều lợi nhuận hơn để phục vụ cho việc xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế.
Mặc dù các vòng đàm phán trước của GATT đã đề cập đến một số mặt hàng nông sản, như tại Vòng đàm phán Dillon (1960-1961) với việc cắt giảm thuế quan đối với đậu nành và rau quả, hay Vòng đàm phán Kennedy (1964-1967) với Hiệp định lúa mì quốc tế, nhưng chỉ đến Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) thì nông nghiệp mới chính thức được đưa vào chương trình đàm phán.
Vòng đàm phán Uruguay bắt đầu vào năm 1986 theo Tuyên bố Punta del Este, với mục tiêu quan trọng trong lĩnh vực nông nghiệp là đạt được sự tự do hóa lớn hơn trong thương mại nông sản Mục tiêu này bao gồm việc áp dụng các biện pháp có tác động đến nhập khẩu và cạnh tranh xuất khẩu, nhằm tuân thủ các quy định và quy tắc của GATT một cách hiệu quả hơn.
Một điểm quan trọng trong Tuyên bố là các bên công khai thừa nhận tác động của chính sách nông nghiệp trong nước đối với thương mại quốc tế Do đó, vòng đàm phán không chỉ tập trung vào biện pháp cửa khẩu và trợ cấp xuất khẩu mà còn mở rộng ra nhiều vấn đề khác liên quan đến chính sách nông nghiệp trong nước.
Trong Vòng đàm phán Uruguay, các bên tham gia chính về nông nghiệp bao gồm Mỹ, EC và nhóm các nước CAIRNS 30 Mỹ chủ trương thúc đẩy tự do hóa trong lĩnh vực nông nghiệp.
- 29 European Communities: Tiền thân của Liên minh Châu Âu EU (European Union)
Nhóm các nước CAIRNS được thành lập vào năm 1986 tại thành phố Cairns, Australia, bao gồm 19 quốc gia xuất khẩu nông sản, chiếm 25% lượng nông sản xuất khẩu toàn cầu Các thành viên của nhóm gồm Argentina, Australia, Bolivia, Brazil, Canada, Chile, Colombia, Costa Rica, Guatemala, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Pakistan, Paraguay, Peru, Philippines, Nam Phi, Thái Lan và Uruguay Nhóm CAIRNS tập trung vào việc thúc đẩy thương mại nông nghiệp và kêu gọi cắt giảm các biện pháp trợ cấp và bảo hộ từ các nước EC Trong khi đó, các nước EC không muốn cam kết tự do hóa nhưng vẫn tìm kiếm thỏa thuận để giảm thiểu tranh chấp với Mỹ trong tương lai Các quốc gia CAIRNS yêu cầu giảm mạnh mẽ chủ nghĩa bảo hộ và các biện pháp hỗ trợ trong nước tại các nước phát triển.
Các nước đang phát triển ngoài nhóm CAIRNS tham gia vào Vòng đàm phán, nhưng ảnh hưởng của họ đối với quá trình này không đáng kể Nhật Bản và Hàn Quốc đặc biệt chú trọng đến kết quả của Vòng đàm phán do họ áp dụng chính sách bảo hộ mạnh mẽ đối với sản phẩm gạo.
Tại Vòng đàm phán Uruguay, các cuộc thảo luận về nông nghiệp chủ yếu nhằm giải quyết sự khác biệt quan điểm giữa Mỹ và EC liên quan đến việc mở cửa thị trường nông sản, giảm trợ cấp và chống lại chủ nghĩa bảo hộ.
Các nước đang phát triển đang tập trung vào việc yêu cầu các ưu đãi SDT, nhấn mạnh tầm quan trọng của nông nghiệp đối với kinh tế và sự phát triển của họ Do đó, các quy định mới cần tránh gây cản trở cho sự tăng trưởng của nông nghiệp và không hạn chế các chính sách hỗ trợ của chính phủ.
