Khái quát về lao động nữ
Lao động và vai trò của lao động trong phát triển kinh tế
Lao động là hoạt động có mục đích và ý thức của con người, sử dụng sức mạnh cơ thể và công cụ để tác động lên tư liệu sản xuất, biến đổi vật chất thành sản phẩm có ích phục vụ nhu cầu xã hội Qua đó, lao động không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống mà còn cải tạo chính con người Như Ph Ăngghen đã nói, "Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người," cho thấy lao động đã góp phần tạo ra bản thân con người.
Lao động từ xa xưa đã trở thành hoạt động thiết yếu cho nền kinh tế - xã hội, không thể thiếu trong quá trình sản xuất Người lao động và tư liệu sản xuất là hai nhân tố quan trọng, và lao động đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra hàng hóa Hàng hóa, sản phẩm của lao động, thỏa mãn nhu cầu con người thông qua trao đổi và mua bán, là hình thái biểu hiện phổ biến nhất của của cải.
Người lao động được hiểu là những cá nhân sở hữu sức lao động, nhưng không phải tất cả những người có sức lao động đều được coi là người lao động Lao động có khả năng tạo ra hàng hóa và của cải vật chất, tuy nhiên, sức lao động không phải là hàng hóa vì nó không có tính chất mua bán hay trao đổi Sức lao động tồn tại bên trong mỗi con người và bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, dẫn đến việc nó không thể được buôn bán hay trao đổi như hàng hóa thông thường.
1 Ph.Ăngghen (1971), Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.151-152
2 Bộ Giáo dục và đào tạo (2012), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, tr 132
3 Bộ Giáo dục và đào tạo (2012), Tlđd số 2, tr 189
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Để xác định xem Lương Vĩnh Nghi 2 động có được xem là hàng hóa hay không, cũng như liệu người có sức lao động đó có được coi là người lao động hay không, cần dựa vào hai điều kiện cơ bản.
Người lao động cần có quyền tự do về thân thể và làm chủ sức lao động của mình, bao gồm quyền bán sức lao động như hàng hóa Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, nô lệ không được công nhận là người lao động vì họ thuộc sở hữu của chủ nô, không có quyền quyết định nghề nghiệp hoặc bán sức lao động của mình.
Người lao động phải bị tước đoạt tư liệu sản xuất, buộc họ phải bán sức lao động để sinh tồn Trong khi đó, những người sở hữu tư liệu sản xuất có khả năng tự tạo ra sản phẩm và của cải, không cần phải bán sức lao động Do đó, sức lao động chỉ được coi là hàng hóa khi người lao động không sở hữu bất kỳ tư liệu sản xuất nào.
Trong xã hội hiện đại, sức lao động được coi là hàng hóa, dẫn đến việc mua bán sức lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động Người lao động bán sức lao động của mình để nhận tiền tương ứng với giá trị lao động, trong khi người sử dụng lao động chi tiền để mua sức lao động, tạo ra sản phẩm và lợi nhuận Tuy nhiên, sản phẩm và lợi nhuận này thuộc về người sử dụng lao động, khiến người lao động chịu sự quản lý và kiểm soát từ phía họ Điều này tạo ra sự mất cân bằng quyền lợi, với người lao động thường ở vị thế yếu hơn Do đó, mối quan hệ lao động giữa hai bên thường phát sinh mâu thuẫn, yêu cầu Nhà nước phải can thiệp bằng pháp luật và các công cụ khác để điều chỉnh mối quan hệ này, đảm bảo quyền lợi cho người lao động - bên yếu thế hơn.
Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam khẳng định quyền của công dân trong việc lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc, điều này thể hiện công dân là chủ thể quan trọng trong quan hệ lao động Tuy nhiên, không phải tất cả công dân đều có điều kiện để thực hiện quyền này một cách đầy đủ.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động 2012, người lao động được định nghĩa là những cá nhân từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý của người sử dụng lao động Để trở thành người lao động trong quan hệ pháp luật lao động, cá nhân cần đáp ứng đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật lao động, thể hiện qua trí lực và thể lực Người lao động còn phải tuân thủ các yêu cầu về độ tuổi và các quy định liên quan đến hợp đồng lao động Đổi lại, họ sẽ nhận được lương và các quyền lợi thiết yếu khác, đảm bảo sức lao động được sản xuất và tái tạo hiệu quả.
Khi đề cập đến vai trò của lao động trong nền kinh tế, chúng ta thực sự đang nhấn mạnh tầm quan trọng của con người Nguồn lao động không chỉ là yếu tố sản xuất mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), nguồn lao động là dân số trong độ tuổi lao động, bao gồm những người có khả năng lao động, đang có việc làm hoặc thất nghiệp Hầu hết các quốc gia công nhận rằng nguồn lao động, cùng với tài nguyên, vốn và công nghệ, là một trong những yếu tố chính cho sự phát triển kinh tế Tuy nhiên, phân tích lý luận và thực tiễn cho thấy nguồn lao động là nhân tố quyết định trong việc tái tạo, sử dụng và phát triển các nguồn lực khác Nếu không có nguồn lao động vững chắc với đầy đủ yếu tố như thể chất, trình độ văn hóa, kỹ thuật và kinh nghiệm, các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng hiệu quả, dẫn đến lãng phí và cạn kiệt.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Việc phát triển khoa học công nghệ cao không làm giảm vai trò của yếu tố con người; ngược lại, nguồn lao động chất lượng cao về trí tuệ và kỹ năng đang trở thành lợi thế quan trọng cho mỗi quốc gia Đảng ta đã chỉ đạo: “Lấy việc phát huy yếu tố con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững,” coi nguồn lực con người là nội lực thiết yếu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Khác với các nguồn lực khác, nguồn lao động có khả năng tạo ra cả cung lẫn cầu cho nền kinh tế, và con người là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội Khi nền kinh tế phát triển, lực lượng lao động trí óc ngày càng gia tăng, lấn át lao động chân tay Để tồn tại và phát triển, con người cần được đáp ứng các nhu cầu vật chất; sự tiêu dùng không chỉ tiêu hao hàng hóa mà còn là động lực phát triển xã hội Trong nền kinh tế thị trường, khối lượng và cơ cấu tiêu dùng quyết định quy mô và cơ cấu sản xuất kinh doanh, đặc biệt tại các khu vực đông dân cư, nơi nhu cầu tiêu dùng cao thu hút đầu tư Trong xu thế hội nhập toàn cầu, nguồn lao động dồi dào với chất lượng ngày càng cao sẽ giúp Việt Nam có lợi thế khi tham gia vào thị trường lao động quốc tế.
Lao động nữ trong quan hệ lao động thuộc nền kinh tế thị trường
Quan hệ lao động đề cập đến các mối quan hệ cá nhân và tập thể giữa người lao động và người sử dụng lao động tại nơi làm việc, phát sinh từ công việc Nó cũng bao gồm các mối quan hệ giữa đại diện của người lao động và người sử dụng lao động ở cấp ngành, cấp quốc gia, cùng với sự tương tác của các bên này với Nhà nước Các mối quan hệ này xoay quanh các khía cạnh pháp lý và kinh tế.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.85
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Lương Vĩnh Nghi chỉ ra rằng các lĩnh vực xã hội học và tâm lý học liên quan đến nhiều vấn đề trong quản lý nhân sự, bao gồm tuyển dụng, thuê mướn, sắp xếp công việc, đào tạo, kỷ luật, thăng chức, và các phúc lợi cho người lao động Trong pháp luật lao động Việt Nam, quan hệ lao động được định nghĩa là "quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động."
