1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Người nộp thuế dưới góc độ pháp luật quản lý thuế những vấn đề lý luận và thực tiễn

60 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 60
Dung lượng 1,17 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (8)
  • 3. Mục đích nghiên cứu (9)
  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (9)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (9)
  • 6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài (10)
  • 7. Bố cục của khóa luận (10)
  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI NỘP THUẾ (12)
    • 1.1. Khát quát về quan hệ pháp luật thuế (12)
      • 1.1.1. Khái niệm quan hệ pháp luật thuế (12)
      • 1.1.2. Các bộ phận cấu thành của quan hệ pháp luật thuế (13)
        • 1.1.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật thuế (13)
        • 1.1.2.2. Khách thể của quan hệ pháp luật thuế (15)
        • 1.1.2.3. Nội dung của quan hệ pháp luật thuế (15)
    • 1.2. Khái quát về người nộp thuế (16)
      • 1.2.1. Khái niệm người nộp thuế (16)
      • 1.2.2. Phân loại người nộp thuế (18)
        • 1.2.2.1. Đối tượng nộp thuế (18)
        • 1.2.2.2. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc NSNN do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật (19)
        • 1.2.2.3. Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế (21)
      • 1.2.3. Trách nhiệm pháp lý của người nộp thuế (23)
        • 1.2.3.1. Các hành vi vi phạm pháp luật thuế (24)
        • 1.2.3.2. Xử lý hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế (26)
        • 1.2.3.3. Xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế (28)
    • 1.3. Sự cần thiết phải phân định rõ người nộp thuế là ĐTNT và những người nộp thuế khác (30)
  • CHƯƠNG 2: NGƯỜI NỘP THUẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ - NHỮNG VẤN ĐỀ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN (34)
    • 2.1. Về tư cách pháp lý của người nộp thuế (34)
      • 2.1.1. Những bất cập, hạn chế của pháp luật liên quan đến tư cách pháp lý của người nộp thuế (34)
      • 2.1.2. Giải pháp (39)
    • 2.2. Về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế (41)
      • 2.2.2. Giải pháp (45)
    • 2.3. Về trách nhiệm pháp lý của người nộp thuế (48)
      • 2.3.1. Những bất cập, hạn chế của pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý của người nộp thuế (48)
      • 2.3.2. Giải pháp (52)
  • KẾT LUẬN (33)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Sự phát triển của thuế luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước Khi Nhà nước mở rộng chức năng, nhu cầu chi tiêu cũng gia tăng, đòi hỏi hệ thống pháp luật thuế phải được hoàn thiện Để các chính sách thuế thực sự đi vào cuộc sống, cần thiết phải có một cơ chế quản lý thuế hiệu quả.

Quản lý thuế không thể thiếu đối tượng người nộp thuế, đóng vai trò quan trọng trong quan hệ pháp luật thuế Việc xác định rõ người nộp thuế là cần thiết, bởi thuế là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước (NSNN) và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thuế đầy đủ sẽ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước Ngoài ra, thuế còn là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, giúp Nhà nước thúc đẩy hoặc hạn chế đầu tư, định hướng tiêu dùng và phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội Nếu xác định sai người nộp thuế, sẽ ảnh hưởng đến việc điều tiết kinh tế và tạo ra sự bất công giữa các chủ thể xã hội Do đó, việc xác định chính xác người nộp thuế là cần thiết để đảm bảo công tác hành thu hiệu quả, thực hiện mục tiêu thu đúng, thu đủ và kịp thời Khi có vi phạm thuế, việc xác định người nộp thuế sẽ giúp xác định trách nhiệm pháp lý và xử lý vi phạm một cách nghiêm minh.

Trong một Nhà nước, pháp luật là công cụ quản lý hiệu quả nhất, do đó, để quản lý thuế hiệu quả, pháp luật về quản lý thuế cần được hoàn thiện Luật Quản lý thuế 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2012 là hai bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật này Tuy nhiên, cả hai luật vẫn tồn tại nhiều vướng mắc chưa được giải quyết, gây khó khăn trong thực thi và giảm hiệu quả quản lý thuế Một vấn đề nổi bật là khái niệm “người nộp thuế” chưa được xác định rõ, khi mà Luật đồng nhất các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định với những người có nghĩa vụ nộp thuế phát sinh từ thỏa thuận dân sự Điều này dẫn đến sự không rõ ràng trong việc xác định trách nhiệm pháp lý khi vi phạm xảy ra, gây thất thu thuế và tạo ra thái độ coi thường pháp luật từ các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế.