Tại phiên xem xét giữa kỳ ở Montreal, Canada vào năm 1988, các bên đàm phán chưa đạt được sự đồng thuận Tuy nhiên, đến tháng 4 năm 1989, một bước tiến quan trọng đã xảy ra với sự ra đời của Hoà ước Geneva, trong đó các bên thống nhất về các biện pháp tạm thời liên quan đến hỗ trợ trong nước, trợ cấp xuất khẩu và các biện pháp cửa khẩu Các bên cam kết tiếp tục đàm phán nhằm giảm can thiệp của chính phủ trong các lĩnh vực này và đạt được các cam kết riêng lẻ cho từng lĩnh vực.
Vào năm 1991, các bên tham gia đàm phán đã đạt được thỏa thuận về việc thực hiện các nhượng bộ trong ba lĩnh vực chính: tiếp cận thị trường, hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu Những lĩnh vực này sau đó đã trở thành ba vấn đề quan trọng trong Hiệp định cuối cùng về nông nghiệp.
QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI XỬ ĐẶC BIỆT VÀ KHÁC BIỆT TRONG HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Quy định đối xử đặc biệt và khác biệt trong Hiệp định nông nghiệp
2 1 1 Quy định đ i xử đặc biệt và khác biệt về ti p cận thị tr ờng
Sự tiến bộ quan trọng nhất trong AoA liên quan đến tiếp cận thị trường cho sản phẩm nông nghiệp là yêu cầu loại bỏ các biện pháp phi thuế quan như hạn chế số lượng nhập khẩu, quy định giá nhập khẩu tối thiểu và thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu phức tạp Tất cả các biện pháp phi thuế quan đều không được phép duy trì và phải sử dụng thuế quan thông thường Ngoài ra, các quốc gia cần thực hiện cắt giảm thuế quan theo lộ trình cụ thể.
Mặc dù yêu cầu gỡ bỏ tất cả các biện pháp phi thuế quan, các Thành viên vẫn có thể áp dụng quy định SDT tại Phụ lục 5 của AoA để tạm hoãn quá trình thuế hóa các biện pháp này đối với sản phẩm cụ thể Trong giai đoạn thực hiện, các Thành viên phải cung cấp mức tiếp cận tối thiểu, với các nước phát triển yêu cầu 4% tổng lượng hàng hóa tiêu thụ trong năm đầu tiên (1995), tăng lên 8% vào năm 2000 Đối với các nước đang phát triển, mức tiếp cận tối thiểu bắt đầu từ 1% vào năm 1995 và tăng lên 4% vào năm 2000.
Quy định SDT áp dụng cho bốn thành viên với các sản phẩm cụ thể: Nhật Bản (nước phát triển), Philippines và Hàn Quốc với sản phẩm gạo, và Israel với phô mai và thịt cừu Nhật Bản và Israel đã từ bỏ quyền ưu đãi này Đài Loan, sau khi gia nhập WTO, đã đăng ký áp dụng ưu đãi cho sản phẩm gạo trong năm đầu tiên.
Các nước đang phát triển muốn áp dụng điều khoản SDT theo Phụ lục 5 cần được công nhận trong danh sách Thành viên và phải thỏa mãn các tiêu chí cụ thể được quy định trong Phụ lục 5-B.
- 46 Phụ lục 5A đối với các nước phát triển, Phụ lục 5B đối với các nước đang phát triển
Vào cuối vòng đàm phán, 47 điều khoản đã được thông qua theo yêu cầu của Nhật Bản và Hàn Quốc, cho phép hai quốc gia này thực hiện các biện pháp bảo hộ đối với sản phẩm gạo, một thành phần chính trong bữa ăn truyền thống của họ.
Sau khi giai đoạn thực thi AoA kết thúc vào năm 2000 cho các nước phát triển và năm 2004 cho các nước đang phát triển, SDT sẽ tiếp tục được áp dụng nếu có sự nhượng bộ và thống nhất từ các bên liên quan thông qua đàm phán.
Nếu không có đàm phán tiếp tục thực hiện quy định sau giai đoạn AoA, Thành viên phải thực hiện cam kết thuế hoá và duy trì mức tiếp cận thị trường 8% cho nước phát triển và 4% cho nước đang phát triển Các nước đang phát triển được ưu đãi cắt giảm thuế quan thấp hơn, với yêu cầu cắt giảm trung bình 24% và tối thiểu 10% trong 10 năm, trong khi các nước phát triển phải cắt giảm trung bình 36% và tối thiểu 15% trong 6 năm Các nước LDC không phải cam kết cắt giảm thuế quan.