Trước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp, trong đó mọi quan hệ kinh tế và xã hội đều bị điều chỉnh bằng phương pháp mệnh lệnh Quan hệ lao động trong giai đoạn này cũng chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, dẫn đến việc làm, tiền lương và phúc lợi hoàn toàn do Nhà nước bao cấp Tuy nhiên, mô hình này đã bộc lộ nhiều khuyết điểm, gây ra tình trạng đói nghèo và khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng Quan hệ lao động chủ yếu là giữa các xí nghiệp nhà nước và cán bộ, không có sự thương lượng hay thỏa thuận, chỉ mang tính hành chính Sự can thiệp quá mức của Nhà nước đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, buộc Nhà nước phải thực hiện các chính sách đổi mới để khắc phục khủng hoảng Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình này.
12 năm 1986 đã đề ra giải pháp được đánh giá là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh
6 David Macdonald and Caroline Vardenabeele (1996), Glossary of Industrial Relations and Related Terms
7 khoản 6 Điều 3 Bộ luật Lao động 2012
Quan hệ lao động ở Việt Nam có những đặc trưng riêng, bao gồm sự tương tác giữa người lao động và người sử dụng lao động, cũng như các vấn đề liên quan đến việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực lao động Việc hiểu rõ các đặc điểm này là cần thiết để cải thiện môi trường làm việc và đảm bảo quyền lợi cho người lao động Các nghiên cứu và trao đổi về luật lao động sẽ giúp nâng cao nhận thức và thực thi pháp luật hiệu quả hơn trong bối cảnh hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
SVTH: Lương Vĩnh Nghi cho rằng việc xóa bỏ nền kinh tế tự cung tự cấp kém phát triển là cần thiết để giải phóng năng lượng sản xuất Điều này sẽ phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, thúc đẩy năng suất sản xuất và giúp nền kinh tế nước ta từng bước tiến lên, hướng tới nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kể từ khi Việt Nam bắt đầu thời kỳ đổi mới, quan hệ lao động đã trở thành một phần thiết yếu của quan hệ thị trường Sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, trong đó các quan hệ kinh tế được thực hiện thông qua mua bán Quan hệ lao động đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, không còn mang tính mệnh lệnh - phục tùng mà được xây dựng trên sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động Người sử dụng lao động có quyền đưa ra các điều kiện tuyển dụng phù hợp, trong khi người lao động có quyền tự do lựa chọn việc làm và yêu cầu phúc lợi xứng đáng Từ góc độ khác, quan hệ lao động không chỉ là một mối quan hệ kinh tế mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, đồng thời vừa mang tính cá nhân vừa mang tính tập thể, chịu sự quản lý của Nhà nước Điều này khẳng định tầm quan trọng của quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước khi tiến hành đổi mới, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào nông nghiệp, chiếm 95% cơ cấu kinh tế, dẫn đến lợi nhuận thấp và chỉ đủ cho tự cung tự cấp Tuy nhiên, giai đoạn đổi mới với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện cho sự hình thành thị trường lao động, giải phóng lực lượng sản xuất và tối ưu hóa nguồn lực cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa Đồng thời, thị trường trong nước ngày càng được mở rộng, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài và thúc đẩy xây dựng các khu công nghệ cao, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự đa dạng hóa nền kinh tế.
9 Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Kinh tế Chính trị, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
SVTH đã phát triển 7 loại hình sản xuất kinh doanh, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động trên toàn quốc, đặc biệt là phụ nữ Các ngành nghề như thủ công mỹ nghệ, gốm, giày da và may mặc ngày càng cần nhiều lao động nữ để đáp ứng nhu cầu gia công và sản xuất Một số lĩnh vực chủ yếu sử dụng lao động nữ bao gồm làm thuê trong hộ gia đình (93,0%), giáo dục và đào tạo (71,1%), cũng như dịch vụ lưu trú và ăn uống (69,6%) Đáng chú ý, tỷ lệ lao động tự làm và lao động gia đình của phụ nữ cao hơn nam giới tới 11,6%, cho thấy nhu cầu sử dụng lao động nữ đang gia tăng, mở ra nhiều cơ hội cho họ tham gia vào các thành phần kinh tế.