1 Xem Điều 6, Điều 7 Luật Quản lý thuế 2006

Xuất phát từ thực tế về quản lý thuế, tác giả chọn đề tài “Người nộp thuế dưới góc độ pháp luật quản lý thuế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” cho khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật Khóa luận sẽ phân tích các quy định pháp luật liên quan đến người nộp thuế, làm rõ hai khái niệm: người nộp thuế là doanh nghiệp tư nhân (ĐTNT) và các chủ thể khác Dựa trên những phân tích lý luận, tác giả sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện Luật Quản lý thuế và pháp luật về quản lý thuế nói chung.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ khi Luật Quản lý thuế 2006 ra đời, số lượng khóa luận nghiên cứu về nội dung của luật này, đặc biệt là quy định về người nộp thuế, còn hạn chế Các khóa luận chủ yếu tập trung vào các đạo luật thuế cụ thể như "Thuế tiêu thụ đặc biệt" của Nguyễn Thị Thanh Hằng, hay "Pháp luật về phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng" của Đào Hồng Diễm Ở cấp thạc sĩ và tiến sĩ, nghiên cứu chủ yếu dừng lại ở việc phân tích tổng quát các quy định của pháp luật quản lý thuế, nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện để nâng cao hiệu quả quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường Việt Nam.

Trong lĩnh vực quản lý thuế ở Việt Nam, nhiều tác giả đã nghiên cứu các khía cạnh khác nhau, như Trần Trung Nhân với tác phẩm “Việt Nam” và Vũ Văn Cương với “Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Một số luận văn như “Pháp luật về tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế và hướng hoàn thiện” của Trần Minh Hiệp lại tập trung phân tích các loại người nộp thuế Ngoài ra, các nghiên cứu khoa học, bài viết trên tạp chí và hội thảo thường nhấn mạnh vào việc đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế, cải cách và hiện đại hóa ngành thuế, cũng như nâng cao hiệu quả quản lý thuế thông qua việc phân tích các điều luật cụ thể, như trong đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuế của Việt Nam trong tiến trình Hội nhập Kinh tế Quốc tế”.

TS Nguyễn Thị Ánh Vân 8 , bài viết “5 năm thực hiện Luật Quản lý thuế - Một số

2 Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, 2008

3 Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, 2009

4 Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, 2011

5 Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006

6 Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012

7 Luận văn cao học, Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, 2010

8 Đề tài khoa học - Trường ĐH Luật Hà Nội, 2007

Trong bài viết "Vướng mắc phát sinh cần điều chỉnh" của tác giả Việt Tuấn, tác giả đã nêu ra một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng chế tài đối với các hành vi gian lận thuế và việc nộp chậm tiền thuế Những vấn đề này cần được xem xét và điều chỉnh để nâng cao hiệu quả quản lý thuế và đảm bảo tính công bằng trong việc thực thi pháp luật.

Trong bối cảnh doanh nghiệp FDI đang gặp khó khăn với tình trạng xù nợ thuế và bỏ trốn, bài viết của tác giả Hoài Linh, "Doanh nghiệp FDI: Giải pháp nào cho tình trạng xù nợ thuế, bỏ trốn?" đã đưa ra những phân tích sâu sắc Bên cạnh đó, một số tác phẩm khác như "Một số vấn đề pháp lý về quyền của đối tượng nộp thuế" của tác giả Phan Thị Thành Dương cũng đã thảo luận về các quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế, góp phần làm rõ hơn vấn đề này.

Các nghiên cứu hiện tại chưa cung cấp một phân tích tổng hợp về người nộp thuế, đặc biệt là chưa làm rõ sự khác biệt giữa doanh nghiệp tư nhân (ĐTNT) và các đối tượng nộp thuế khác.

Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc phân tích các quy định của pháp luật về người nộp thuế, tác giả mong muốn làm rõ các vấn đề sau:

Để hoàn thiện pháp luật về người nộp thuế, cần tìm hiểu các quy định hiện hành và xác định những bất cập, thiếu sót trong quy định này Qua việc phân tích nguyên nhân của những vấn đề tồn tại, chúng ta có thể đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện hệ thống pháp luật liên quan đến người nộp thuế.

Bài viết này phân tích và so sánh địa vị pháp lý của người nộp thuế là doanh nghiệp tư nhân (ĐTNT) với các loại hình nộp thuế khác, nhằm làm rõ trách nhiệm pháp lý của từng đối tượng khi xảy ra vi phạm Việc xác định rõ ràng vai trò và nghĩa vụ của người nộp thuế sẽ giúp nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế trong cộng đồng doanh nghiệp.

Bài viết này đề xuất các giải pháp quan trọng nhằm hỗ trợ các nhà lập pháp trong việc hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý thuế đối với người nộp thuế Những giải pháp này sẽ tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc, giúp thực thi các chính sách thuế một cách hiệu quả trong thực tiễn.