Các nước đang phát triển có khả năng áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu nhằm duy trì sự cân bằng trong cán cân thanh toán, mà không cần phải cung cấp mức tiếp cận tối thiểu.
2 1 2 Quy định đ i xử đặc biệt và khác biệt về hỗ tr trong n ớc
Ngoài các loại hỗ trợ trong Hộp xanh lá cây không bị cắt giảm do ít hoặc không gây bóp méo thương mại, AoA quy định một số biện pháp hỗ trợ khác cũng được loại trừ khỏi tổng AMS.
Theo Điều 6.2, các hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp của chính phủ nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp nông thôn trong chương trình phát triển quốc gia sẽ không bị tính vào cam kết cắt giảm và không nằm trong lượng hỗ trợ gộp AMS.
+ Các loại trợ cấp đầu tư, là loại trợ cấp nông nghiệp nói chung thường có tại các nước đang phát triển
Trợ cấp nguyên liệu sản xuất đầu vào là một hình thức hỗ trợ tài chính thường được chính phủ cung cấp cho những người sản xuất có thu nhập thấp, đặc biệt là nông dân nghèo ở các nước đang phát triển.
Chính phủ cung cấp hỗ trợ cho các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển nhằm khuyến khích họ từ bỏ việc trồng cây thuốc phiện.
Mức hỗ trợ tối thiểu theo quy định tại Điều 6 của Hộp hổ phách cho phép không tính vào AMS đối với các trợ cấp không vượt quá 5% tổng trị giá sản lượng của một sản phẩm nông nghiệp cơ bản hoặc tổng sản lượng nông nghiệp của các Thành viên, đặc biệt là các Thành viên là nước phát triển.
Theo quy định tại Điều 6.4, các nước đang phát triển có thể loại trừ cắt giảm hỗ trợ không vượt quá 10% tổng trị giá sản lượng của sản phẩm nông nghiệp cơ bản hoặc tổng sản lượng nông nghiệp Điều này đồng nghĩa với việc mức tối thiểu không được tính vào chỉ số AMS đối với các nước đang phát triển là 10%.
Theo quy định của AoA, ngoài các loại hỗ trợ bị loại trừ khỏi cam kết cắt giảm và không được tính vào AMS, các nước đang phát triển vẫn có thể thực hiện một số loại hỗ trợ khác mà vẫn phù hợp với quy định về hỗ trợ trong nước Cụ thể, theo đoạn 3 và các chú thích 5, 6 trong Phụ lục 2, các nước này được phép áp dụng các hình thức hỗ trợ nhất định.
VẤN ĐỀ NÔNG NGHIỆP VÀ QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI XỬ ĐẶC BIỆT VÀ KHÁC BIỆT TRONG NÔNG NGHIỆP TẠI VÒNG ĐÀM PHÁN
Đàm ph n về nông nghiệp và c c đề xuất mới về quy định đối xử đặc biệt và khác biệt trong nông nghiệp tại Vòng đàm ph n Doha
3 1 1 Đàm ph n về nông nghiệp tại Vòng đàm ph n Doha
Vào tháng 11 năm 2001, tại Hội nghị Bộ trưởng WTO ở Doha, Qatar, các Thành viên WTO đã thống nhất khởi động Vòng đàm phán mới mang tên Chương trình nghị sự phát triển Doha, nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển cho các nước Thành viên, đặc biệt là các nước đang phát triển và các nước LDC, đồng thời giảm tình trạng nghèo đói toàn cầu thông qua việc thúc đẩy mậu dịch tự do Tại Hội nghị, Tuyên bố Doha đã nêu ra 21 vấn đề quan trọng, trong đó có vấn đề nông nghiệp, làm nội dung chính cho các cuộc đàm phán trong Vòng đàm phán Doha.
Đến nay, sau nhiều Hội nghị Bộ trưởng và các cuộc họp đặc biệt, Vòng đàm phán Doha vẫn chưa đạt được kết quả cuối cùng Nguyên nhân chính là do sự khác biệt trong quan điểm giữa các bên, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và việc tiếp cận thị trường sản phẩm phi nông nghiệp Đây là hai vấn đề cốt lõi gây cản trở tiến trình đàm phán.
