1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Người làm chứng cho việc lập di chúc theo quy định của pháp luật dân sự việt nam

69 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Người Làm Chứng Cho Việc Lập Di Chúc Theo Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Hoa Huệ
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Thể loại Luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2017
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 69
Dung lượng 835,61 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN ĐỂ CÁ NHÂN TRỞ THÀNH NGƯỜI LÀM CHỨNG CHO VIỆC LẬP DI CHÚC (12)
    • 1.1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc bị loại trừ là người làm chứng (14)
      • 1.1.1. Người thừa kế theo di chúc bị loại trừ là người làm chứng (14)
      • 1.1.2. Người thừa kế theo pháp luật không được là người làm chứng cho việc lập di chúc (17)
      • 1.1.3. Kiến nghị (20)
    • 1.2. Mối quan hệ giữa người làm chứng cho việc lập di chúc và người viết hộ (22)
      • 1.2.1. Người viết hộ di chúc là người làm chứng cho việc lập di chúc (22)
      • 1.2.2. Kiến nghị (26)
  • CHƯƠNG 2. THỰC HIỆN LÀM CHỨNG CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG CHO VIỆC LẬP DI CHÚC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT (29)
    • 2.1. Cách thức thực hiện của người làm chứng đối với việc lập di chúc miệng (30)
    • 2.2. Cách thức thực hiện của người làm chứng đối với việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng (36)
  • PHỤ LỤC (48)

Nội dung

ĐIỀU KIỆN ĐỂ CÁ NHÂN TRỞ THÀNH NGƯỜI LÀM CHỨNG CHO VIỆC LẬP DI CHÚC

Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc bị loại trừ là người làm chứng

Trong quan hệ thừa kế, người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật sẽ nhận di sản từ người lập di chúc Bộ luật Dân sự 2015 lo ngại rằng việc người thừa kế làm chứng cho di chúc có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vì quyền lợi hợp pháp của họ có thể bị tác động Hơn nữa, tâm lý của người lập di chúc có thể bị ảnh hưởng, dẫn đến việc họ không thể tự do quyết định tài sản của mình Do đó, nguyên tắc yêu cầu người làm chứng cho di chúc phải là những người không phải là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.

BLDS 2015 quy định rằng người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật không được làm chứng cho việc lập di chúc, tuy nhiên vẫn có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này.

1.1.1 Người thừa kế theo di chúc bị loại trừ là người làm chứng

Theo quy định tại khoản 1 Điều 626 BLDS 2015, người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế mà không cần phụ thuộc vào bất kỳ ai Sự hiện diện của người làm chứng chỉ mang tính thủ tục nhằm đảm bảo tính hợp pháp của di chúc, không ảnh hưởng đến quyền chỉ định người thừa kế Do đó, người thừa kế có thể đồng thời là người làm chứng, miễn là họ thể hiện tính khách quan trong việc này.

Trong cuốn "Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế" do Lê Minh Hùng làm chủ biên (2012), xuất bản bởi Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh và Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, trang 252, tác giả đã trình bày các khía cạnh quan trọng của pháp luật liên quan đến tài sản và quyền thừa kế.

Theo quan điểm thứ hai, quy định của Bộ luật Dân sự 2015 loại trừ người thừa kế theo di chúc khỏi vai trò làm chứng cho việc lập di chúc là hợp lý Cụ thể, "Người thừa kế theo di chúc không thể là người làm chứng cho việc lập di chúc" nhằm đảm bảo tính khách quan trong quá trình lập di chúc Việc này là cần thiết vì người thừa kế có thể bị ảnh hưởng bởi lợi ích cá nhân, dẫn đến việc họ có thể tác động đến nội dung di chúc theo hướng có lợi cho mình, gây bất lợi cho những người khác.