Nhu cầu lao động nữ ngày càng tăng, đồng thời khả năng của họ cũng được xã hội công nhận hơn Bảng biểu dưới đây cho thấy sự gia tăng số lượng lao động nữ tham gia vào thị trường lao động qua từng năm, tính đến quý hiện tại.
Lao động nữ ở Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển Sự xuất hiện của máy móc và công nghệ hiện đại yêu cầu lao động nữ không ngừng nâng cao trình độ, tay nghề và tác phong làm việc để đáp ứng nhu cầu đa dạng từ các nhà tuyển dụng, không chỉ dừng lại ở việc bán sức lao động chân tay Dưới đây là bảng biểu tỷ lệ lao động trong độ tuổi.
10 Tổng cục thống kê, Báo cáo điều tra Lao động – việc làm năm quý IV năm 2015
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Từ năm 2009 đến quý VI năm 2015, số lượng lao động nữ trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo tăng dần qua từng năm, cho thấy sự phát triển tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn của lao động nữ.
Năm Tổng số (%) Nam (%) Nữ (%)
Lao động nữ với những đặc điểm nổi bật như tính chịu thương chịu khó, cẩn trọng, sáng tạo và khéo léo đã có mặt trong hầu hết các ngành nghề, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế Sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra nhiều cơ hội cho lực lượng lao động nữ, giúp họ phát huy tối đa nguồn lực tiềm tàng của xã hội.
Khái niệm và đặc trưng của lao động nữ
Khái niệm lao động nữ
Lao động là việc sử dụng sức mạnh tiềm tàng trong cơ thể để tác động đến tư liệu sản xuất và tạo ra sản phẩm, do đó việc bán sức lao động có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và thể chất của người lao động Để tham gia vào quá trình lao động một cách an toàn và hợp lý, mỗi cá nhân cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện pháp luật quy định, bao gồm tình trạng sức khỏe bình thường, khả năng thực hiện công việc theo yêu cầu nghề nghiệp, và nhận thức rõ về hành vi lao động cùng mục đích, nhiệm vụ của công việc.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Mọi người đều có tình trạng thể lực và trí lực như nhau, được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích tương đương Tuy nhiên, các yếu tố như giới tính, sinh lý, độ tuổi và điều kiện gia đình có thể ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng lao động Chẳng hạn, người khuyết tật có khả năng lao động hạn chế hơn người khỏe mạnh, hay người lao động chưa thành niên chưa phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ cũng gặp khó khăn trong công việc Đặc biệt, lao động nữ không chỉ thực hiện nghĩa vụ lao động mà còn phải đảm nhận vai trò làm mẹ, vợ, dẫn đến gánh nặng công việc gia tăng Những đặc điểm riêng này hạn chế sự tự do và khả năng thăng tiến trong sự nghiệp của họ, khiến họ chỉ phù hợp với một số môi trường lao động nhất định, được gọi là lao động đặc thù.
Aristotle từng nói rằng "Hình thức bất công tồi tệ nhất chính là biến những thứ không đồng đều trở nên bình đẳng." Điều này cho thấy việc áp dụng pháp luật một cách đồng nhất cho những đối tượng có bản chất và khả năng khác nhau có thể dẫn đến sự bất công Đặc biệt, cần có quy định pháp luật cụ thể để bảo vệ quyền lợi của người lao động đặc thù, như người lao động cao tuổi (nam trên 60 tuổi và nữ trên 55 tuổi) và người lao động chưa thành niên (dưới 18 tuổi) Tuy nhiên, hiện nay chưa có khái niệm pháp lý rõ ràng về lao động nữ, chỉ có thể hiểu rằng họ là những người lao động mang giới tính nữ.