Doha chưa thể kết thúc Các bên chưa thể tìm được tiếng nói chung và tìm ra được
Công thức 92 là cơ sở cho việc tính toán và đưa ra cam kết phù hợp trong đàm phán Trong lĩnh vực nông nghiệp, AoA đã thiết lập một khung và các quy tắc cụ thể để các bên thực hiện cam kết cắt giảm biện pháp bảo hộ gây bóp méo thương mại Điều 20 của AoA quy định rằng các bên cam kết tiến hành đàm phán để tiếp tục cải cách quy định thương mại nông nghiệp vào năm 1999 hoặc đầu năm 2000.
Trong nhiều năm qua, Vòng đàm phán Doha đã tập trung vào việc cắt giảm thuế quan và trợ cấp trong nông nghiệp, hai vấn đề được các nước bảo hộ nhiều nhất Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, khi họ phải cạnh tranh với nông sản được trợ cấp từ các nước phát triển Tăng cường tiếp cận thị trường cho sản phẩm nông nghiệp sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nhóm nước, đồng thời việc thiết lập các quy tắc mới cho biện pháp hỗ trợ trong nước sẽ tạo ra một sân chơi công bằng hơn.
Tập trung vào các vấn đề nông nghiệp đã khiến lĩnh vực này trở thành chủ đề chính trong Vòng đàm phán Doha, với nhiều thành công đạt được Theo các đề xuất mới nhất, EU, Mỹ và các nước phát triển sẽ giảm đáng kể thuế MFN đối với sản phẩm nông sản nhập khẩu, đặc biệt là các mức thuế cao gây bóp méo thương mại Ngoài ra, 4% tổng số dòng thuế sẽ được xếp vào diện “nhạy cảm” với mức cắt giảm thấp hơn, trong khi các nước sẽ cung cấp hạn ngạch 4% mức tiêu thụ nội địa với thuế bằng 0 hoặc rất thấp Đây được coi là cam kết mở cửa thị trường nông sản lớn nhất trong lịch sử GATT/WTO, dẫn đến sự chuyển đổi đáng kể trong cơ cấu thương mại nông nghiệp của Mỹ và EU, cùng với việc các thị trường bảo hộ như Na Uy, Thụy Sỹ, Canada và Nhật Bản cũng sẽ mở cửa thị trường mạnh mẽ.
Trong Nghị trình Phát triển Doha, "công thức" được hiểu là phương pháp thực hiện các thỏa thuận cuối cùng, bao gồm cắt giảm thuế quan và trợ cấp nông nghiệp Khi các công thức này được đồng thuận, các quốc gia có thể áp dụng các phương pháp thuế quan cho hàng ngàn sản phẩm và chương trình hỗ trợ khác nhau Đàm phán cải cách thương mại nông nghiệp tập trung vào ba lĩnh vực chính: thâm nhập thị trường, hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu, với các công thức hướng dẫn cách thức thực hiện những mục tiêu này.
Các thoả thuận trong đàm phán nông sản có ảnh hưởng lớn đến việc mở cửa thị trường và thương mại quốc tế Các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ và EU, đã đồng ý cắt giảm đáng kể mức hỗ trợ trong nước gây bóp méo thương mại, mặc dù tác động đối với nông dân của họ là khiêm tốn Việc cắt giảm này sẽ buộc Mỹ và EU phải điều chỉnh chính sách nông nghiệp để giảm thiểu ảnh hưởng đến thương mại Ngoài ra, đàm phán về trợ cấp xuất khẩu cũng đã đạt được tiến bộ, với các cam kết cắt giảm được thống nhất trong dự thảo mới nhất.
Trợ cấp xuất khẩu sẽ được loại bỏ hoàn toàn vào năm 2013 tại các nước phát triển và vào năm 2016 đối với hầu hết các nước đang phát triển, với một số nước duy trì đến năm 2021 Việc chấm dứt trợ cấp xuất khẩu, đặc biệt là các trợ cấp gây bóp méo thương mại đối với nông sản, là một trong những quy định pháp lý quan trọng mà Vòng đàm phán Doha đã đạt được.