Trong thực tiễn xét xử, TAND đã áp dụng quy định của BLDS về việc không công nhận di chúc hợp pháp nếu người làm chứng là người thừa kế Vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất giữa ông Giầu và bà Thành cùng các bên liên quan như bà Em, Châu, Thùy, Cúc, chị Hoa, anh Phước và ông Diệp đã nêu rõ vấn đề này Cụ Hía và cụ Thoãng có hai con trai, trong đó ông Em có bốn con gái Sau khi cụ Hía kết hôn với cụ Thông, cụ Thông đã có tám người con riêng Năm 1976, cụ Hía và cụ Thông đã khai hoang 12.159 m² đất, nhưng sau khi chuyển nhượng, diện tích còn lại là 10.924 m² Cụ Thông qua đời năm 1998 mà không để lại di chúc Ngày 14/3/2002, cụ Hía lập "Tờ ủy quyền" cho ông Giầu hưởng thừa kế tài sản, và cụ Hía qua đời vào ngày 31/3/2002.

Vấn đề pháp lý trong vụ việc liên quan đến "Tờ ủy quyền" mà cụ Hía lập đã được xem xét qua Quyết định giám đốc thẩm dưới góc độ là bản di chúc Cụ Hía, người không biết chữ, theo quy định tại khoản 3 Điều 655 và Điều 659 BLDS 1995 (khoản 3 Điều 652 và Điều 656 BLDS 2005), bản di chúc sẽ được coi là hợp pháp nếu có ít nhất hai người làm chứng và bản di chúc đó phải được lập thành văn bản bởi người làm chứng Tuy nhiên, ông Giầu là người viết bản di chúc này.

17 Xem thêm: Đỗ Văn Đại, tlđd (11), tr 533

Quyết định số 164/2008/DS-GĐT của Tòa dân sự TAND tối cao ngày 18/7/2008 nêu rõ rằng ông Giầu không thể vừa là người làm chứng cho việc lập di chúc vừa là người thừa kế theo di chúc Do đó, các bản án của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất không đủ căn cứ để công nhận "Tờ ủy quyền" của cụ Hía là di chúc hợp pháp.

Trong vụ việc liên quan đến việc lập di chúc, các cấp Tòa án có quan điểm khác nhau về vai trò của người làm chứng và người thừa kế Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm công nhận tính hợp pháp của bản di chúc của cụ Hía, đồng thời thừa nhận ông Giầu, người thừa kế theo di chúc, cũng có thể là người làm chứng Ngược lại, Tòa dân sự TAND tối cao cho rằng ông Giầu không thể đồng thời là người làm chứng và người thừa kế, vì ông là người viết bản di chúc.

Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của Tòa dân sự TAND tối cao và phản đối cách giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm Việc Tòa dân sự TAND tối cao hủy bản án của hai cấp tòa này là hoàn toàn đúng theo quy định pháp luật Cụ thể, theo Điều 654 BLDS 2005 (Điều 632 BLDS 2015), người thừa kế theo di chúc không được làm chứng, dẫn đến vi phạm về mặt hình thức của di chúc, khiến Tòa án không thể công nhận di chúc là hợp pháp Hơn nữa, việc người thừa kế theo di chúc vừa là người viết di chúc, vừa là người làm chứng tạo ra sự thiếu khách quan và công bằng trong quá trình xét xử.

Theo Điều 632 BLDS 2015, chỉ quy định người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc, nhưng chưa giải quyết trường hợp người vừa là thừa kế theo di chúc vừa là thừa kế theo pháp luật Nếu một người có nhiều tài sản và nhiều di chúc khác nhau, việc họ làm chứng cho di chúc của khối tài sản này có thể dẫn đến những tranh cãi về tính hợp lệ Quan điểm của tác giả cho rằng người làm chứng không được chấp nhận nếu họ vừa là người thừa kế theo di chúc vừa là người thừa kế theo pháp luật, dựa trên quy định hiện hành Tòa án cũng đã có hướng giải quyết tương tự, theo đó những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật không đủ điều kiện làm chứng cho di chúc, như trong trường hợp của anh Thuân, chị Bẩy và chị Hương đối với ông Châu và bà Tính.

20/10/2011 của Tòa dân sự TAND tối cao)" 19

1.1.2 Người thừa kế theo pháp luật không được là người làm chứng cho việc lập di chúc

Người thừa kế có thể được xác định theo hai hình thức: thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc Trong trường hợp không có di chúc hợp pháp, hoặc khi những người thừa kế theo di chúc không còn sống tại thời điểm mở thừa kế, di sản sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật Điều 632 BLDS 2015 không chỉ rõ cụ thể ai là người thừa kế theo pháp luật, cho phép hiểu rằng có thể là những người thuộc cả ba hàng thừa kế Quy định này nhằm ngăn chặn việc người thừa kế theo pháp luật gây ảnh hưởng đến ý chí của người lập di chúc, ví dụ như khi người lập di chúc muốn để lại tài sản cho một cháu ngoại nhưng các con của họ lại có ý định khác.