Lao động nữ cũng được công nhận là người lao động hợp pháp, cần đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật lao động Cụ thể, theo khoản 1 Điều 3 Bộ Luật Lao Động 2012, họ phải có đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự để tham gia vào thị trường lao động một cách hợp pháp và hiệu quả.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
SVTH: Lương Vĩnh Nghi 10 là một đối tượng lao động từ 15 tuổi trở lên, dưới sự quản lý của người sử dụng lao động và nhận lương cho công việc của mình.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 164 Bộ Luật Lao Động 2012, trong một số trường hợp nhất định, người dưới 15 tuổi có khả năng lao động có thể được xem là người lao động Người sử dụng lao động chỉ được phép sử dụng trẻ em dưới 15 tuổi trong những điều kiện cụ thể.
Người sử dụng lao động chỉ được phép tuyển dụng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi cho các công việc nhẹ theo quy định của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Các công việc này bao gồm nghệ thuật như diễn viên, múa, hát, xiếc, và các ngành nghề thể thao như vận động viên năng khiếu Để làm việc, người lao động phải có sức khỏe phù hợp và có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ Người sử dụng lao động cũng phải lập sổ theo dõi riêng và đảm bảo thời gian làm việc không quá 4 giờ/ngày và 20 giờ/tuần, không làm thêm giờ hay làm việc vào ban đêm Hợp đồng lao động phải được ký kết bằng văn bản với người đại diện hợp pháp và sự đồng ý của người lao động Pháp luật quy định các chế tài nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm, với mức phạt từ 10 triệu đến 25 triệu đồng Việc sử dụng lao động dưới 15 tuổi được phép nhưng cần tuân thủ các quy định chặt chẽ.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
SVTH: Lương Vĩnh Nghi 11 nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa đủ 15 tuổi, độ tuổi mà các em vẫn cần đến trường để nhận được giáo dục cơ bản, góp phần cho sự phát triển tương lai.
Pháp luật quy định một số trường hợp lao động nữ bị hạn chế năng lực pháp luật trong một số ngành nghề và chức vụ cụ thể, theo Điều 160 BLLĐ 2012 và Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Dù lao động nữ có đủ điều kiện về khả năng lao động và năng lực hành vi, họ vẫn không được phép tham gia vào những ngành nghề đã được quy định.
Lao động nữ tại Việt Nam không chỉ bao gồm công dân trong nước mà còn có thể là người nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Để làm việc tại Việt Nam, lao động nước ngoài cần đáp ứng các điều kiện theo Điều 169 BLLĐ 2012, bao gồm: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trình độ chuyên môn và sức khỏe phù hợp với công việc, không có tiền án hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, và có giấy phép lao động do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, trừ một số trường hợp ngoại lệ được quy định tại Điều 172 BLLĐ 2012 và hướng dẫn tại Nghị định 11/2016/NĐ-CP.
Thứ hai, lao động nữ là người lao động có giới tính nữ
Giới tính là sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ, với những đặc điểm cố định từ khi sinh ra Nữ giới có cơ thể phù hợp cho việc mang thai và nuôi dưỡng con, trong khi nam giới sản xuất tinh trùng để thụ thai Mặc dù khoa học đã phát triển đến mức có thể thụ tinh trong ống nghiệm, việc cấy ghép phôi thai vào tử cung của phụ nữ vẫn là cần thiết, khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc duy trì nòi giống Do đó, bên cạnh khả năng lao động và sản xuất, phụ nữ còn đóng góp quan trọng trong việc sinh con và nuôi dưỡng thế hệ tiếp theo.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy bình đẳng giới Bài viết cung cấp thông tin cần thiết về các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức và hành động trong cộng đồng Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào liên kết trên.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Lương Vĩnh Nghi 12 nhấn mạnh vai trò cao quý của phụ nữ trong thiên chức làm mẹ Phụ nữ không chỉ tham gia vào quá trình lao động sản xuất mà còn đóng góp quan trọng trong việc tái sản xuất nguồn lao động cho xã hội thông qua khả năng sinh sản.