Tại Vòng đàm phán Doha, các bên đã đạt được một số cam kết quan trọng liên quan đến nông nghiệp, điều này không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu mà còn có tác động lớn đến các nước đang phát triển.
Về cơ bản, các đề xuất được các bên đưa ra trong Dự thảo mới nhất ngày 6 tháng
12 năm 2008 93 quy định các nội dung sau:
Theo Công thức bậc 94, thuế quan sẽ được cắt giảm, với các mức thuế cao phải cắt giảm nhiều hơn Các nước phát triển sẽ thực hiện cắt giảm tối thiểu 50% đối với các dòng thuế từ 20% và tối đa 70% cho các dòng thuế từ 75% trở lên, với mức cắt giảm trung bình là 54% và một số hạn chế cho các dòng thuế trên 100% Đối với các nước đang phát triển, mức cắt giảm sẽ bằng 2/3 mức của các nước phát triển, với mức giảm trung bình tối đa là 36% Một số sản phẩm sẽ chỉ phải cắt giảm ở mức thấp hơn theo quy định về ngoại lệ.
- 93 WTO (2008), TN/AG/W/4/Rev.4 (6 December 2008), Revised Draft Modalities for Agriculture,
Committee on Agriculture, Geneva, Switzerland
Công thức phân tầng 94 quy định rằng các "sản phẩm nhạy cảm" sẽ được cắt giảm thuế thấp hơn cho tất cả các nước, tuy nhiên, các quốc gia cần cung cấp hạn ngạch thuế quan để tiếp cận thị trường với mức thuế thấp Các nước phát triển có thể đưa 4% sản phẩm vào danh mục nhạy cảm, hoặc 6% nếu cung cấp thêm hạn ngạch thuế quan Đối với các nước đang phát triển, quy định cắt giảm thuế thấp hơn áp dụng cho "sản phẩm đặc biệt".
Các nước phát triển cần cắt giảm 50% mức thuế trong hạn ngạch thuế quan, hoặc giảm xuống còn 10% nếu mức cắt giảm không đạt 50% Mức thuế cao nhất trong hạn ngạch hiện tại là 17,5% và sẽ được điều chỉnh trong giai đoạn thực hiện tiếp theo.
Các mức thuế hiện tại dưới 5% thì phải cắt giảm xuống 0% vào cuối năm đầu của giai đoạn thực hiện 97
Các nước phát triển sẽ bị giới hạn trong việc sử dụng biện pháp SSG đối với các sản phẩm chịu thuế từ Vòng đàm phán Uruguay Biện pháp này sẽ được cắt giảm, chỉ áp dụng cho 1% sản phẩm nông nghiệp và sẽ phải được loại bỏ sau 7 năm Trong thời gian áp dụng, mức thuế SSG không được tăng cao hơn mức thuế ràng buộc trước Vòng đàm phán Doha.
Quy định về Cơ chế tự vệ đặc biệt mới (SSM) 98 cho các nước đang phát triển sẽ được thông qua
Các nước đang phát triển, các nước mới gia nhập (RAM) và các nước nhỏ với nền kinh tế dễ bị tổn thương (SVE) sẽ nhận được ưu đãi về mức cắt giảm và thời gian thực hiện theo quy định về hỗ trợ đặc biệt và khác biệt (SDT).
Hỗ trợ trong nước Đề xuất cắt giảm các loại hỗ trợ trong nước gây bóp méo thương mại sẽ được tiến hành đồng loạt theo 3 hướng:
Th nh t, từng nhóm hỗ trợ sẽ phải cắt giảm hoặc hạn chế
Th hai, trong từng nhóm sẽ có hạn chế đối với hỗ trợ cho các sản phẩm cụ thể
Thụy Sĩ được phép duy trì mức thuế 0% cho hai loại thuế đối với rượu đóng chai và không phải giảm thuế bánh mì ngũ cốc xuống 10% Để bù đắp, Thụy Sĩ sẽ cung cấp cơ hội tiếp cận thị trường tương ứng với mức tiêu thụ nội địa 1%.
- 99 Recent Added Members: (RAM): Bao gồm các nước gia nhập WTO sau 1995