19 Xem thêm: Đỗ Văn Đại, tlđd (11), tr 535-536

20 Những trường hợp thừa kế theo pháp luật (Điều 650 BLDS 2015)

Pháp luật dân sự hiện hành loại trừ nhóm đối tượng người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc khỏi việc làm chứng cho việc lập di chúc Tuy nhiên, nhiều ý kiến không đồng tình với lý do này, cho rằng việc người thừa kế làm chứng cho di chúc của người khác mà không nhận lợi ích gì từ đó là không hợp lý Do đó, quan điểm này khuyến nghị không nên loại trừ người thừa kế theo pháp luật, bao gồm cả ba hàng thừa kế, khỏi việc làm chứng cho việc lập di chúc.

Một quan điểm khác cũng không hoàn toàn đồng ý với quy định của pháp luật dân sự Theo đó, quan điểm này cho rằng BLDS 2015 (trước đây là BLDS

Theo quy định của BLDS 1995 và 2005, có ba hàng thừa kế theo pháp luật, dẫn đến số lượng người thừa kế tương đối lớn Quan điểm cho rằng không nên cấm tất cả ba hàng thừa kế này làm chứng cho việc lập di chúc, bởi vì theo văn hóa Việt Nam, lập di chúc là một sự kiện quan trọng trong đời sống gia đình Người lập di chúc thường không muốn công khai nội dung cho nhiều người biết, do đó họ ưu tiên nhờ người thân hoặc bạn bè đáng tin cậy làm chứng Nếu loại trừ hoàn toàn ba hàng thừa kế khỏi việc làm chứng, số lượng người đáng tin cậy sẽ rất hạn chế, thậm chí không còn ai Điều này có thể tạo ra rào cản, hạn chế quyền lập di chúc của cá nhân.

Cần mở rộng danh sách những người có thể làm chứng cho việc lập di chúc đối với những người thừa kế theo pháp luật, đặc biệt là những người không được chỉ định thừa kế trong di chúc.

Mối quan hệ giữa người làm chứng cho việc lập di chúc và người viết hộ

Người viết hộ di chúc đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người để lại tài sản trong quá trình lập di chúc Trong nhiều trường hợp, người có tài sản không thể tự viết di chúc nên cần nhờ người khác thực hiện Hiện nay, quan điểm của các tòa án về tư cách của người viết hộ di chúc và người làm chứng vẫn còn khác nhau.

1.2.1 Người viết hộ di chúc là người làm chứng cho việc lập di chúc

Trong lịch sử pháp luật thừa kế Việt Nam, người viết hộ di chúc đã có vai trò quan trọng và được quy định khác nhau qua các thời kỳ Thời kỳ Lê, quyền lập di chúc của người sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, cho phép họ tự viết di chúc để định đoạt tài sản cho người thừa kế Nếu người lập di chúc không biết chữ, họ có thể nhờ một vị quan trưởng trong làng viết hộ, với sự chứng kiến của người khác Tuy nhiên, di chúc sẽ không có hiệu lực nếu không có người làm chứng.

Bộ luật Hồng Đức 26 đã điều chỉnh cụ thể hơn về người được nhờ viết hộ di chúc so với pháp luật thừa kế triều Lê, yêu cầu người viết phải là "quan trưởng trong làng" và "ba mươi tuổi trở lên" Ngoài ra, Bộ luật Hồng Đức quy định rõ ràng về hậu quả pháp lý khi không nhờ quan trưởng viết thay, với hình phạt "80 trượng" và việc di chúc không có giá trị Những quy định này thể hiện sự tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức, được xem là đỉnh cao của hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam.

Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 quy định ba hình thức chúc thư, bao gồm chúc thư do nô-tê lập, chúc thư có viên chức thị thực và chúc thư không có viên chức thị thực.

25 Trích dẫn thông qua tài liệu: Phùng Trung Tập, "Lược sử pháp luật thừa kế Việt Nam từ thế kỷ XV đến nay", Đại học Luật Hà Nội, tr 3

Bộ luật Hồng Đức khuyến khích việc lập di chúc viết để người để lại tài sản thể hiện ý chí của mình Đối với những người không biết chữ, pháp luật cho phép nhờ quan trưởng trong làng từ ba mươi tuổi trở lên viết và chứng kiến chúc thư để đảm bảo tính hợp pháp Nếu không thực hiện đúng quy định này, người lập di chúc sẽ bị phạt 80 trượng và chúc thư sẽ không có giá trị pháp lý.

Trong các hình thức chúc thư, chỉ có chúc thư do nô-te lập là không quy định về người viết hộ, trong khi hai hình thức chúc thư còn lại đều cho thấy sự hiện diện của người viết hộ Đặc biệt, hình thức chúc thư có viên chức thị thực thể hiện rõ dấu hiệu này.

"người viết hộ chúc thư phải đề họ và tên vào di chúc, phải ký tên vào chúc thư" (Điều 325 Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931) 27

Thông tư số 81 năm 1981 không điều chỉnh cũng như không có bất cứ quy định nào về người viết hộ di chúc

Pháp lệnh thừa kế năm 1990 quy định rằng người lập di chúc có quyền tự viết hoặc nhờ người khác viết di chúc Theo Điều 14, để đảm bảo tính hợp pháp, người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt người có trách nhiệm chứng thực tại cơ quan công chứng hoặc UBND xã, phường, thị trấn.

Theo Điều 659 Bộ luật Dân sự 1995, nếu người lập di chúc không thể tự viết, họ có thể nhờ người khác viết, nhưng cần có ít nhất hai người làm chứng Điều 656 Bộ luật Dân sự 2005 vẫn giữ nguyên quy định này.

Theo Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015, nếu người lập di chúc không tự viết di chúc của mình, họ có thể nhờ người khác viết, nhưng cần có ít nhất hai người làm chứng Trong trường hợp này, có ba chủ thể tham gia: (1) Người để lại di sản (người lập di chúc); (2) Người viết hộ; và (3) Người làm chứng.

Theo Bộ luật Dân sự 2015, không có quy định rõ ràng về người viết hộ di chúc, trong khi lại có điều luật cụ thể cho người làm chứng Điều này cho thấy rằng, về nguyên tắc, người lập di chúc có thể nhờ bất kỳ ai biết đọc, viết để viết hộ di chúc Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng cần có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể hơn về điều này để đảm bảo tính hợp pháp và minh bạch trong việc lập di chúc.

Trong tài liệu của Phạm Kim Anh, "Mấy đặc trưng trong pháp luật thừa kế thời phong kiến và thời thuộc địa của thực dân Pháp," được xuất bản bởi Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã phân tích những đặc điểm nổi bật của pháp luật thừa kế trong hai giai đoạn lịch sử này Nội dung nghiên cứu không chỉ làm rõ sự khác biệt giữa pháp luật thừa kế phong kiến và thực dân mà còn nêu bật ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa, xã hội đến quy định pháp lý trong từng thời kỳ.

Theo quy định tại Điều 634 BLDS 2015 về di chúc bằng văn bản có người làm chứng, điều này gần như kế thừa nguyên vẹn từ Điều 659 BLDS 1995 và Điều 656 BLDS 2005 Do đó, những phân tích và bình luận về các vụ án liên quan đến BLDS 1995 và BLDS 2005 vẫn có giá trị đối với BLDS 2015 Một câu hỏi quan trọng đặt ra là mối quan hệ giữa người viết hộ di chúc và người làm chứng cho việc lập di chúc là gì? Liệu người viết hộ có thể đồng thời là người làm chứng hay không? Câu trả lời cho câu hỏi này có hệ quả pháp lý quan trọng, vì nếu câu trả lời là có, nhiều di chúc sẽ hợp pháp về hình thức; ngược lại, nếu câu trả lời là không, nhiều di chúc sẽ không có giá trị pháp lý do vi phạm hình thức Mặc dù BLDS 2015 không quy định rõ ràng vấn đề này, nhưng cũng không cấm, dẫn đến sự tồn tại của nhiều quan điểm khác nhau.