Khái niệm lao động nữ theo pháp luật lao động được hiểu là phụ nữ trong độ tuổi lao động, từ đủ 15 tuổi hoặc từ 13 đến dưới 15 tuổi trong một số trường hợp cụ thể, có khả năng lao động phù hợp và không thuộc các trường hợp bị cấm theo pháp luật Bên cạnh đó, lao động nữ còn bao gồm cả phụ nữ nước ngoài đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Đặc trưng lao động nữ
Lao động nữ, thuộc nhóm lao động đặc thù, có những đặc điểm riêng biệt cần được hiểu rõ để tối ưu hóa nguồn lực này Đặc trưng tự nhiên của lao động nữ thể hiện qua cấu tạo cơ thể và sức khỏe, ảnh hưởng đáng kể đến khả năng tham gia lao động của họ.
Vai trò của lao động nữ đối với nền kinh tế
Người phụ nữ luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội và nền kinh tế, không chỉ là lực lượng lao động chủ chốt mà còn góp phần tái sản xuất nguồn nhân lực qua quá trình sinh sản Họ đã làm giàu cho xã hội và làm phong phú đời sống con người thông qua sự sáng tạo và tinh tế trong văn hóa Bên cạnh việc tạo ra giá trị vật chất và tinh thần, phụ nữ còn tích cực tham gia vào các phong trào đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc, thể hiện tinh thần hy sinh vì sự phát triển chung của nhân loại.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Trong suốt lịch sử nhân loại, vai trò của người phụ nữ đã trải qua nhiều thay đổi đáng kể, với mỗi thời kỳ thể hiện những giá trị và vị trí khác nhau trong xã hội Từ những giai đoạn cổ đại đến hiện đại, người phụ nữ luôn đóng góp quan trọng vào sự phát triển của cộng đồng và gia đình, mặc dù sự công nhận và đánh giá về vai trò của họ thường không đồng nhất.
Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ và đặc biệt là phụ nữ phải chịu sự phân chia giai cấp rõ rệt, với chủ nô nắm giữ tư liệu sản xuất và người nô lệ chỉ được xem như hàng hóa Nữ nô lệ phải đối mặt với sự bóc lột tàn nhẫn và thường xuyên bị coi như công cụ giải trí Thời kỳ phong kiến, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” tiếp tục kìm hãm sự phát triển của phụ nữ, khiến họ không có cơ hội học hành và không có tiếng nói trong các vấn đề xã hội Đến thời tư bản chủ nghĩa, vai trò của phụ nữ dần được nâng cao nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, với chỉ một số ít phụ nữ có quyền lực, trong khi phần lớn phải làm việc vất vả và đối mặt với rủi ro trong cuộc sống Sự thay đổi thực sự chỉ đến sau cuộc Cách mạng tháng Mười Nga.
Năm 1917 đánh dấu sự giải phóng giai cấp công nhân khỏi áp bức, cùng với những cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ vì quyền lợi của phụ nữ từ 1857 đến 1911 trên toàn thế giới, đã khẳng định vai trò của phụ nữ ngày càng rõ nét Để kỷ niệm sự đoàn kết và tiến bộ này, ngày 8 tháng 3 hằng năm được chọn là Ngày Quốc tế Phụ nữ, được công nhận ở nhiều quốc gia như Angola, Belarus, Bulgaria, Nga, Ukraina, Uzbekistan và cả Việt Nam Tại Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ đã ăn sâu vào tâm trí người dân qua nhiều thế hệ, từ hình ảnh người mẹ, người chị trong cuộc đấu tranh giành độc lập đến những người phụ nữ dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu và làm hậu phương vững chắc cho đất nước Người phụ nữ Việt Nam không chỉ là biểu tượng của sức mạnh mà còn là nguồn động lực trong công cuộc kháng chiến.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Lương Vĩnh Nghi 18 hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” mà Bác Hồ đã trao tặng Trong thời bình, phụ nữ Việt Nam vẫn giữ vững những đức tính cao đẹp, chỉ thay đổi để phù hợp với dòng chảy lịch sử và cống hiến cho xã hội Ngoài việc chăm lo cho gia đình và thực hiện thiên chức làm mẹ, lao động nữ Việt Nam tham gia vào hầu hết các lĩnh vực đời sống Dù trong bối cảnh kinh tế lạc hậu, họ vẫn chăm chỉ, cống hiến sức lao động với kiến thức hạn chế Khi xã hội phát triển, lao động nữ trở thành lực lượng không thể thiếu trong các ngành nghề đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ và sáng tạo, khẳng định vị thế như một nguồn lực tiềm năng trong phát triển kinh tế.