Phương pháp nghiên cứu

9 Tạp chí Thuế Nhà nước số 19 (377) tháng 5/2012, tr 6-7

10 Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 09/2006, tr 63-66

11 Tạp chí Thanh tra tài chính số 120, tháng 6/2012, tr 27-28

12 Tạp chí Khoa học pháp lý số 01 năm 2005, tr 32

Khóa luận được xây dựng dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng với quan điểm của Đảng và Nhà nước về thuế và quản lý thuế Tác giả áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, bao gồm phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, lịch sử, thống kê và tổng kết thực tiễn để thực hiện khóa luận này.

Trong Chương 1, tác giả áp dụng các phương pháp phân tích và so sánh pháp luật để làm rõ các khái niệm và quy định liên quan đến quan hệ pháp luật thuế và người nộp thuế Qua đó, tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phân định rõ người nộp thuế là ĐTNT và các loại người nộp thuế khác, nhằm tạo cơ sở cho việc đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế Điều này sẽ hỗ trợ trong việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế trong Chương 2.

Trong Chương 2, các phương pháp thống kê, tổng kết thực tiễn và lịch sử sẽ được áp dụng để đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế và các quy định liên quan đến người nộp thuế, từ đó phân tích nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc Phương pháp so sánh pháp luật sẽ được sử dụng để đối chiếu các quy định của pháp luật thuế Việt Nam với thông lệ quốc tế, nhằm rút ra kinh nghiệm và đề xuất giải pháp hoàn thiện Cuối mỗi chương, tác giả cũng sẽ áp dụng phương pháp tổng hợp để tóm tắt nội dung và đưa ra kết luận cho từng chương cũng như cho toàn bộ khóa luận.

Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài

Trong những năm đầu gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn do biến động thị trường thế giới Để khuyến khích đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, Nhà nước đã áp dụng các công cụ kinh tế và thuế Việc tối ưu hóa chính sách thuế luôn là thách thức lớn cho các nhà nghiên cứu Đề tài này nhằm làm rõ sự khác biệt giữa người nộp thuế và đầu tư nước ngoài, cung cấp thông tin và giải pháp để cải thiện công tác quản lý thuế một cách khoa học và hiệu quả.

Hiện nay, việc áp dụng các đạo luật thuế gặp nhiều khó khăn do sự không rõ ràng của hành lang pháp lý Nghiên cứu đề tài này hứa hẹn sẽ mang lại ứng dụng thiết thực trong quản lý thuế, giúp ban hành các quy phạm pháp luật xác định trách nhiệm của người nộp thuế khi vi phạm, đồng thời hoàn thiện hệ thống chế tài xử lý vi phạm, từ đó nâng cao hiệu quả công tác hành thu.

Bố cục của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận được chia thành hai chương:

Chương 1 Những vấn đề lý luận chung về người nộp thuế

Chương 2 Người nộp thuế theo quy định của pháp luật quản lý thuế - Những vấn đề bất cập và giải pháp hoàn thiện

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI NỘP THUẾ

Khát quát về quan hệ pháp luật thuế

1.1.1 Khái niệm quan hệ pháp luật thuế

Theo Triết học Mác – Lênin, con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội, và bản chất của họ được hình thành từ những mối quan hệ này Vì vậy, để hiểu rõ về người nộp thuế, cần có cái nhìn tổng quát về quan hệ pháp luật thuế, trong đó người nộp thuế luôn đóng vai trò là một bên chủ thể.

Quan hệ pháp luật là những mối quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật Bản chất của quan hệ pháp luật chính là sự tương tác giữa các bên, trong đó mỗi bên có quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy định hoặc thừa nhận bởi các quy phạm pháp luật.

Thuế là khoản tiền mà cá nhân và tổ chức bắt buộc phải nộp vào ngân sách nhà nước (NSNN) mà không nhận lại giá trị tương ứng Quan hệ pháp luật thuế bao gồm các mối quan hệ xã hội phát sinh giữa người nộp thuế và Nhà nước, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật thuế Điều này bao gồm toàn bộ quy trình từ đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế, cho đến kiểm tra, thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.

Trên cơ sở khái niệm quan hệ pháp luật thuế, có thể rút ra một số đặc điểm của quan hệ pháp luật thuế như sau:

Quan hệ pháp luật thuế bao gồm hai chủ thể chính: cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý thuế Trong đó, Nhà nước, đại diện bởi cơ quan quản lý thuế, sử dụng quyền lực nhà nước để đảm bảo rằng các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định pháp luật.

Các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật thuế có mục đích khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau Nhà nước muốn thu đủ thuế và hạn chế tình trạng thất thu, trốn thuế, trong khi các chủ thể khác lại mong muốn giảm thiểu số thuế phải nộp Do đó, việc đạt được sự cân bằng giữa lợi ích của nhà nước và các chủ thể là một thách thức lớn.

13 C.Mác, Luận cương về Phoi-ơ-bắc

14 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,

15 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật thuế, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Tp Hồ Chí Minh, tr 62

Mục tiêu thu thuế của Nhà nước cần phải được thực hiện đồng thời với việc bảo đảm lợi ích cho các chủ thể khác, đây là một thách thức mà pháp luật quản lý thuế phải giải quyết hiệu quả.

Phương pháp điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ pháp luật thuế là phương pháp mệnh lệnh phục tùng, trong đó, địa vị pháp lý giữa doanh nghiệp tư nhân (ĐTNT) và Nhà nước không bình đẳng Không có sự thỏa thuận nào giữa ĐTNT và Nhà nước về số thuế phải nộp cũng như lợi ích mà ĐTNT được hưởng Nhà nước sử dụng quyền lực đặc biệt để quy định số thuế mà ĐTNT phải nộp và cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của họ.

Quan hệ pháp luật thuế và quan hệ pháp luật hành chính có những điểm tương đồng, nhưng chúng không hoàn toàn giống nhau Cả hai đều có Nhà nước là một bên chủ thể và áp dụng phương pháp điều chỉnh mệnh lệnh phục tùng, không có sự thương lượng Tuy nhiên, quan hệ hành chính chủ yếu liên quan đến việc thực hiện và điều hành giữa cơ quan nhà nước và đối tượng quản lý, được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật hành chính Khách thể của quan hệ hành chính là trật tự quản lý trong các lĩnh vực cụ thể như giải quyết khiếu nại Ngược lại, quan hệ pháp luật thuế mang bản chất tài chính, liên quan đến việc luân chuyển dòng tiền trong nền kinh tế, với quyền và nghĩa vụ được quy định bởi pháp luật thuế nhằm thực hiện chính sách thuế hiệu quả Do đó, quan hệ pháp luật thuế không thể coi là quan hệ pháp luật hành chính.

Thông qua việc phân tích khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật thuế, chúng ta có thể nhận diện bản chất và sự khác biệt giữa quan hệ này với các quan hệ pháp luật khác, đặc biệt là quan hệ pháp luật hành chính Để hiểu rõ hơn về quan hệ pháp luật thuế, tác giả sẽ đi sâu vào các bộ phận cấu thành của quan hệ này, đặc biệt tập trung vào các vấn đề liên quan đến người nộp thuế - một trong những chủ thể quan trọng của quan hệ pháp luật thuế.

1.1.2 Các bộ phận cấu thành của quan hệ pháp luật thuế

Quan hệ pháp luật thuế, giống như các quan hệ pháp luật khác, bao gồm ba bộ phận cơ bản: chủ thể, nội dung và khách thể Tuy nhiên, các bộ phận này có những đặc điểm riêng biệt do bản chất của thuế, là khoản thu bắt buộc từ ngân sách nhà nước.

1.1.2.1 Chủ thể của quan hệ pháp luật thuế

Chủ thể là yếu tố cơ bản trong việc hình thành quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật Việc xác định chủ thể giúp bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội.

Nhà nước quy định rõ ràng các tổ chức và cá nhân được phép tham gia vào các quan hệ pháp luật, cùng với các điều kiện cần thiết để trở thành chủ thể của những quan hệ này Những tổ chức và cá nhân đáp ứng các điều kiện do Nhà nước đề ra sẽ trở thành chủ thể trong quan hệ pháp luật Đặc biệt, trong lĩnh vực pháp luật thuế, có hai loại chủ thể chính là Nhà nước và người nộp thuế, cả hai đều phải thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật.

Nhà nước là chủ thể quản lý thuế, thực hiện việc thu thuế thông qua các cơ quan được giao chức năng và quyền hạn Theo quy định pháp luật, hệ thống cơ quan thuế tại Việt Nam hiện nay bao gồm các cơ quan thuế địa phương và trung ương.

Cơ quan Hải quan và Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền thu thuế, bên cạnh đó, cơ quan thuế có thể ủy nhiệm cho các tổ chức, cá nhân thu một số loại thuế theo quy định của Chính phủ Mặc dù có nhiều cơ quan có quyền thu thuế, nhưng thẩm quyền của từng cơ quan được pháp luật quy định rõ ràng, tránh sự chồng chéo Mỗi cơ quan phụ trách các loại thuế khác nhau; ví dụ, Cơ quan Hải quan chịu trách nhiệm quản lý và thu thuế liên quan đến hàng hóa xuất khẩu.

NK 20 , Cơ quan thuế có nhiệm vụ thu các khoản thuế phát sinh trên cơ sở các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở trong nước,… Đối với người nộp thuế, xét về mặt lý luận, công dân có nghĩa vụ thuế với Nhà nước, tức là toàn dân phải nộp thuế Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã ghi nhận một trong những nghĩa vụ cơ bản của công dân là nộp thuế cho nhà nước 21 Nghĩa vụ cơ bản là nghĩa vụ có từ khi một người được sinh ra, vì vậy nghĩa vụ nộp thuế không bị giới hạn bởi độ tuổi hay năng lực hành vi Nhưng dưới góc độ quan hệ pháp luật thuế, không phải ai cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật thuế Để trở thành chủ thể, cá nhân, tổ chức cần phải thỏa mãn hai điều kiện:

(i) Có năng lực chủ thể: tổ chức, cá nhân phải đảm bảo năng lực chủ thể là

Khái quát về người nộp thuế

1.2.1 Khái niệm người nộp thuế

Luật Quản lý thuế 2006 không xác định rõ các đặc điểm của người nộp thuế mà chỉ liệt kê những đối tượng thuộc diện người nộp thuế.

24 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,

25 Ts Phan Thị Thành Dương (2005), “Một số vấn đề pháp lý về quyền của ĐTNT”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 01, tr 33

26 Ts Phan Thị Thành Dương (2005), “Một số vấn đề pháp lý về quyền của ĐTNT”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 01, tr 35

Trang 11/51 những đối tượng nào Vì vậy, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm người nộp thuế

Theo PGS.TS Phan Thị Cúc và các cộng sự, người nộp thuế được định nghĩa là cá nhân hoặc tổ chức có trách nhiệm chuyển giao số tiền thuế cho nhà nước.

Theo các tác giả Võ Thế Hào, Phan Mỹ Hạnh và Lê Quang Cường, người nộp thuế có thể là người chịu thuế hoặc chỉ là người nộp thay khoản thuế, tùy thuộc vào tính chất trực thu hay gián thu của loại thuế đó.

Theo PGS.TS Nguyễn Thị Liên và TS Nguyễn Văn Hiệu, "Đối tượng nộp thuế (ĐTNT) có thể là cá nhân hoặc tổ chức được pháp luật xác định có trách nhiệm nộp thuế cho nhà nước và được gọi là người nộp thuế" Quan điểm này nhấn mạnh rằng người nộp thuế và ĐTNT là hai khái niệm đồng nhất, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa trách nhiệm nộp thuế và các chủ thể theo quy định của pháp luật.

Theo quan điểm của Trường Đại học Luật Tp HCM thì người nộp thuế là

“chủ thể thực hiện hành vi nộp tiền thuế vào NSNN…” 30

Hiện nay, chưa có khái niệm thống nhất về người nộp thuế, với một số quan điểm cho rằng người nộp thuế chính là ĐTNT Dựa trên các quy định của Luật Quản lý thuế 2006, có thể hiểu người nộp thuế là đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, bao gồm cả cá nhân, tổ chức và hộ gia đình.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Quản lý thuế 2006, người nộp thuế bao gồm 3 nhóm chủ thể:

Một là , tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế (còn gọi là ĐTNT);

Các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có trách nhiệm nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước (gọi chung là thuế), được quản lý bởi cơ quan thuế theo quy định của pháp luật.

Ba là , tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay ĐTNT

Tính đến ngày 31/10/2011, cả nước có 14.678.067 người nộp thuế đang hoạt động, trong đó có 560.243 doanh nghiệp và tổ chức, 1.665.540 hộ cá thể, và 12.452.284 cá nhân nộp thuế thu nhập cá nhân Số lượng người nộp thuế ngày càng gia tăng, phản ánh sự phát triển của xã hội, với đại đa số là cá nhân và hộ gia đình, cho thấy vai trò quan trọng của họ so với các doanh nghiệp.

27 PGS.TS Phan Thị Cúc, TS Phan Hiển Minh, ThS Nguyễn Thị Mỹ Linh, ThS Đoàn Văn Đính, ThS Võ văn Hợp (2009), Thuế, Nxb Tài chính, tr 13

28 Võ Thế Hào, Phan Mỹ Hạnh, Lê Quang Cường (2008), Giáo trình Thuế, Nxb Lao động, tr 19

29 Học viện tài chính, PGS.TS Nguyễn Thị Liên, TS Nguyễn Văn Hiệu (2007), Giáo trình Thuế, Nxb Tài chính, Hà Nội

30 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật thuế, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Tp Hồ Chí Minh, tr 52

31 Chính phủ, Báo cáo Tổng kết đánh giá tình hình thực hiện Luật quản lý thuế (2012)

Nhiều hộ gia đình có quy mô nhỏ và thiếu kiến thức về kinh tế tài chính, dẫn đến việc chấp hành pháp luật thuế chưa cao Điều này gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc quản lý Để nâng cao hiệu quả thu nộp thuế và ngăn chặn thất thu ngân sách nhà nước, cần phải hoàn thiện và hiện đại hóa công tác quản lý thuế, từ chính sách đến tổ chức bộ máy.

1.2.2 Phân loại người nộp thuế

Khái niệm người nộp thuế bao gồm nhiều nhóm chủ thể khác nhau, mỗi nhóm có đặc trưng riêng và được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật thuế khác nhau Việc phân loại người nộp thuế là cần thiết để đảm bảo pháp luật điều chỉnh phù hợp Theo Điều 2 Luật Quản lý thuế 2006, người nộp thuế được chia thành ba nhóm: (1) Đối tượng nộp thuế, (2) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan thuế quản lý, và (3) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ chức, cá nhân thực hiện thủ tục thuế thay cho người nộp thuế.

1.2.2.1 Đối tượng nộp thuế ĐTNT là những tổ chức, cá nhân tác động vào đối tượng chịu thuế của một sắc thuế, chịu sự điều chỉnh của sắc thuế đó và phải thực hiện 4 nghĩa vụ cụ thể trong tổng thể nghĩa vụ thuế là đăng ký, kê khai, nộp và quyết toán thuế 32 Một chủ thể chỉ trở thành ĐTNT khi họ thỏa mãn 2 điều kiện: (1) có hành vi tác động lên đối tượng chịu thuế và (2) hành vi đó phải được sắc thuế quy định là làm phát sinh nghĩa vụ thuế Điều đó có nghĩa là để trở thành ĐTNT của một loại thuế, điều kiện trước hết là cá nhân, tổ chức phải có hành vi tác động lên đối tượng chịu thuế của loại thuế đó Ví dụ: đối tượng chịu thuế của thuế nhập khẩu là hàng hóa nhập khẩu, doanh nghiệp có hành vi nhập khẩu hàng hóa tức là doanh nghiệp thỏa mãn điều kiện tác động lên đối tượng chịu thuế của thuế nhập khẩu Tuy nhiên, không phải mọi tổ chức, cá nhân có hành vi tác động lên đối tượng chịu thuế đều là ĐTNT Hành vi của họ phải được pháp luật thuế quy định làm phát sinh nghĩa vụ thuế, hay nói cách khác, không thuộc các trường hợp không chịu thuế Ví dụ: mặc dù doanh nghiệp trong khu phi thuế quan có hành vi nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài vào khu phi thuế quan nhưng họ không phải là ĐTNT nhập khẩu 33 ; hoặc người nhận hàng viện trợ nhân đạo mặc dù có hành vi NK hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB nhưng họ không phải là ĐTNT của thuế TTĐB 34 ,…

Để trở thành đối tượng nộp thuế (ĐTNT), tổ chức và cá nhân không chỉ cần đáp ứng các điều kiện chung mà còn phải thỏa mãn các điều kiện đặc thù theo yêu cầu của từng loại thuế.

32 Ts Phan Thị Thành Dương (2005), “Một số vấn đề pháp lý về quyền của ĐTNT”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 01, tr.32

33 Điều 3 Luật Thuế XK, NK 2005

Để trở thành đối tượng nộp thuế TNDN, tổ chức cần đáp ứng ba điều kiện: (1) phải là tổ chức, (2) thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, và (3) có thu nhập từ hoạt động đó Do đó, cá nhân không thể là đối tượng nộp thuế TNDN Ngược lại, đối tượng nộp thuế TNCN bao gồm cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, cùng với cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam Tổ chức không thể là đối tượng nộp thuế TNCN.

Cơ sở phát sinh tư cách chủ thể và nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT là hành vi tác động lên đối tượng chịu thuế theo quy định của pháp luật thuế Điều này có nghĩa rằng chủ thể thực hiện hành vi đó phải nộp thuế cho nhà nước, xác định nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT là nghĩa vụ luật định Khi Nhà nước thu thuế từ một hành vi, điều đó cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước công nhận hành vi đó là hợp pháp.

Đối tượng nộp thuế (ĐTNT) có những đặc điểm riêng biệt so với các chủ thể nộp thuế khác, vì ĐTNT là yếu tố thiết yếu trong một đạo luật thuế và hoạt động của nó được quy định cụ thể bởi pháp luật thuế Trong khi đó, các chủ thể như tổ chức kinh doanh dịch vụ thuế, đại lý hải quan, hay cá nhân khấu trừ thuế không phải là yếu tố bắt buộc trong một đạo luật thuế, và nghĩa vụ nộp thuế của họ phát sinh từ hợp đồng dân sự hoặc quan hệ ủy quyền Những người nộp thuế thay không cần đáp ứng các điều kiện như ĐTNT; ví dụ, cá nhân có thể nộp thuế thay cho ĐTNT trong thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), trong khi tổ chức có thể nộp thuế thay cho cá nhân trong thuế thu nhập cá nhân (TNCN).

Đối tượng nộp thuế cá nhân (ĐTNT) đóng vai trò quan trọng trong hệ thống thuế, chịu trách nhiệm chính trước Nhà nước về nghĩa vụ nộp thuế Chính vì vậy, các đạo luật đã quy định rất chi tiết về đối tượng này để đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.

1.2.2.2 Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc NSNN do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật

Sự cần thiết phải phân định rõ người nộp thuế là ĐTNT và những người nộp thuế khác

Việc xác định khái niệm ĐTNT và người nộp thuế là rất quan trọng trong thực tiễn áp dụng pháp luật Khái niệm “người nộp thuế” bao gồm cả ĐTNT, với ĐTNT là chủ thể chịu trách nhiệm trước Nhà nước về đăng ký, kê khai và nộp thuế vào NSNN Ngoài ĐTNT, người nộp thuế còn gồm các tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế và thực hiện thủ tục thuế thay cho ĐTNT Thực tiễn cho thấy, một chủ thể không phải ĐTNT của một sắc thuế vẫn có thể là người nộp thuế của sắc thuế đó Ví dụ, ĐTNT của thuế TNCN không thể là tổ chức, nhưng người nộp thuế TNCN có thể là tổ chức khấu trừ thuế Tương tự, ĐTNT của thuế TNDN chỉ là tổ chức, nhưng cá nhân cũng có thể nộp thuế TNDN thay cho doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.

Quan hệ giữa doanh nghiệp tư nhân (ĐTNT) và cơ quan quản lý thuế khác biệt hoàn toàn so với mối quan hệ giữa các người nộp thuế khác với cơ quan này Nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT được quy định trong các đạo luật thuế cụ thể, xuất phát từ hậu quả của hành vi tác động lên đối tượng chịu thuế theo sắc thuế tương ứng.

Vì vậy, ĐTNT buộc phải nộp thuế vào NSNN mà không được quyền lựa chọn Còn

Người nộp thuế có nghĩa vụ phát sinh từ các thỏa thuận dân sự như ủy quyền nộp thuế và nộp thuế thay, không ảnh hưởng đến đối tượng chịu thuế Nghĩa vụ nộp thuế của họ xuất phát từ thỏa thuận với ĐTNT Nếu người nộp thuế không thực hiện nghĩa vụ theo ủy quyền, ĐTNT sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý trước thuế, trong khi nghĩa vụ của người nhận ủy quyền được điều chỉnh bởi giao dịch dân sự Nếu người nhận ủy quyền không thực hiện nghĩa vụ, họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước người ủy quyền.

Lợi ích mà doanh nghiệp tư nhân (ĐTNT) và những người nộp thuế khác nhận được khi tham gia vào quan hệ pháp luật thuế là khác nhau ĐTNT hưởng lợi gián tiếp từ các dịch vụ công như cơ sở hạ tầng, chế độ phúc lợi xã hội và môi trường sống an toàn do Nhà nước đảm bảo Ngược lại, tổ chức và cá nhân khấu trừ thuế lại nhận lợi ích từ việc cung cấp dịch vụ cho ĐTNT, tức là họ nộp thuế để nhận thù lao từ việc thực hiện thủ tục thuế thay cho ĐTNT Do đó, việc đối xử bình đẳng giữa hai nhóm này về quyền và nghĩa vụ là không phù hợp.

Việc phân biệt giữa người nộp thuế là ĐTNT và các loại người nộp thuế khác là một vấn đề quan trọng nhưng thường bị nhầm lẫn trong thực tiễn Khái niệm “người nộp thuế” và “ĐTNT” cần được hiểu rõ để xác định quyền và nghĩa vụ của từng nhóm đối tượng một cách chính xác Nếu các nhóm đối tượng có quyền và nghĩa vụ chung chung, sẽ dẫn đến sự thực hiện tùy tiện và khó khăn trong quản lý thuế Do đó, việc rõ ràng trong phân định quyền và nghĩa vụ giữa ĐTNT và các người nộp thuế khác sẽ mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cho hệ thống thuế.

Việc phân định rõ ràng quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong lĩnh vực thuế là rất quan trọng để đảm bảo tuân thủ pháp luật của cá nhân và tổ chức Do tính chất bắt buộc và không hoàn trả của thuế, người nộp thuế thường cảm thấy gánh nặng và chỉ nhận thấy nghĩa vụ mà không có quyền lợi, dẫn đến tâm lý trốn thuế và gian lận thuế Do đó, cần quy định cụ thể quyền lợi của người nộp thuế nhằm cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế Đồng thời, việc phân định quyền và nghĩa vụ giữa các nhóm người nộp thuế sẽ giúp họ nhận thức rõ vai trò của mình trong quan hệ pháp luật thuế, từ đó thực hiện đúng các quy định pháp luật và tránh vi phạm.

Xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quản lý thuế sẽ giúp hạn chế các tiêu cực xảy ra, từ đó nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.

Khi quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế không được quy định rõ ràng, dễ dẫn đến tình trạng nhũng nhiễu từ các cơ quan, cán bộ công quyền trong quá trình thực thi quyền hành thu thuế Việc xác định rõ ràng các quyền và nghĩa vụ này sẽ nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong công tác quản lý thuế Quản lý thuế hiệu quả không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn đảm bảo mục đích thu thuế được thực hiện đúng cách, từ đó phát huy vai trò quan trọng của thuế trong nền kinh tế.

Việc phân định rõ trách nhiệm của ĐTNT và các người nộp thuế khác là rất cần thiết để áp dụng chế tài chính xác trong trường hợp vi phạm pháp luật về thuế Khi vi phạm xảy ra, Nhà nước có thể xác định nhanh chóng người chịu trách nhiệm, từ đó đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, nâng cao tính răn đe và khuyến khích việc chấp hành đúng quy định thuế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác hành thu.

Việc phân định rõ ràng giữa ĐTNT và các đối tượng nộp thuế khác là cần thiết để đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật thuế.

Hiện nay, hệ thống pháp luật thuế có sự không thống nhất trong việc quy định các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước Luật Quản lý thuế 2006 không định nghĩa rõ ràng về đối tượng nộp thuế (ĐTNT), mà chỉ đưa ra khái niệm người nộp thuế Trong khi đó, các luật thuế cụ thể lại sử dụng thuật ngữ ĐTNT và người nộp thuế một cách khác nhau Pháp luật là công cụ quan trọng để quản lý nhà nước và xã hội; nếu không rõ ràng và nhất quán, sẽ gây ra hậu quả tiêu cực Để quản lý hiệu quả, Nhà nước cần hoàn thiện pháp luật, trong đó việc phân định rõ ĐTNT và các loại người nộp thuế khác là điều cần thiết.

Với những ý nghĩa quan trọng nêu trên và thực trạng pháp luật quản lý thuế liên quan đến ĐTNT và các đối tượng nộp thuế khác còn chưa rõ ràng, việc phân tích cụ thể pháp luật để chỉ ra sự khác biệt giữa hai nhóm đối tượng này là rất cần thiết Điều này không chỉ giúp nhận diện thực tiễn mà còn tạo cơ sở cho việc thực thi pháp luật hiệu quả, và tác giả sẽ thực hiện điều này trong chương tiếp theo.

62 Điều 2 Luật thuế TNCN, Điều 4 Luật thuế XK, NK

63 Điều 4 Luật thuế GTGT, ĐIều 2 Luật thuế TNDN, Điều 4 Luật thuế TTĐB

Trong Chương 1, tác giả phân tích ba vấn đề lý luận chung về người nộp thuế, bao gồm khái quát về quan hệ pháp luật thuế, khái quát về người nộp thuế, và sự cần thiết phải phân định rõ giữa người nộp thuế là doanh nghiệp tư nhân (ĐTNT) và những người nộp thuế khác.

Trong phần khái quát về quan hệ pháp luật thuế, tác giả đã trình bày khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật thuế thông qua các khái niệm chung như quan hệ pháp luật, chủ thể, khách thể và nội dung Bài viết làm rõ bản chất của quan hệ pháp luật thuế, phân biệt nó với các quan hệ pháp luật khác, đồng thời nhấn mạnh các đặc trưng của quan hệ này Đặc biệt, tác giả lý giải vai trò quan trọng của người nộp thuế như một chủ thể không thể thiếu trong quan hệ pháp luật thuế.

Tác giả làm rõ khái niệm người nộp thuế, phân loại và trách nhiệm pháp lý của họ theo quy định của Luật Quản lý thuế Người nộp thuế được định nghĩa cụ thể, cùng với các nhóm phân loại khác nhau và các nghĩa vụ pháp lý mà họ phải thực hiện.

NGƯỜI NỘP THUẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ - NHỮNG VẤN ĐỀ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:20

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bộ luật Hình sự Đối tượng nộp thuế  Giá trị gia tăng  Ngân sách nhà nước  Thu nhập cá nhân  Thu nhập doanh nghiệp  Trách nhiệm hành chính  Trách nhiệm hình sự  Tiêu thụ đặc biệt  Xuất khẩu, nhập khẩu  Xã hội chủ nghĩa  - Người nộp thuế dưới góc độ pháp luật quản lý thuế những vấn đề lý luận và thực tiễn
lu ật Hình sự Đối tượng nộp thuế Giá trị gia tăng Ngân sách nhà nước Thu nhập cá nhân Thu nhập doanh nghiệp Trách nhiệm hành chính Trách nhiệm hình sự Tiêu thụ đặc biệt Xuất khẩu, nhập khẩu Xã hội chủ nghĩa (Trang 4)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w