Theo quan điểm thứ nhất, Bộ luật Dân sự 2015 không cấm người viết hộ di chúc đồng thời là người làm chứng cho việc lập di chúc Do đó, nếu người viết hộ di chúc đáp ứng đủ điều kiện và số lượng người làm chứng theo quy định tại Điều 632 và Điều 634, họ có thể tham gia làm chứng cho việc lập di chúc.

Quan điểm thứ hai nhấn mạnh rằng để đảm bảo tính khách quan trong việc xác định liệu người viết hộ di chúc có thực hiện đúng ý nguyện của người lập di chúc hay không, ngoài sự tham gia của người lập di chúc và người viết hộ, người lập di chúc nên lựa chọn những người làm chứng không liên quan đến người viết hộ di chúc.

Trong thực tiễn xét xử, có sự khác biệt trong việc chấp nhận người viết hộ di chúc đồng thời là người làm chứng cho việc lập di chúc Một ví dụ điển hình là Quyết định số 231/2006/DS-GĐT ngày 28/9/2006 của Tòa dân sự TAND tối cao, trong đó ông Biết lập di chúc vào ngày 03/01/2001 với hai người làm chứng là Nguyễn Văn Thắng và Lương Văn Dầm, trong đó ông Thắng cũng là người viết hộ di chúc Điều này đặt ra câu hỏi liệu ông Thắng có thể vừa là người viết hộ vừa là người làm chứng cho di chúc hay không.

THỰC HIỆN LÀM CHỨNG CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG CHO VIỆC LẬP DI CHÚC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

Cách thức thực hiện của người làm chứng đối với việc lập di chúc miệng

Di chúc miệng và vai trò của người làm chứng trong việc lập di chúc miệng đã được pháp luật dân sự Việt Nam công nhận qua các thời kỳ Thông tư số 81 năm 1981 chỉ đưa ra quy định chung về việc người làm chứng phải bảo đảm di chúc miệng, nhưng không nêu rõ cách thức và hình thức bảo đảm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 lại không đề cập đến người làm chứng Các quy định về thủ tục lập di chúc miệng được quy định trong Bộ luật Dân sự 1995, 2005 và các bộ luật tiếp theo.

Luật Dân sự 2015 quy định rằng di chúc miệng phải được thực hiện trước mặt ít nhất hai người làm chứng để thể hiện ý chí cuối cùng của người lập di chúc Theo Điều 627, di chúc cần được lập thành văn bản, nhưng trong trường hợp không thể, di chúc miệng sẽ được chấp nhận Di chúc miệng là hình thức thể hiện ý chí của người lập di chúc thông qua lời nói khi tính mạng bị đe dọa, nhằm chuyển giao tài sản cho người khác sau khi qua đời.

Di chúc miệng là sự tuyên bố ý chí bằng lời nói về việc định đoạt tài sản của người để lại, nhưng do "lời nói" có thể bị quên lãng, nếu không được ghi chép và lưu trữ cẩn thận, sẽ không đảm bảo tính chính xác và có thể không phản ánh đúng tâm nguyện cuối cùng của người quá cố Hơn nữa, tác động tâm lý và tình cảm của người làm chứng cũng có thể ảnh hưởng đến việc ghi nhận ý chí của người lập di chúc.

Di chúc có thể được lập dưới hình thức chúc thư viết hoặc di chúc miệng, theo quy định tại Mục A Phần IV Thông tư số 81 năm 1981 Đối với di chúc miệng, cần có người làm chứng để đảm bảo tính hợp pháp Điều 18 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 quy định rằng trong trường hợp tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng, nếu không thể lập di chúc viết, di chúc miệng vẫn được coi là hợp pháp nếu người để lại di sản tự nguyện lập và minh mẫn Tuy nhiên, sau ba tháng từ ngày lập di chúc miệng, nếu người lập còn sống và minh mẫn, di chúc này sẽ bị coi là hủy bỏ.

Khoản 1 Điều 654 BLDS 1995 quy định về di chúc miệng như sau: " Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ"

Khoản 5 Điều 652 BLDS 2005 giữ nguyên quy định về di chúc miệng như khoản 1 Điều 654 BLDS 1995 Khoản 5 Điều 630 BLDS 2015 quy định: "Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ ". làm chứng sẽ thuật lại theo những cách khác nhau phụ thuộc ý chí chủ quan cũng như tâm lý của mỗi người Bên cạnh đó, vì khả năng nghe và hiểu của mỗi người là khác nhau, dẫn tới khả năng diễn đạt của mỗi người cũng khác nhau Chính vì lẽ đó, để tránh các khả năng di chúc miệng không phản ánh xác thực nội dung của di chúc hoặc diễn đạt nội dung di chúc theo ý chí chủ quan của người chứng kiến, pháp luật dân sự quy định di chúc miệng cũng phải được đưa về dưới hình thức bằng văn bản với những quy định chặt chẽ, trong đó có nội dung liên quan đến người làm chứng

Người làm chứng trong việc lập di chúc miệng phải thực hiện ba nhiệm vụ chính: đầu tiên, chứng kiến việc người lập di chúc thể hiện ý chí cuối cùng; thứ hai, ghi chép lại ý chí đó; và thứ ba, ký tên hoặc điểm chỉ vào văn bản di chúc theo yêu cầu của Bộ luật Dân sự 2015 Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, việc chứng kiến và ký tên thường không được các cấp TAND coi trọng, dẫn đến việc công nhận di chúc miệng gặp khó khăn Mục 2.1 của bài viết sẽ làm rõ hơn về vai trò của người làm chứng trong việc ghi chép ý chí cuối cùng của người di chúc miệng.

Di chúc miệng là loại di chúc được thể hiện bằng lời nói trong một khoảnh khắc nhất định, nhưng nội dung của nó có thể khó xác thực nếu không được ghi chép lại Để tránh những tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai, pháp luật yêu cầu cần phải ghi chép lại di chúc miệng nhằm đảm bảo tính hợp lệ và rõ ràng của nội dung.

Thông tư số 81 năm 1981 và Pháp lệnh thừa kế năm 1990 không yêu cầu ghi chép di chúc miệng vào văn bản, trong khi Bộ luật Dân sự qua các thời kỳ lại yêu cầu việc này phải được thực hiện bởi người làm chứng Điều này cho thấy rằng chỉ có người làm chứng mới có quyền thực hiện việc ghi chép lại ý chí và nguyện vọng của người để lại tài sản, từ đó làm nổi bật vai trò quan trọng của người làm chứng trong việc lập di chúc miệng.

Để chứng minh sự tồn tại và nội dung của di chúc miệng, thực tiễn xét xử thường áp dụng các phương pháp khác nhau, bao gồm việc lấy lời khai từ những người làm chứng, những người thừa kế và những cá nhân có liên quan, nhằm xác nhận sự tồn tại và thống nhất về nội dung của di chúc này.

39 Xem thêm: Đỗ Văn Đại, tlđd (11), tr 509

Một quan điểm cho rằng, ý chí của người lập di chúc chỉ thể hiện qua lời nói có thể dẫn đến sự không chắc chắn về tính xác thực, đặc biệt khi người lập di chúc đã qua đời Do đó, người làm chứng phải ghi chép lại một cách chính xác và đầy đủ những lời di chúc miệng của người lập di chúc, điều này là bắt buộc trong trường hợp di chúc miệng.

Từ Bộ luật Dân sự năm 1995 đến Bộ luật Dân sự năm 2015, di chúc miệng phải được ghi chép lại dưới dạng văn bản để đảm bảo tính hợp pháp Nếu di chúc miệng không được ghi chép đúng thủ tục, nó sẽ không đáp ứng yêu cầu về mặt hình thức Vấn đề đặt ra là di chúc miệng lập nhưng không ghi chép đúng thủ tục sẽ bị xử lý như thế nào? Hiện nay, Tòa án nhân dân các cấp vẫn chưa có hướng xử lý thống nhất cho vấn đề này, điều này được thể hiện qua nghiên cứu một số bản án liên quan.

+ Di chúc miệng không được ghi chép lại bằng văn bản:

Trong Bản án số 2318/DSST ngày 19/12/2002 của TAND TP.HCM, vụ kiện tranh chấp thừa kế liên quan đến di sản thừa kế là căn nhà số A1 và A1 bis Lý Chiêu Hoàng, tài sản chung của ông Thanh và bà Thuận Ông Thanh đã qua đời vào ngày 09/4/1999, và theo lời khai của bà Thuận, ông Thanh đã nói để lại toàn bộ tài sản cho bà Lời khai này được xác nhận bởi nguyên đơn ông Hòa và ông Bình, cùng với hai nhân chứng là bác sĩ Thông và ông Mới Tuy nhiên, bác sĩ Thông và ông Mới không ghi chép lại nội dung di chúc miệng của ông Thanh.

Bản án sơ thẩm đã chấp nhận di chúc miệng của ông Thanh, điều này cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm công nhận sự tồn tại của di chúc miệng mà không cần phải ghi chép lại.

Bản án phúc thẩm của TAND TP Hồ Chí Minh không chấp nhận di chúc miệng vì không được lập theo thủ tục quy định tại khoản 1 Điều 654 Bộ luật Dân sự 1995.

Cách thức thực hiện của người làm chứng đối với việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng

Người làm chứng đóng vai trò quan trọng trong việc lập di chúc, không chỉ đối với di chúc miệng mà còn trong di chúc bằng văn bản có người làm chứng.

Pháp luật thừa kế Việt Nam đã quy định chi tiết về vai trò của người làm chứng trong di chúc bằng văn bản có người làm chứng qua các thời kỳ.

Theo quy định của pháp luật, người làm chứng trong di chúc bằng văn bản có vai trò quan trọng với ba nhiệm vụ chính: (i) xác nhận việc người lập di chúc tự tay soạn thảo hoặc nhờ người khác viết di chúc; (ii) chứng kiến người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc và xác nhận chữ ký, điểm chỉ của họ; và (iii) ký vào bản di chúc để xác thực.

Sau khi Bộ luật Dân sự 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua vào ngày 24 tháng 11 năm 2015, các quy định về thừa kế, đặc biệt là thừa kế theo di chúc, đã có những thay đổi quan trọng.

Theo Điều 659 Bộ luật Dân sự 1995, nếu người lập di chúc không thể tự viết di chúc, họ có thể nhờ người khác thực hiện, nhưng cần có ít nhất hai người làm chứng Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước sự có mặt của những người làm chứng, và những người này có trách nhiệm xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc bằng cách ký vào bản di chúc.

Quy định nêu trên được giữ nguyên tại Điều 656 BLDS 2005

BLDS 2015 đã có sự thay đổi quan trọng tại Điều 634, cho phép người lập di chúc không tự viết có thể tự đánh máy hoặc nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng Người lập di chúc cần ký hoặc điểm chỉ trước mặt các chứng nhân, và họ sẽ xác nhận chữ ký của người lập di chúc Sự điều chỉnh này nhằm khắc phục những khó khăn trong việc thực thi BLDS 2005, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau về quy định liên quan đến vai trò của người làm chứng trong việc lập di chúc Bài viết sẽ phân tích và bình luận về các quan điểm này, đồng thời nêu rõ những khó khăn và đề xuất kiến nghị để hoàn thiện nội dung điều luật.

BLDS 2015 đã bổ sung quy định cho phép người lập di chúc không tự viết mà có thể "tự mình đánh máy" và yêu cầu ít nhất hai người làm chứng Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu những người làm chứng có cần chứng kiến cả quá trình đánh máy của người lập di chúc hay không Điều này gây khó khăn trong việc giải thích và áp dụng, đặc biệt khi người lập di chúc có thể vừa đánh máy vừa không thể diễn đạt bằng lời nói Nếu người lập di chúc chỉ có khả năng viết mà không thể nói, vai trò của người làm chứng có thể chỉ là quan sát quá trình soạn thảo BLDS 2015 không cung cấp câu trả lời rõ ràng cho những vấn đề này, và đến nay, chưa có vụ việc thực tiễn nào liên quan Do đó, tác giả đề xuất TAND tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để đảm bảo sự thống nhất trong việc giải quyết các trường hợp liên quan.

Người làm chứng có vai trò quan trọng trong việc xác nhận tính hợp pháp của di chúc bằng cách chứng kiến người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc Tuy nhiên, xung quanh vai trò này vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.

Trong di chúc bằng văn bản có người làm chứng, ý chí của người lập di chúc không được thể hiện trực tiếp mà thông qua người viết hộ hoặc thiết bị điện tử Tuy nhiên, di chúc vẫn phải phản ánh rõ ràng ý chí của người lập Để đảm bảo tính hợp pháp, người lập di chúc cần ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt người làm chứng, và những người này phải xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ đó Việc này là rất quan trọng vì nó khẳng định rằng di chúc thực sự thể hiện ý chí của người lập Nếu không có chứng cứ xác định chữ ký hoặc điểm chỉ, di chúc sẽ không được coi là hợp pháp.

Quan điểm khác lại cho rằng: Trong quá trình tổng hợp kết quả điều tra

Năm 2013, Bộ Tư pháp đã thực hiện nghiên cứu về việc thi hành một số chế định của Bộ luật Dân sự 2005, trong đó nhấn mạnh rằng nhiều nhân chứng xác nhận người lập di chúc hoặc người thân của họ đã mang bản di chúc đến để nhờ ký và làm chứng, mà không trực tiếp chứng kiến quá trình lập di chúc hay ký tên Do đó, một tác giả đã đề xuất rằng Bộ luật Dân sự không nên yêu cầu người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt các nhân chứng, vì điều này không phản ánh đúng thực tế.

Trong thực tiễn xét xử, TAND các cấp thường dựa vào nội dung điều luật để quyết định việc công nhận hay không công nhận di chúc hợp pháp Cụ thể, nếu di chúc đã hoàn thiện trước khi được trình bày, điều này sẽ ảnh hưởng đến tính hợp pháp của di chúc đó.

47 Hồ Thị Vân Anh (2015), "Hoàn thiện một số quy định của BLDS 2005 về thừa kế theo di chúc", Nghề luật,

Số 02 (Tháng 3), tr 43 người làm chứng ký xác nhận (như quan điểm thứ hai) 48 hoặc trong bản di chúc không thể hiện được người làm chứng chứng kiến việc lập di chúc 49 thì di chúc đó là không hợp pháp, không được Tòa án công nhận

Vụ tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Cẩn và ông Quận liên quan đến diện tích 3.320 m² tại phường Hiệp Bình Chánh, TP.HCM, được Tòa phúc thẩm TAND tối cao xem xét theo Quyết định số 92/2010/DSPT-QĐ ngày 24/5/2010 Tờ di chúc do bà Cẩn lập ngày 24/02/2003 chỉ định bà Cúc là người thừa kế, tuy nhiên, Tòa phúc thẩm nhận định rằng di chúc này không hợp lệ do chỉ có một người làm chứng xác nhận việc lăn tay của bà Cẩn, vi phạm Điều 659 BLDS 1995 Ông Trọn, một trong hai người làm chứng, không xác nhận bà Cẩn lập di chúc trước mặt ông, dẫn đến việc Tòa phúc thẩm và TAND thành phố Hồ Chí Minh không công nhận di chúc này.

Tác giả hoàn toàn ủng hộ cách giải quyết của Tòa án trong các bản án đã được phân tích Việc người lập di chúc điểm chỉ hoặc ký vào bản di chúc trước sự chứng kiến của người làm chứng là điều cần thiết, vì đây là dấu ấn duy nhất của người lập di chúc, giúp xác định tính hợp pháp của di chúc.

Bản di chúc lập ngày 28/10/2008 không hợp pháp do những người làm chứng như ông Thịnh, ông Sáng, ông Toàn, bà Dưỡng, bà Vĩ, ông Đắc không chứng kiến việc cụ Gái lập di chúc cho ông Hiệp Mặc dù có chữ ký của họ trong bản di chúc, nhưng thực chất là do ông Hiệp soạn sẵn và mang đến từng nhà để ký Việc này vi phạm quy định tại Điều 656 BLDS 2005, dẫn đến tính hợp pháp của bản di chúc bị bác bỏ theo Quyết định số 481/2011/DS-GĐT ngày 27/6/2011 của Tòa dân sự TAND tối cao.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:20

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w