Trong thời đại mới, nguồn lao động nữ trí thức ngày càng đông đảo và giữ nhiều vị trí quan trọng trong xã hội, với tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII đạt 24,4%, cho thấy sự tiến bộ trong công cuộc phát triển đất nước Trong ngành giáo dục, nữ giáo viên chiếm khoảng 80% tổng số, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho tương lai Số lượng nữ doanh nhân cũng gia tăng, với 25% doanh nghiệp tại Việt Nam do phụ nữ làm chủ, trong đó 22% là doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngoài ra, lao động nữ còn đóng góp tích cực cho văn hóa nghệ thuật, bảo tồn và sáng tạo những giá trị văn hóa độc đáo cho đất nước.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Vai trò của lao động nữ trong nền kinh tế không chỉ giới hạn ở việc tạo ra giá trị vật chất và tinh thần, mà còn thể hiện ở việc họ là những người tiêu dùng tiềm năng quan trọng Phụ nữ đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế thông qua việc tiêu thụ các sản phẩm như gia dụng, thời trang, trang sức, mỹ phẩm và dịch vụ làm đẹp Hoạt động tiêu dùng của họ không chỉ làm tăng cầu cho nền kinh tế mà còn thu hút các nhà đầu tư, tạo ra lợi nhuận đáng kể.
Sự tham gia của phụ nữ vào các lĩnh vực kinh tế không chỉ thể hiện khả năng của họ mà còn bảo vệ quyền lợi và nâng cao vị thế trong xã hội hiện đại Nhằm phát huy vai trò của lao động nữ, Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho họ phát triển, góp phần xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời hội nhập với nền kinh tế quốc tế.
Những thuận lợi và khó khăn của lao động nữ khi tham gia vào quá trình
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra sự chuyển biến trong quan hệ lao động, từ hành chính sang tự do thương lượng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau Người sử dụng lao động có quyền yêu cầu tuyển dụng phù hợp, đồng thời phải đảm bảo mức lương và môi trường làm việc hợp lý theo quy định pháp luật Ngược lại, người lao động có quyền lựa chọn ngành nghề, đưa ra yêu cầu và thỏa thuận với người sử dụng lao động; quyền lợi của họ được bảo vệ tốt nhất trong trường hợp xảy ra tranh chấp lao động.
Cơ cấu kinh tế đang ngày càng được mở rộng với sự phong phú của các ngành nghề trong nhiều lĩnh vực khác nhau Sự đa dạng về loại hình doanh nghiệp và quy mô hoạt động mang đến cho người lao động nhiều lựa chọn nghề nghiệp và cơ hội việc làm hơn bao giờ hết.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Lương Vĩnh Nghi 20 đã tạo điều kiện cho một số lượng lớn lao động tham gia vào quá trình lao động, đặc biệt là sự đóng góp đáng kể từ lực lượng lao động nữ.
Doanh nghiệp nhỏ trong các lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, gốm, dệt vải và làm giày đang gia tăng, góp phần giảm tình trạng thất nghiệp ở lao động nữ Ngoài ra, các ngành văn hóa – nghệ thuật, giáo dục – đào tạo và dịch vụ cũng thu hút nhiều nữ giới tham gia tạo ra của cải vật chất và tinh thần Tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ trong độ tuổi lao động đã giảm xuống còn 2,1% vào năm 2014, giảm 0,7% so với năm 2011, cho thấy cơ hội việc làm cho phụ nữ đang ngày càng gia tăng.
Sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, thúc đẩy lao động nữ nâng cao trình độ và kỹ năng để đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng Làm việc trong môi trường chuyên nghiệp và thách thức giúp họ tích lũy kinh nghiệm và rèn luyện kỹ năng cần thiết cho sự nghiệp Nhờ đó, chất lượng lao động nữ được cải thiện, mở ra nhiều cơ hội thăng tiến trong công việc.
Đảng và Nhà nước đang ngày càng chú trọng đến tiềm năng phát triển của lao động nữ thông qua việc ban hành nhiều chính sách và quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của họ trong quan hệ lao động Những chính sách này giúp phụ nữ cân bằng giữa công việc và trách nhiệm gia đình Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng nhận thức được giá trị của nguồn nhân lực tiềm năng, sẵn sàng áp dụng các chế độ phúc lợi và trợ cấp để hỗ trợ người lao động, đặc biệt là lao động nữ, giúp họ trang trải chi phí sinh hoạt và cống hiến hiệu quả cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại nhiều lợi ích cho người lao động, đặc biệt là lao động nữ Tuy nhiên, mỗi vấn đề đều có hai mặt, và cơ chế thị trường không chỉ mở rộng cơ hội việc làm mà còn đặt ra những thách thức cho người lao động.
16 Tổng cục thống kê, Tlđd số 10
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nhưng vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu của người lao động, với 1.206 nghìn người thiếu việc làm vào năm 2014 Yêu cầu của nhà tuyển dụng ngày càng cao, buộc người lao động phải cạnh tranh khốc liệt để có được vị trí phù hợp Trong bối cảnh này, lao động nữ gặp nhiều khó khăn hơn do hạn chế về sức khỏe, gánh nặng gia đình và trình độ học vấn thấp Hơn nữa, quy định tại Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH đã thu hẹp đáng kể các ngành nghề mà lao động nữ có thể tham gia, khiến họ càng trở nên yếu thế trên thị trường lao động.
Lao động nữ hiện nay vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn do tư tưởng phân biệt giới còn tồn tại Họ thường phải cân bằng giữa công việc và gia đình, vì từ lâu việc nội trợ đã được xem là bổn phận của phụ nữ Quan niệm rằng “phụ nữ không cần học cao mà chỉ nên kết hôn, sinh con và lo việc nhà” vẫn còn phổ biến, khiến nhiều phụ nữ trở nên thụ động và thiếu kinh nghiệm xã hội, từ đó ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm việc làm Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp cũng ngần ngại trong việc tuyển dụng lao động nữ vì phải đối mặt với các quy định nghiêm ngặt về môi trường làm việc, thời gian làm việc, nghỉ ngơi và thai sản.
17 Tổng cục thống kê, Tlđd số 10
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths Bùi Thị Kim Ngân
Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp tuyển dụng lao động nữ hiện nay chưa đủ hấp dẫn, dẫn đến tâm lý e ngại phổ biến trong việc tuyển dụng Điều này cho thấy rõ ràng sự khó khăn mà lao động nữ phải đối mặt so với các loại lao động khác trên thị trường.
Phụ nữ, đặc biệt là người lao động nữ, đang phải đối mặt với nhiều tệ nạn xã hội như bạo lực gia đình, cưỡng hiếp, mại dâm và buôn bán phụ nữ - trẻ em, cùng với các căn bệnh nguy hiểm ảnh hưởng đến sức khỏe và khả năng lao động Áp lực công việc cao và tần suất làm việc nặng nề cũng dẫn đến suy giảm sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống cá nhân mà còn là một yếu tố cản trở sự phát triển của lao động nữ trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay.